Khái niệm, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật hiến pháp

Luật Hiến pháp

Luật Hiến pháp là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam bởi Luật Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh riêng, phương pháp điều chỉnh riêng, ngoài ra còn có hệ thống các quy tắc, khái niệm riêng.

 

Những nội dung liên quan:

 

Khái niệm, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật hiến pháp

Mục lục:

  1. Khái niệm Luật hiến pháp
  2. Đối tượng điều chỉnh của Luật hiến pháp (Luật Nhà nước)
    • Nhóm quan hệ xã hội gắn với việc xác định cơ sở của quyền lực nhân dân bao gồm chế độ chính trị chế độ kinh tế văn hóa – xã hội.
    • Nhóm quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện quyền lực Nhà nước của nhân dân bao gồm tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực Nhà nước quyền và nghĩa vụ của công dân.
  3. Phương pháp điều chỉnh của Luật hiến pháp (Luật Nhà nước)

Hiến pháp

1. Khái niệm Luật hiến pháp

Luật Hiến pháp là một ngành luật gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ cơ bản về tổ chức quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ của công dân, về quốc tịch…

>>> Xem thêm: Nguồn của Luật Hiến pháp

2. Đối tượng điều chỉnh của Luật hiến pháp (Luật Nhà nước)

Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp là gì?

Đối tượng đường chính của Luật Hiến pháp là những quan hệ xã hội quan trọng của nhiệm với việc xác định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, chính sách đối ngoại và an ninh quốc phòng, địa vị pháp lý của công dân cũng như tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp gồm:

Có học giả liệt kê cụ thể những quan hệ xã hội mà luật hiến pháp điều chỉnh. Những quan hệ xã hội liên quan đến cuộc nguồn gốc của quyền lực nhà nước và bản chất quyền lực nhà nước; Những quan hệ xã hội liên quan đến mô hình nhà nước Việt Nam. Đó là mối quan hệ cho phép xác định cơ cấu tổ chức của các cơ quan nhà nước và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau; Những mối quan hệ xã hội liên quan đến việc xác định cơ sở kinh tế văn hóa xã hội của việc tổ chức nhà nước Việt Nam; Những mối quan hệ xã hội giữa nhà nước với các công dân Việt Nam nói chung… Đó là những quan hệ xã hội xác định hình thức tham gia của nhân dân vào việc quyết định các công việc của nhà nước, xác định địa vị pháp lý của công dân.

Luật hiến pháp có đối tượng điều chỉnh rộng liên quan tới nhiều lĩnh vực của đời sống nhà nước và xã hội, Điều mà các học giả đã khẳng định: “…Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp không chỉ bó hẹp trong phạm vi một loại quan hệ xã hội nhất định mà ngược lại nó điều trị nhiều loại quan hệ xã hội khác nhau trên tất cả lĩnh vực hoạt động của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”[1]. Tuy nhiên phạm vi đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp cũng có giới hạn “Phạm vi đó chị yếu chỉ giới hạn ở những quan hệ xã hội quan trọng vẫn nhìn với việc xác định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, chính sách đối ngoại và an ninh quốc phòng, địa vị pháp lý của công dân cũng như tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam[2]. Hiến pháp không thể điều chỉnh những quan hệ xã hội cụ thể trong mọi lĩnh vực mà chỉ quy định những vấn đề chung mang tính nguyên tắc, định hướng trong từng lĩnh vực, cụ thể:

+ Trong lĩnh vực chính trị, hiến pháp điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan tới việc xác định chế độ chính trị. Nội dung của chế độ chính trị bao gồm các vấn đề như chủ quyền quốc gia; bản chất Nhà nước; nguồn gốc quyền lực của Nhà nước; hình thức thực hiện quyền lực nhân dân; vai trò của đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước xã hội; vai trò của mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên của mặt trận; mục đích nhiệm vụ của Nhà nước các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước; chính sách dân tộc của Nhà nước chính sách đối ngoại của Nhà nước.

Quy chế pháp lý của lãnh thổ quốc gia

+ Trong lĩnh vực kinh tế, hiến pháp quy định mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước; chính sách phát triển kinh tế; các loại hình chế độ sở hữu chính sách của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế; chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước; các nguyên tắc Nhà nước quản lý lý kinh tế quốc dân.

Kinh doanh

+ Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội, hiến pháp quy định mục đích phát triển của nền văn hóa giáo dục, khoa học công nghệ; chính sách của Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển văn hóa giáo dục, khoa học và công nghệ; chính sách xã hội của Nhà nước.

cong-nghe

Những quan hệ xã hội trong các lĩnh vực nói trên được hiến pháp điều chỉnh ở mức độ khái quát hóa cao mang tính định hướng cơ bản. Trên cơ sở đó các luật và văn bản dưới luật sẽ điều chỉnh cụ thể những quan hệ xã hội này. Nhưng khi những quan hệ xã hội liên quan đến lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội được cụ thể hóa bằng luật học văn bản dưới luật thì bạn thân của những văn bản đó không phải là nguồn của Luật Hiến pháp mà trở thành nguồn của các ngành luật khác như kinh tế, hành chính, đất đai, lao động… chỉ có những quan hệ xã hội liên quan liên quan tới lĩnh vực chính trị khi được điều chỉnh bởi luật học sinh mà dư luận thì những văn bản này sẽ là nguồn của Luật Hiến pháp. Ví dụ: Lật Mặt trận tổ quốc Việt Nam năm 1999, Nghị định về quy chế thực hiện dân chủ ở xã năm 1998.

+ Một trong những nội dung cơ bản của hiến pháp là mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Mối quan hệ này được thể hiện thông qua những quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Đảm bảo các quyền tự do cá nhân là một trong hai nội dung cơ bản của khẩu hiệu lập hiến. Thiếu sót của hiến pháp Mỹ 1787 – Bản hiến pháp đầu tiên của nhân loại không ghi nhận các quyền tự do cá nhân đã được bổ sung bởi 10 tu chính án vào năm 1791. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ – Hiến pháp 1946 đã để ra ba nguyên tắc xây dựng hiến pháp một trong ba nguyên tắc đó là đảm bảo quyền tự do dân chủ. Và hiến pháp đã trịnh trọng khi nhận các quyền và nghĩa vụ của công dân ngay tại chương hai với 18 điều khoản.

Hiến pháp

Trải qua 5 bản hiến pháp các quyền tự do dân chủ của cá nhân ở nước Việt Nam ngày càng được mở rộng. Bên cạnh đó những quyền và nghĩa vụ của công dân còn được bảo đảm thực hiện bằng các quy định của luật và văn bản dưới luật như: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân, Luật Báo chí, Luật thiếu lại tố cáo, Luật giáo dục…

Như vậy Luật Hiến pháp không những điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản mà còn điều chỉnh những quan hệ xã hội cụ thể liên quan đến mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Tuy nhiên trong lĩnh vực này Luật Hiến pháp chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội cụ thể liên quan đến quyền nghĩa vụ của công dân trong lĩnh vực chính trị còn trong những lĩnh vực khác thì những quan hệ xã hội cụ thể lại được điều chỉnh bởi quy phạm của các ngành khác.

+ Vấn đề trọng tâm của mỗi bản hiến pháp là tổ chức Nhà nước. Nội dung của tổ chức Nhà nước bao gồm những vấn đề như tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước cấu trúc Nhà nước và thiết lập mối quan hệ giữa cơ quan Nhà nước trung ương và cơ quan chính quyền địa phương.

quan-ly-nha-nuoc

Quyền lực Nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước vì vậy hiến pháp phải quyết định cách thức thành lập phân định rõ thẩm quyền phạm vi hoạt động của các cơ quan Nhà nước đồng thời xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với nhau. Tuy nhiên trong phạm vi của mình hiến pháp chỉ quy định những vấn đề cơ bản nhất liên quan đến tổ chức và hoạt động của từng cơ quan Nhà nước như vị trí chức năng nhiệm vụ quyền hạn cơ cấu tổ chức và trình tự hoạt động chung của cơ quan Nhà nước. Trên cơ sở những quy định của hiến pháp luật pháp lệnh và một số văn bản quy phạm pháp luật khác sẽ điều chỉnh cụ thể những vấn đề này. Những văn bản này tạo thành nguồn quan trọng và chiếm một số lượng lớn trong số nguồn của Luật Hiến pháp.

Nội dung của vấn đề tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước cũng chính là nội dung của hình thức chính thể. Nhưng không thể đồng nhất chính thể với chế độ chính trị hay nói cách khác không thể đồng nhất chế độ chính trị với tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước. Vấn đề cốt lõi của chế độ chính trị là quyền lực nhân dân mà phạm trù “quyền lực nhân dân” không thể đồng nhất với phạm trù “quyền lực Nhà nước” và thực hiện quyền lực Nhà nước. Quyền lực nhân dân được thực hiện dưới nhiều hình thức, trong đó hình thức quyền lực Nhà nước là cơ bản. Như vậy chế độ chính trị thiết lập những nguyên tắc nền tảng cơ bản cho việc tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước. Hay nói cách khác chính chế độ chính trị đóng vai trò quan trọng (nếu như không nói là quyết định) đối với việc xác lập hình thức chính thể của Nhà nước.

=> Nói tóm lại, từ những phân tích trên đây có thể thấy rằng Luật Hiến pháp điều chỉnh hai nhóm quan hệ xã hội sau:

– Thứ nhất, nhóm quan hệ xã hội gắn với việc xác định cơ sở của quyền lực nhân dân bao gồm chế độ chính trị chế độ kinh tế văn hóa – xã hội.

– Thứ hai, nhóm quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện quyền lực Nhà nước của nhân dân bao gồm tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực Nhà nước quyền và nghĩa vụ của công dân.

3. Phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp

Phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp là gì?

Từ lý luận chung về pháp luật phương pháp điều chỉnh pháp luật là tổng hợp tất cả những cách thức tác động lên các quan hệ xã hội. Phương pháp điều chỉnh của ngành Luật Hiến pháp là toàn bộ những phương thức, cách thức tác động pháp lý lên những quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành Luật Hiến pháp nhằm thiết lập một trật tự nhất định phù hợp với ý chí Nhà nước. Muốn thành một của phương pháp điều chỉnh riêng phụ thuộc vào nội dung và tính chất của những quan hệ xã hội mà mình lúc đó điều chỉnh.

Phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp gồm:

Như đã trình bày ở trên, những quan hệ xã hội mang lại một tiếng pháp điều chỉnh liên quan đến quyền được nhân dân và việc thực hiện quyền lực Nhà nước của nhân dân. Bởi vậy những quan hệ xã hội đó mang tính chất quyền lực. Những quan hệ pháp Luật Hiến pháp thường là những quan hệ giữa Nhà nước và công dân Nhà nước và xã hội giữa cơ quan Nhà nước với cơ quan Nhà nước. Để điều chỉnh những quan hệ này Luật Hiến pháp cần có những cách thức tác động đặc biệt. Những cách thức mà Luật Hiến pháp sử dụng để điều chỉnh những quan hệ xã hội là:

– Phương pháp bắt buộc:

Bắt buộc, cách thức này được Sử dụng để điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến việc thực hiện quyền lực Nhà nước và xác định nghĩa vụ của công dân. Theo cách thức này quy phạm Luật Hiến pháp buộc chủ thể quan hệ pháp Luật Hiến pháp phải thực hiện hành vi nhất định.

Nghĩa vụ quân sự

Ví dụ: Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

– Phương pháp cho phép:

Cho phép, cách thức này được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội gắn với việc xác định quyền công dân và quyền hạn của các cơ quan Nhà nước. Theo cách thức này quy phạm Luật Hiến pháp cho phép chủ thể quan hệ pháp Luật Hiến pháp thực hiện hành vi nhất định.

Quốc hội

Ví dụ: Công dân đủ từ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử, đủ từ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng Nhân dân.

– Phương pháp cấm đoán:

Cấm đoán, cách thức này được sử dụng để điều chỉnh một số quan hệ xã hội liên quan đến quyền công dân và hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Theo cách này quy phạm pháp Luật Hiến pháp. Chủ thể quan hệ pháp Luật Hiến pháp thực hiện hành vi nhất định.

Bộ Luật Lao động có Điều 158 mâu thuẫn với điều 31

Ví dụ: Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công lao động dưới độ tuổi lao động.

Những cách thức của trên cũng chính là phương pháp mà luyến pháp sử dụng để tác động lên những quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của mình.

Bên cạnh đó cần phải phân biệt phương pháp điều chỉnh với sự điều chỉnh (cơ chế điều chỉnh). Sự điều chỉnh của Luật Hiến pháp là tác động của tổ chức, có mục đích của các quy phạm pháp Luật Hiến pháp lên những quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành Luật Hiến pháp nhằm điều chỉnh, bảo vệ và duy trì sự phát triển của những quan hệ xã hội đó.

Sự điều chỉnh của Luật Hiến pháp được thực hiện thông qua hệ thống những phương tiện pháp luật như quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, ý thức pháp luật trách nhiệm pháp lý và phương pháp điều chỉnh.

Để điều chỉnh những quan hệ xã hội, trước hết Luật Hiến pháp, thiết lập năng lực pháp lý cho chủ thể quan hệ pháp Luật Hiến pháp xác định quy chế pháp lý và bảo đảm việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể thông qua các phương tiện pháp lý khác.

Đối với thể nhân (công dân, cử tri, cá nhân khác) Luật Hiến pháp thiết lập năng lực pháp lý tức là quy định quyền nghĩa vụ chung không phụ thuộc vào khả năng vị trí xã hội của từng chủ thể.

Lực pháp lý của các cơ quan Nhà nước bằng hàm chức năng nhiệm vụ và quyền hạn. Mỗi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền riêng phù hợp với nhiệm vụ chung.

Năng lực pháp lý của các tổ chức xã hội và các chủ thể khác bảo hành quyền và trách nhiệm.

Khi thiết lập năng lực pháp lý cho chủ thể quan hệ pháp Luật Hiến pháp Luật Hiến pháp sử dụng các phương pháp bắt buộc, cho phép, cấm đoán.

Như vậy, việc xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể cho các chủ thể quan hệ quan hệ pháp Luật Hiến pháp không phải là phương pháp điều chỉnh như quan điểm của một số học giả mà nó phụ thuộc vào một trong những yếu tố của sự điều chỉnh (cơ chế điều chỉnh) của Luật Hiến pháp.

Ngoài ra, có quan điểm cho rằng phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp là xác định những hình thức chung mang định hướng cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ luật pháp.

– Phương pháp xác lập những hình thức chung mang tính định hướng:

Ví dụ: Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lí xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.

Quan điểm này không chính xác bởi hai lý do sau:

Thứ nhất những nguyên tắc chung (như nguyên tắc quyền lực nhân dân đại diện nhân dân, Đảng lãnh đạo, tập trung, dân chủ,…) là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống Luật Hiến pháp. Chính trên cơ sở những nguyên tắc chung này mà Luật Hiến pháp được xây dựng thành hệ thống thống nhất đồng thời là những nguyên tắc chung tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các chế định của ngành Luật Hiến pháp.

Thứ hai đã là những nguyên tắc chung thì thường mang tính khái quát hóa cao vì vậy những nguyên tắc chung không điều chỉnh những quan hệ xã hội cụ thể.

=> Nói tóm lại bắt buộc, cho phép, cấm đoán là những phương pháp mà ngành Luật Hiến pháp sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc phạm vi đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp.


[1] Xem Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Trường Đại học luật Hà Nội 1999 – Trang 6;

[2] Xem Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Khoa luật Đại học Quốc Gia Hà Nội 1999 – Trang 13 – 14;


Các tìm kiếm liên quan đến đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp: đối tượng và phương pháp điều chỉnh của luật hành chính, so sánh Luật Hiến pháp với các ngành luật khác, vai trò của ngành Luật Hiến pháp, ngành Luật Hiến pháp là gì, phương pháp điều chỉnh của ngành luật Nhà nước, khái niệm đối tượng điều chỉnh, ví dụ về Luật Hiến pháp, phương pháp điều chỉnh là gì

Đối tượng điều chỉnh của Luật hiến pháp là gì?

Đối tượng đường chính của Luật hiến pháp là những quan hệ xã hội quan trọng của nhiệm với việc xác định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, chính sách đối ngoại và an ninh quốc phòng, địa vị pháp lý của công dân cũng như tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Phương pháp điều chỉnh của ngành Luật hiến pháp gì?

Phương pháp điều chỉnh của ngành Luật hiến pháp là toàn bộ những phương thức, cách thức tác động pháp lý lên những quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành Luật Hiến pháp nhằm thiết lập một trật tự nhất định phù hợp với ý chí Nhà nước.

5/5 - (11613 bình chọn)

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Nếu cần BQT hỗ trợ gấp, vui lòng liên hệ hotline 1900.0164 bấm phím 0.