Tóm tắt giáo trình Luật Tài chính

Chuyên mụcLuật tài chính Tóm tắt giáo trình Luật Tài chính

[Hocluat.vn] Để phục vụ cho việc ôn tập của sinh viên luật, nay tôi xin hệ thống lại toàn bộ chương trình học phần Luật tài chính để các bạn xem lại, nắm vững các kiến thực trọng tâm.

 

Những nội dung liên quan được tìm kiếm:

 

Mục lục

 

Chương I – Luật Tài chính trong hệ thống pháp luật Việt Nam

I. KHÁI NIỆM TÀI CHÍNH VÀ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH

1. Khái niệm tài chính, hệ thống tài chính:

1.1 Khái niệm tài chính

Tài chính là một phạm trù kinh tế, tồn tại khách quan và mang tính lịch sử. Tài chính chỉ ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Những điều kiện kinh tế xã hội này là những tiền đề khách quan cho sự ra đời và phát triển của tài chính. Những tiền đề đó là nền kinh tế hàng hóa-tiền tệ và nhà nước.

Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chứng minh rằng, vào thời kỳ cuối của chế độ công xã nguyên thủy, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện chế độ tư hữu, sự ra đời của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Hàng hoá sản xuất ra không chỉ nhằm mục đích tự cấp mà còn được đem trao đổi nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau trong tiêu dùng. Lúc đầu là hàng đổi hàng, sau đó, do yêu cầu trao đổi và phạm vi trao đổi được mở rộng, tiền tệ xuất hiện đóng vai trị như một loại hàng hoá đặc biệt mang tính chất là vật ngang giá chung. Thông qua đồng tiền, các thành viên trong xã hội có thể sử dụng để đổi lấy bất kỳ loại hàng hóa theo nhu cầu. Những hình thái đầu tiên của tiền tệ có thể được quy ước là vỏ sò, lông thú, kim loại…

Về sau, để thuận tiện hơn cho việc cất giữ, mang theo, trao đổi, tiền tệ dần dần được chuyển sang hình thức tín tệ. Các bên trong mối quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa có thể quy ước vật ngang giá chung có giá trị là tiền. Cùng với với quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá và sự ra đời của tiền tệ, chế độ tư hữu đã nảy sinh và kéo theo những hệ quả xã hội như tình trạng phân chia giai cấp, phân biệt giữa giàu nghèo… Trên cơ sở của những hệ quả đó, xã hội bắt đầu xuất hiện hiện tượng cho vay nặng lãi-biểu hiện của hình thức phân phối lại của cải xã hội theo ý chí chủ quan. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng, với dấu hiệu của hành vi phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị là tiền, hoạt động cho vay nặng lãi là một trong những hiện tượng kinh tế tất yếu của thời kỳ này và được coi là những hình thức, mầm mống đầu tiên của các quan hệ tài chính, tiền tệ ra đời.

Song song đó, cũng do sự xuất hiện của chế độ tư hữu dẫn đến việc xã hội phân chia giai cấp được thể hiện bằng những nhóm người có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Sự đấu tranh giữa các giai cấp trong thời kỳ cuối của xã hội công xã nguyên thủy đã dẫn đến sự ra đời tất yếu của nhà nước, một tổ chức mang quyền lực chính trị cao nhất do giai cấp thống trị nắm giữ. Để tồn tại nhà nước cần phải đảm bảo được các chức năng, nhiệm vụ của mình bằng nguồn lực tài chính nhất định. Do vậy, Nhà nước bắt buộc phải huy động được tiền tệ trong xã hội nhằm hình thành nên nguồn lực tài chính phục vụ cho việc duy trì sự tồn tại của mình. Nhà nước đã sử dụng quyền lực chính trị của mình như một công cụ để có thể tham gia vào quá trình phân phối của cải trong xã hội mà biểu hiện rõ ràng nhất là việc nhà nước quy định các khoản thuế và tiến hành thu thuế trong xã hội, trên cơ sở đó huy động nguồn tài chính. Nói cách khác, hoạt động phân phối mà nhà nước tham gia trước hết là nhằm tập trung vào tay nhà nước những nguồn của cải nhất định dùng để tài trợ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trên cơ sở đó, duy trì được sự tồn tại của bộ máy nhà nước.

Như vậy, nền sản xuất hàng hóa, chế độ tư hữu là những tiền đề thúc đẩy sự ra đời của nhà nước. Đến lượt mình, nhà nước đã tác động tích cực trở lại đối với sự phát triển của các quan hệ sản xuất hàng hóa-tiền tệ, làm cho những quan hệ này ngày càng mở rộng. Khi phạm vi của các quan hệ hàng hóa-tiền tệ ngày càng được mở rộng thì các quan hệ mang tính chất phân phối, biểu hiện của hoạt động tài chính cũng ngày càng phát triển.

Từ đó, có thể hình dung rằng, hiện tượng tài chính chứa đựng trong đó những quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội thực hiện các hoạt động mang tính chất phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị trên nền tảng của mối quan hệ hàng hoá-tiền tệ và sự cần thiết phải phân phối (hoặc phân phối lại của cải trong xã hội).

Về khái niệm tài chính, các sách báo kinh tế, pháp lý thường lý giải theo những phương diện khác nhau:

-Tài chính bao gồm các quỹ tiền tệ được hình thành bởi nhà nước nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Đây là cách hiểu trực quan lên hiện tượng tài chính. Cần phải phân biệt rõ, tài chính không phải là tiền tệ, nhưng các quỹ tiền tệ được hình thành bởi Nhà nước chính là những biểu hiện bên ngoài của tài chính. Cụ thể hơn các quỹ tiền tệ chính là biểu hiện về mặt vật chất của tài chính để qua đó mà tài chính tồn tại thực trong đời sống kinh tế-xã hội.

-Tài chính là tổng hợp các quan hệ kinh tế, hình thành trong quá trình thành lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định của Nhà nước, để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.  Đây là cách hiểu tài chính trừu tượng, xuất phát từ bản chất bên trong của tài chính – vốn là các quan hệ phân phối của tài chính là phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân – kết quả của  các hoạt động kinh tế.

Một cách khái quát, tài chính được xác định như sau: tài chính là hiện tượng đặc trưng bằng sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ trong quá trình tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ đại diện cho những sức mua nhất định ở các chủ thể kinh tế – xã hội. Tài chính phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế trong phân phối các nguồn lực tài chính thông qua tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích luỹ hay tiêu dùng của các chủ thể (pháp nhân hay thể nhân) trong xã hội.

Từ nội dung trên, hiện tượng tài chính có thể được thể hiện thông qua những phương diện sau:

-Có sự vận động độc lập tương đối của các nguồn tài chính được biểu hiện cụ thể thông qua sự vận động của một lượng tiền tệ nhất định.

-Có các quan hệ phân phối (hoặc phân phối lại) của cải xã hội.

-Có sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ.

1.2. Chức năng của tài chính:

Bản chất của tài chính thể hiện thông qua chức năng của nó, bao gồm chức năng phân phối và chức năng

giám đốc.

1.2.1 Chức năng phân phối:

 Phân phối thể hiện chức năng của tài chính diễn ra ở nhiều cấp độ, nhiều khâu khác nhau, trong phạm vi mỗi đơn vị, tổ chức kinh tế cũng như trên phạm vi xã hội với những đặc trưng sau đây:

-Phân phối của tài chính là phân phối dưới hình thức giá trị. Đó là hoạt động phân phối nguồn của cải vật chất được sáng tạo từ các lĩnh vực của hoạt động sản xuất, kinh doanh được biểu hiện dưới hình thức giá trị là đồng tiền. Trên thực tế, phân phối của tài chính được cụ thể hóa thành hiện tượng chuyển giao các nguồn vốn tiền tệ từ chủ thể này sang chủ thể khác nhằm thỏa mãn các mục đích khác nhau. Kết quả của hoạt động này chính là việc hình thành nên các quỹ tiền tệ trong xã hội. Sau khi các quỹ tiền tệ được hình thành trong quá trình chuyển giao các nguồn vốn tiền tệ từ chủ thể sang chủ thể khác, đến lượt mình, các quỹ tiền tệ này lại tiếp tục được các chủ thể đưa vào tham gia hoạt động phân phối như là một vòng tuần hoàn. Như vậy, có thể nói, hiện tượng tài chính luôn luôn diễn ra trong xã hội với biểu hiện là hoạt động phân phối do các chủ thể khác nhau trong xã hội  tiến hành. Chính việc tạo lập, phân phối, sử dụng các quỹ tiền tệ với mục đích nhất định là kết quả của chức năng phân phối của hiện tượng tài chính.  Nó là cơ sở để tạo lập nên các quỹ vật tư, hàng hoá cho các quá trình tiếp theo của các hoạt động kinh tế, hoặc đáp ứng những nhu cầu khác của tích lũy hay tiêu dùng xã hội.

Phân phối tài chính có thể là phân phối lần đầu hoặc phân phối lại. Phân phối lần đầu của tài chính là phân phối ở phạm vi hẹp, diễn ra ở khâu cơ sở. Khi của cải vật chất được tạo ra từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức kinh tế được đưa vào thị trường và được chuyển thành giá trị là tiền, lượng giá trị này được phân phối để hình thành nên các quỹ bù đắp, quỹ tiêu dùng hay tích lũy. Các quỹ này có thể ở dạng không tập trung ở các đơn vị, tổ chức kinh tế như quỹ khấu hao, vốn lưu động, quỹ lương, quỹ phát triển sản xuất hay nghiệp vụ… hoặc những quỹ tiền tệ tập trung trong tay nhà nước như quỹ ngân sách nhà nước. Đây chính là quá trình phân phối lần đầu của tài chính.

Phân phối tài chính không dừng lại ở đó. Khi các quỹ tiền tệ trên được hình thành rồi thì tiếp tục đựoc đưa vào để tái sản xuất hoặc phân phối lại để đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội. Nếu ở giai đoạn phân phối lần đầu các quan hệ phân phối chủ yếu diễn ra trong phạm vi các tổ chức kinh tế thì ở giai đoạn phân phối lại, hoạt động phân phối đã diễn ra ở phạm vi toàn xã hội, tạo nên các kênh kết nối, đưa các nguồn tài chính đáp ứng các nhu cầu nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội.

1.2.2 Chức năng giám đốc:

Đó là việc kiểm tra quá trình hình thành các quỹ, các nguồn vốn tiền tệ và việc sử dụng chúng, trên cở sở đó, xác định việc các nguồn quỹ, các nguồn vốn tiền tệ được tạo lập, sử dụng trong hoạt tài chính có phù hợp với nhu cầu thị trường, yêu cầu của quản lý vĩ mô cũng như hiệu qủa sử dụng các nguồn vốn, nguồn quỹ như thế nào. Để thực hiện chức năng này, hiện tượng tài chính sẽ dựa vào hai chức năng cơ bản của tiền tệ là chức năng thước đo giá trị và chức năng thanh toán. Với tính chất như vậy, chức năng giám đốc của hiện tượng tài chính không những kiểm tra phạm vi các quan hệ phân phối mà còn kiểm tra toàn bộ nền kinh tế, đánh giá nhu cầu cân đối vốn, hiệu quả đầu tư, quan hệ cung cầu…

Chức năng giám đốc của tài chính gắn liền với chức năng phân phối. Thông qua phân phối để thực hiện giám đốc và giám đốc để phân phối tốt hơn.

1.3. Hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam

Như đã phân tích, tài chính bao gồm những quan hệ xã hội mang bản chất phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị là tiền tệ được biểu hiện thông qua quá trình tạo lập, quản lý và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Các quan hệ xã hội này tuy có cùng bản chất nhưng chúng có thể được hình thành trong những trật tự và phạm vi khác nhau, gắn với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ với những mục đích sử  dụng khác nhau. Do vậy, tài chính sẽ bao gồm những nhóm quan hệ tài chính khác nhau. Mỗi nhóm quan hệ tài chính này được đặc trưng bởi những đặc điểm chung. Giữa các nhóm quan hệ này vừa tách biệt, vừa có mối quan hệ qua lại lẫn nhau tuỳ thuộc vào cách thức tạo lập, phân phối và mục đích tiêu dùng hay tích lũy các quỹ tiền tệ được hình thành từ những nhóm quan hệ xã hội đó. Các nhóm quan hệ tài chính này được xem như là mỗi khâu tài chính. Tập hợp tất cả các khâu tài chính hình thành nên hệ thống tài chính.

Như vậy, hệ thống tài chính là tập hợp những nhóm quan hệ tài chính (các khâu tài chính) khác nhau được hình thành trong quá trình tạo lập, quản lý và sử dụng những quỹ, những nguồn vốn tiền tệ nhất định.

Mỗi khâu trong hệ thống tài chính có cách thức, phương pháp riêng để hình thành và sử dụng những nguồn vốn tiền tệ. Đồng thời, ở mỗi giai đoạn khác nhau của nền kinh tế, các khâu tài chính, hệ thống tài chính cũng có những bước phát triển, biến đổi nhất định. Trong điều kiện hiện nay, hệ thống tài chính của Việt Nam bao gồm những khâu sau đây: ngân sách nhà nước, tín dụng, bảo hiểm, tài chính doanh nghiệp, tài chính hộ gia đình và tổ chức xã hội.

-Khâu Ngân sách nhà nước: đây là khâu trung tâm của hệ thống tài chính. Các quan hệ tài chính-ngân sách gắn với việc hình thành và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước. Đây là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước, cung cấp các phương tiện tài chính cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.

Quỹ ngân sách nhà nước được hình thành từ các nguồn tài chính của các khâu tài chính khác trong hệ thống tài chính, trong đó chủ yếu là các khoản nộp mang tính chất pháp lý bắt buộc như thuế, phí, lệ phí. Bên cạnh đó, quỹ ngân sách nhà nước còn được hình thành từ các nguồn khác như vay trong dân cư, vay nợ, viện trợ…

-Khâu tài chính tín dụng: trong điều kiện của kinh tế hàng hoá-tiền tệ, tất yếu nảy sinh hiện tượng nhàn rỗi tạm thời những nguồn vốn tiền tệ. Các nguồn vốn dạng này được tập trung lại dưới các hình thức khâu tạo thành các quỹ tín dụng nhằm cung cấp, thỏa mãn nhu cầu về tiền tệ của các chủ thể trong xã hội.

 

-Khâu tài chính Bảo hiểm: các quan hệ bảo hiểm hình thành trong quá trình tái phân phối tài chính, gắn với việc tạo lập, sử dụng các quỹ bảo hiểm. Mục đích của hoạt động bảo hiểm là bồi thường thiệt hại, chi trả bảo hiểm cho những chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm được hình thành từ mối quan hệ bảo hiểm sẽ hình thành nên nguồn tài chính tham gia vào thị trường tài chính. Bảo hiểm trở thành một khâu của hệ thống tài chính từ việc hình thành nên quỹ bảo hiểm và tái phân phối quỹ tiền tệ này.

Tài chính doanh nghiệp: là khâu cơ sở của hệ thống tài chính, bao gồm những quan hệ tài chính gắn với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp như các quan hệ trong việc hình thành, xác lập nguồn vốn kinh doanh, phân phối thu nhập, tích lũy trong nội bộ doanh nghiệp và trong quan hệ với ngân sách nhà nước. Đây là khâu tài chính cơ sở gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Chính hoạt động của các doanh nghiệp là tạo ra sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Trên cơ sở đó, thông qua các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị đã hình thành nên các quỹ tiền tệ với những mục đích sử dụng khác nhau như bù đắp, tiêu dùng hay tích lũy để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất, tiêu dùng trong dân cư hay chi dùng của nhà nước

-Khâu tài chính dân cư và các tổ chức xã hội:

+Đối với tài chính dân cư, bao gồm hai dạng hoạt động tài chính. Một là, hoạt động sản xuất, kinh doanh mang tính chất cá nhân trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, nông nghiệp đều cần đến nguồn vốn đầu tư. Nguồn vốn này được hình thành từ thu nhập được tích lũy của họ hoặc từ các nguồn khác nhau trên thị trường tài chính. Một loại quan hệ tài chính khác gắn liền với việc hình thành, sử dụng quỹ tiền tệ thỏa mãn cho tiêu dùng của dân cư. Quỹ này được hình thành từ thu nhập thường xuyên hoặc không thường xuyên của cá nhân. NGười dân sử dụng quỹ này để tiêu dùng, đóng thuế cho nhà nước, phần thừa hoặc nhàn rỗi họ lại đưa vào thị trường tài chính dưới các hình thức đầu tư như góp vốn cổ phần, gửi tiết kiệm…

+Khâu tài chính này còn bao gồm tài chính của các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ. Những tổ chức này hình thành nên nguồn quỹ tiền tệ của riêng mình để phục vụ cho tiêu dùng, hoạt động tồn tại, phát triển.

Nguồn quỹ này được hình thành từ đóng góp của các thành viên hoặc từ sự đóng góp của dân cư, hỗ trợ của nhà nước… Trong những thời điểm nhất định khi chưa được sử dụng, nguồn tài chính đó còn có thể tham gia vào thị trường tài chính.

2. Hoạt động tài chính

2.1 Hoạt động tài chính của nhà nước:

Hoạt động tài chính của nhà nước là loại hoạt động tài chính công-hoạt động của tổ chức mang quyền lực công. Hầu hết các cơ quan đại diện cho quyền lực của nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và thẩm quyền của mình đều tiến hành hoạt động tài chính. Hoạt động tài chính của nhà nước thể hiện trên hai phương diện

 

-Nhà nước trực tiếp tiến hành các hoạt động tài chính. Thông qua các cơ quan đại diện cho quyền lực công, nhà nước tham gia vào quá trình hình thành, phân phối và sử dụng nguồn vốn tiền tệ là ngân sách nhà nước với mục đích đảm bảo lợi của nhà nước, lợi ích công cộng.

 

-Nhà nước tổ chức, hướng dẫn các hoạt động tài chính mang tính chất vi mô như hoạch định các chính sách, phương hướng hoạt động tài chính, tiền tệ; xây dựng các thiết chế, định chế liên quan đến hoạt độg tài chính; thiết lập khung khổ pháp lý, hành lang an toàn cho hoạt động tài chính của mọi chủ thể tham gia vào thị trường tài chính, tiền tệ nói chung.

Dựa vào 2 phương diện thể hiện hoạt động tài chính của nhà nước, hoạt động tài chính của nhà nước có thể được hình dung như sau: đó là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tập trung, phân phối và sử dụng một cách có kế hoạch các nguồn lực tài chính, mà trọng tâm là nguồn ngân sách nhà nước nhằm thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh.

Hoạt động tài chính của nhà nước được thực hiện theo các nguyên tắc:

-Nguyên tắc pháp chế: toàn bộ hoạt động tài chính bao gồm toàn bộ quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các nguồn quỹ tiền tệ của nhà nước đều được thể chế hoá thành pháp luật và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.

-Nguyên tắc công khai: tất cả các hoạt động tài chính đều phải được công khai cho người dân-những chủ thể đã tham gia vào quá trình phân phối của cả xã hội để hình thành nên nguồn quỹ tài trợ cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Hoạt động tài chính của nhà nước cần phải đảm bảo tính dân chủ trong quản lý, thu chi tài chính, tránh tình trạng tham nhũng, lãng phí.

-Nguyên tắc kế hoạch: nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ mọi hoạt động tài chính của nhà nước đều dựa trên cơ sở là các văn bản kế hoạch tài chính. Các văn bản này dự kiến hay xác lập dự toán các khoản thu chi các nguồn vốn tiền tệ của nhà nước. Những văn bản này được xây dựng, phê duyệt và thực hiện theo những trình tự nhất định.

2.2 Hoạt động tài chính của các chủ thể khác:

Ngồi nhà nước, các chủ thể khác trong xã hội (bao gồm các cơ quan nhà nước ngoài những cơ quan tiến hành các hoạt động tài chính công, các đoàn thể xã hội, các tổ chức kinh tế, cá nhân…) cũng tiến hành các hoạt động tài chính ở phạm vi và mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất và mục tiêu của họ. Nhìn chung, hoạt động tài chính của các chủ thể khác thường diễn ra theo hai phương diện:

-Các hoạt động tài chính diễn ra giữa nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội xoay quanh vấn đề ngân sách nhà nước. Hầu khác các chủ thể tồn tại trong xã hội đều có mối liên hệ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đối với việc hình thành, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ là ngân sách nhà nước, cụ thể thông qua các hoạt động nhận kinh phí, vốn từ ngân sách nhà nước, nộp thuế hoặc các khoản thu khác vào ngân sách nhà nước.

-Các hoạt động tài chính của các chủ thể trong mối quan hệ với thị trường tài chính. Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đều có thể tham gia vào thị trường tài chính nhằm thỏa mãn mục đích kinh doanh, đầu tư hay nhu cầu về vốn thông qua hoạt động cho vay, vay, mua bán các loại giấy tờ  có giá trên thị trường tài chính.

II. LUẬT TÀI CHÍNH TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.Định nghĩa Luật Tài chính: 

Luật Tài chính là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ, các nguồn vốn tiền tệ gắn liền với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước và hoạt động của các chủ thể kinh tế xã hội khác.

2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Tài chính:

2.1 Đối tượng điều chỉnh của Luật Tài chính:

Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, đối tượng điều chỉnh của luật tài chính đã vượt ra ngoài  phạm vi tài chính công, tài chính nhà nước. Đối tượng điều chỉnh của Luật Tài chính hiện nay bao gồm cả những quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, quan hệ tài chính của các tổ chức, cá nhân trên thị trường tài chính. Những quan hệ này không nhất thiết phải có sự tham gia của nhà nước với tư cách là bên chủ thể. Như vậy, có thể nói, các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh  của luật tài chính rất đa dạng, có nhiều chủ thể tham gia ở nhiều cấp độ khác nhau.

Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tài chính thường được phân chia theo 2 cách dựa vào những tiêu chí khác nhau:

-Căn cứ vào lĩnh vực mà các quan hệ tài chính được hình thành, đối tượng điều chỉnh của luật tài chính được phân biệt thành:

+Các quan hệ tài chính- ngân sách. Đây là nhóm quan hệ tài chính phát sinh gắn liền với việc hình thành, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước là quỹ ngân sách nhà nước.

+Các quan hệ tài chính doanh nghiệp. Đây là nhóm quan hệ phát sinh trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

+Các quan hệ tài chính trong lĩnh vực bảo hiểm. Những quan hệ liên quan đến việc các tổ chức kinh doanh bảo hiểm huy động được nguồn vốn và đưa chúng tham gia vào thị trường tài chính bằng các hình thức khác nhau đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế.

+Các quan hệ tín dụng. Các quan hệ liên quan đến hoạt động huy động vốn, cho vay vốn của các tổ chức trung gian tài chính trong quá trình hình thành các nguồn tài chính đáp ứng cho nhu cầu vốn của nền kinh tế sẽ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tài chính.

+Các quan hệ tài chính trong khu vực dân cư, các tổ chức xã hội.

– Căn cứ vào hệ thống các chủ thể tham gia các hoạt động tài chính, đối tượng điều chỉnh của luật tài chính bao gồm:

+Quan hệ tài chính giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với cơ quan nhà nước ở địa phương trong hoạt động thu, chi phân cấp quản lý ngân sách nhà nước.

+Quan hệ tài chính giữa cơ quan tài chính, tổ chức tín dụng với nhau phát sinh trong quá trình quản lý, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ tiền tệ khác.

+Quan hệ tài chính giữa cơ quan tài chính, tổ chức tài chính với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Các quan hệ này phát sinh trong việc cấp phát vốn, thu nộp thuế vào ngân sách nhà nước.

+Các quan hệ tài chính giữa các cơ quan tài chính, tổ chức tài chính với dân cư.

+Nhóm quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp.

2.2 Phương pháp điều chỉnh của luật tài chính:

Luật tài chính sử dụng hai phương pháp điều chỉnh chủ yếu là phương pháp mệnh lệnh bắt buộc và phương pháp bình đẳng thỏa thuận.

3. Hệ thống Luật tài chính và quy phạm pháp luật tài chính:

3.1 Hệ thống luật tài chính

Hệ thống luật tài chính thể hiện cấu trúc bên trong, mối quan hệ nội tại của ngành luật đó. Thực chất là việc định hình, phân nhóm các quy phạm pháp luật tài chính để nghiên cứu và áp dụng chúng. Việc phân nhóm này căn cứ vào tính chất và mối quan hệ qua lại giữa các quan hệ tài chính.

Thông thường, hệ thống luật tài chính bao gồm phần chung và phần riêng.

– Phần chung chứa đựng các quy phạm pháp luật quy định những nguyên tắc cơ bản, hình thức của hoạt động tài chính và phương pháp thực hiện hoạt động tài chính; xác định chủ thể tham gia các quan hệ tài chính, thẩm quyền của các chủ thể này.

– Phần riêng: bao gồm nhóm các quy phạm pháp luật khác nhau hình thành nên các chế định của luật tài chính. Đó là các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ tài chính cụ thể.

Hệ thống luật tài chính phân biệt với hệ thống môn học luật tài chính. Hệ thống môn học luật tài chính bao gồm các phần, các chương nghiên cứu về những vấn đề lý luận về ngành luật tài chính và các chương nghiên cứu các chế định cụ thể của luật tài chính.

3.2 Quy phạm pháp luật tài chính:

Quy phạm pháp luật tài chính là những quy tắc xử sự trong lĩnh vực tài chính do nhà nước định ra, có tính phổ biến, tính bắt buộc chung và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.

Căn cứ vào tính chất, quy phạm pháp luật tài chính được phân biệt thành 3 nhóm:

-Nhóm quy phạm bắt buộc: là loại quy phạm quy định những hành vi bắt buộc các chủ thể của quan hệ pháp luật tài chính phải thực hiện, nếu không thực hiện là vi phạm pháp luật tài chính, ví dụ hành vi thu thuế của cơ quan thuế, hành vi nộp thuế của các tổ chức, cá nhân.

-Nhóm quy phạm cấm đoán: là loại quy phạm xác định một số hành vi nhất định và cấm các chủ thể của quan hệ pháp luật tài chính thực hiện các hành vi đó.ví dụ một số hành vi bị ngăn cấm: lập quỹ trái phép, để ngoài sổ sách thu chi tài chính

-Nhóm quy phạm cho phép (trao quyền): là loại quy phạm trao quyền cho các chủ thể trong một số quan hệ tài chính nhất định có thể lựa chọn làm hoặc không làm những việc nhất định.vd hành vi đóng góp tự nguyện cho ngân sách nhà nước.

4. Quan hệ pháp luật tài chính:

Quan hệ pháp luật tài chính là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tài chính chịu sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật tài chính.

Quan hệ pháp luật tài chính bao gồm: chủ thể, khách thể và nội dung

-Chủ thể của quan hệ pháp luật tài chính: đó là những tổ chức cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật tài chính. Do tính đa dạng của các quan hệ tài chính nên các chủ thể của quan hệ tài chính cũng rất đa dạng, bao gồm: nhà nước, pháp nhân, cá nhân.

-Khách thể của quan hệ pháp luật tài chính: các quỹ tiền tệ nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau tương ứng với các chủ thể khác nhau trong quan hệ pháp luật tài chính.

-Nội dung của quan hệ pháp luật tài chính: bao gồm quyền và nghĩa vụ mang tính chất pháp lý của các chủ thể được xác lập khi tham gia vào quan hệ pháp luật tài chính.

 


 

Chương II – Ngân sách nhà nước và Luật ngân sách nhà nước

I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1. Khái niệm ngân sách nhà nước:

Ngân sách nhà nước là phạm trù kinh tế thuộc lĩnh vực tài chính. Hiện tượng ngân sách ra đời và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử, trên cơ sở của nền kinh tế hàng hoá và sự hình thành, phát triển của nhà nước.

Các nhà khoa học về lịch sử và kinh tế đã chứng minh rằng chính sản xuất và trao đổi hàng hóa đã dẫn tới sự ra đời tiền tệ. Sau 3 lần phân công lao động xã hội đóng vai trị quan trọng trong sự phân hóa các giai cấp trong xã hội, đặc biệt là phân công lao động xã hội lần thứ ba, kết quả là sự ra đời của giai cấp thương nhân. Giai cấp thương nhân ra đời dẫn đến các quan hệ trao đổi mua bán cũng phát triển mạnh mẽ, cùng với nó là sự xuất hiện của tiền tệ.

Tiền tệ ra đời giữ vai trò là vật ngang giá chung, trung gian trong việc trao đổi hàng hóa

Cuối thời kỳ công xã nguyên thủy, khi mâu thuẫn giữa các giai cấp đã không còn được dung hòa bởi tổ chức của thị tộc, nhà nước đã ra đời. Nhà nước ra đời thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng tiền tệ trong lưu thông hàng hóa. Sự ra đời và tồn tại của Nhà nước làm nảy sinh nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Điều đó đòi hỏi Nhà nước dựng quyền lực chính trị để tập trung một bộ phận của cải của xã hội cho mình, tham gia quá trình phân phối của cải với tư cách chủ thể quyền lực chính trị. Trong các hình thức được nhà nước sử dụng để tập trung của cải thì thuế là hình thức được sử dụng sớm nhất và cũng có vai trò quan trọng nhất. Nhà nước tham gia quá trình phân phối của cải xã hội hình thức giá trị để lập và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước đã hình thành nên ngân sách Nhà nước. Nói cách khác, sự ra đời của kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử, cùng với nó là hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực phân phối và phân phối lại của cải xã hội đã hình thành nên kho tài sản của nhà nước, phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước chính là mầm mống ban đầu của hiện tượng ngân sách nhà nước.

Hiện tượng ngân sách nhà nước tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của các kiểu nhà nước trong lịch sử phát triển xã hội. Tuy nhiên, thuật ngữ ngân sách nhà nước chỉ được bắt đầu sử dụng khi các khoản thu chi của nhà nước được thể chế hoá bằng pháp luật, tức là, có sự xác định, thừa nhận, công khai hoá bằng luật pháp đối với những khoản thu chi của nhà nước sử dụng ngân sách nhà nước.

Về khái niệm ngân sách nhà nước, có nhiều định nghĩa khác nhau về thuật ngữ này. Quan điểm thứ nhất cho rằng ngân sách nhà nước là bản dự toán thu chi tài chính của nhà nước trong 1 khoản thời gian nhất định. Có quan điểm lại cho rằng, ngân sách nhà nước chính là quỹ tiền tệ của nhà nước. Thật ra, những định nghĩa về ngân sách nhà nước theo những quan điểm khác nhau đều thể hiện sự khái quát hiện tượng ngân sách nhà nước ở những phương diện khác nhau. Để có cách hiểu đầy đủ về ngân sách nhà nước, chúng ta tìm hiểu khái niệm này từ 2 phương diện:

Một là, do ngân sách là một phạm trù kinh tế, vậy nên, ngân sách nhà nước sẽ được xem xét về mặt bản chất và cả về phương diện vật chất.

Xét về mặt bản chất, ngân sách nhà nước thể hiện hệ thống các quan hệ kinh tế được hình thành trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn vốn tiền tệ phục vụ cho các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước. Điều này xuất phát từ mối quan hệ chặt chẽ giữa ngân sách nhà nước với nhà nước. Ngân sách nhà nước vốn được hình thành từ việc nhà nước sử dụng quyền lực chính trị của mình để tham gia vào hoạt động phân phối của cải trong xã hội vốn được tạo nên từ nhiều chủ thể khác nhau cùng tồn tại trong xã hội. Do vậy ngân sách nhà nước thể hiện mối quan hệ xã hội giữa nhà nước và các chủ thể khác nhau trong quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị.

Xét về phương diện vật chất, trên thực tế, ngân sách nhà nước tồn tại dưới dạng vật chất là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước. Quỹ tiền tệ này gắn liền với việc đảm bảo cho chức năng, nhiệm vụ của tất cả các cơ quan chính quyền nhà nước các cấp. Đó là nguồn vốn, kinh phí hay những khoản tiền cụ thể mà nhà nước tập trung được vào tay mình sau khi tham gia vào quá trình phân phối của cải trong xã hội.

Hai là, xuất phát từ việc ngân sách vốn là một trong những phạm trù pháp lý, trong điều kiện nhà nước pháp quyền, các khoản thu chi của nhà nước được công khai và thể chế thành pháp luật nhằm tránh hiện tượng lạm quyền. Ngân sách nhà nước trở thành phạm trù pháp lý. Điều này được thể hiện thông qua việc hình dung ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nước, là bảng dự toán toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để trở thành một đạo luật có giá trị pháp lý bắt buộc đối với tất cả các chủ thể có liên quan. Chính vì vậy mà pháp luật thực định đưa ra định nghĩa về ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong dự toán được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong khoảng thời gian là một năm để đảm bảo chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.

2. Vai trò của ngân sách nhà nước:

Ngân sách nhà nước giữ vai trò là công cụ phân phối. Điều này được thể hiện thông qua việc nhà nước huy động nguồn tài chính để đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thông qua việc tiến hành cân đối giữa các khoản thu và chi của nhà nước, nhà nước có thể hoạch định chính sách trong điều tiết thu nhập, giải quyết tốt mối quan hệ giữa thu và chi, giữa tích luỹ tiêu dùng, đầu tư phát triển, tiết kiệm.

Ngân sách nhà nước giữa vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua việc điều hồ các nguồi tài chính giữa các vùng kinh tế, các ngành kinh tế, thông qua việc hướng dẫn, kích thích hay hạn chế sản xuất, tiêu dùng bằng các chính sách thuế, tài chính, ngân sách nhà nước có thể điều tiết thu nhập của các chủ thể khác nhau trong xã hội, xử lý mối quan hệ giữa tích luỹ, đầu tư và tiêu dùng, điều chỉnh giá cả, ổn định thị trường, chống lạm phát.

Ngân sách nhà nước còn giữ vai trò là công cụ thực hiện chính sách xã hội. Bằng chính sách thuế, nhà nước có thể thông qua hoạt động ngân sách nhà nước để thực hiện ưu đã cho các đối tượng chính sách, điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự bất bình đẳng xã hội. Ngoài ra, ngân sách nhà nước còn cung cấp phương tiện tài chính để nhà nước thực hiện trợ cấp xã hội, phúc lợi công cộng.

II. KHÁI NIỆM LUẬT NGÂN SÁCH

1. Định nghĩa Luật Ngân sách:

Việc sử dụng ngân sách trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội đã hình thành hệ thống quan hệ kinh tế thuộc lĩnh vực ngân sách bao gồm bao gồm những quan hệ phân phối liên quan đến nguồn vốn tiền tệ của nhà nước. Do vậy, những quan hệ này cần phải được pháp luật điều chỉnh để việc phát sinh, thay đổi chúng phù hợp với lợi ích của nhà nước, xã hội. Nói cách khác, việc chuyển giao, sử dụng các nguồn vốn tiền tệ phải tuân theo quy chế pháp lý nghiêm ngặt để đảm bảo yêu cầu quản lý của nhà nước. Chính trong điều kiện đó đã hình thành nên nhóm các quy phạm pháp luật chuyên ngành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này: luật ngân sách. Luật Ngân sách là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn vốn tiền tệ thuộc về ngân sách nhà nước.

Luật Ngân sách phân biệt với Luật Ngân sách nhà nước. Luật ngân sách nhà nước chỉ là một bộ phận của pháp luật thực định về Luật Ngân sách. Ngoài ra, luật ngân sách cũng phân biệt với thuật ngữ pháp luật ngân sách nhà nước-một cụm từ khái quát về bộ phận pháp luật thực định về ngân sách nhà nước, bao gồm Luật Ngân sách nhà nước và các quy định pháp luật về ngân sách nhà nước khác.

2. Quan hệ pháp luật ngân sách:

Quan hệ pháp luật ngân sách là những quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình tập trung, phân phối, sử dụng, quản lý quỹ ngân sách nhà nước được quy phạm pháp luật về ngân sách điều chỉnh.

Đặc điểm của quan hệ pháp luật ngân sách:

-Luôn có sự tham gia của ít nhất một bên là nhà nước hoặc cơ quan đại diện của nhà nước trong tất cả các quan hệ pháp luật ngân sách.

-Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật ngân sách không phải do tự ý xác lập một quan hệ pháp luật mà được pháp luật quy định trước, kể cả quyền và nghĩa vụ của các bên cũng không phải theo thoả thuận mà sẽ do pháp luật quy định, buộc các bên phải tuân theo.

-Việc tham gia vào quan hệ pháp luật ngân sách của các chủ thể trước hết vì lợi ích kinh tế-xã hội của nhà nước.

Căn cứ vào tính chất, quan hệ pháp luật ngân sách được phân biệt thành:

-Nhóm các quan hệ về phân cấp quản lý, điều hành ngân sách. Nhóm quan hệ này hình thành trong lĩnh vực tổ chức hệ thống ngân sách, phân định quyền hạn về ngân sách và phân phối nhiệm vụ thu chi ngân sách giữa các cấp chính quyền nhà nước.

-Nhóm các quan hệ trong quá trình tạo lập, thông qua dự toán ngân sách nhà nước giữa cơ quan chính quyền nhà nước các cấp cũng như tất cả các chủ thể có liên quan đến việc sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước.

-Nhóm các quan hệ về chấp hành ngân sách nhà nước. Nhóm các quan hệ này hình thành trong quá trình thực hiện các khoản thu, chi ngân sách nhà nước trên thực tiễn.

-Nhóm các quan hệ về quyết toán ngân sách nhà nước, bao gồm những quan hệ trong quá trình lập quyết toán, phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước và những quan hệ về kiểm tra, thanh tra, kiểm toán ngân sách nhà nước.

3. Chế độ pháp lý về tổ chức hệ thống ngân sách:

Hệ thống ngân sách là một thể thống nhất được tạo thành từ các bộ phận cấu thành nên ngân sách: các khâu ngân sách. Giữa các khâu trong hệ thống ngân sách vừa độc lập, vừa có mối quan hệ qua lại lẫn nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mình.

Hệ thống ngân sách thường được tổ chức tương ứng với hệ thống chính quyền nhà nước nhưng không nhất thiết mỗi cấp chính quyền là một cấp ngân sách. Điều kiện cần và đủ để một cấp chính quyền trở thành cấp ngân sách:

-Nhiệm vụ của cấp chính quyền tương đối toàn diện trên các lĩnh vực phát triển về hành chính, xã hội kinh tế ở vùng lãnh thổ mà cấp chính quyền đó quản lý.

-Tổng hợp các nguồn thu trên lãnh thổ mà cấp chính quyền đó quản lý có khả năng giải quyết phần lớn nhu cầu chi tiêu của mình.

Hệ thống ngân sách ở Việt Nam:

-Từ sau Cách mạng tháng 8 đến trước 1967: Việt Nam chỉ tồn tại 1 ngân sách duy nhất được gọi chung là ngân sách nhà nước, ở đó không có sự phân định thẩm quyền giữa các cấp chính quyền nhà nước trong quản lý ngân sách nhà nước. Mỗ cấp chính quyền chỉ là một đơn vị dự toán của ngân sách nhà nước. Mọi hoạt động huy động các nguồn tài chính đều nhằm hình thành quỹ ngân sách nhà nước tập trung và mọi chi tiêu từ quỹ tiền tệ này đều nhằm mục tiêu chung của cả nước là kháng chiến thắng lợi.

-Từ 1967, khai sinh chế độ phân cấp quản lý ngân sách. Theo đó, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là khái niệm hàm chỉ mô hình quản lý ngân sách nhà nước mà trong đó Chính quyền trung ương phân giao cho chính quyền địa phương thực hiện một số nghiệp vụ nhất định trong hoạt động ngân sách nhà nước. Mô hình này được áp dụng ở những quốc gia xem ngân sách nhà nước là duy nhất và thống nhất, cả nước chỉ có một ngân sách do nhà nước quản lý. Trong quá trình hình thành và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước, chính quyền trung ương có thể giao cho chính quyền địa phương thực thi một số nghiệp vụ thu chi cần thiết có liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của cấp chính quyền trên địa bàn mà mình quản lý.

-Từ 1976 đến 1978, hệ thống ngân sách ở Việt Nam gồm 2 cấp: ngân sách trung ương và ngân sách cấp tỉnh. Việc xác lập hệ thống ngân sách gồm 2 cấp như vậy không khuyến khích các cấp chính quyền địa phương phát huy tính chủ động sáng tạo trong việc khai thác và huy động nguồn tài chính trên địa bàn để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Ngược lại, các cấp chính quyền địa phương cũng ỷ lại trông chờ vào sự trợ giúp của cấp trên.

-1978: hệ thống ngân sách Việt Nam được phân định gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách địa phương gồm hai cấp ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp huyện. Mô hình này đã phần nào khắc phục được nhược điểm của hệ thống ngân sách trước đây, góp phần khuyến khích địa phương khai thác được tiềm năng và thế mạnh trong việc huy động nguồn thu phát sinh trên địa bàn.

-1983: hệ thống ngân sách Việt Nam được xây dựng gồm 4 cấp tương đương với 4 cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước: Ngân sách Trung ương, tỉnh, huyện, xã. Điều này đặt ra yêu cầu phải phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể cho từng cấp ngân sách ở địa phương và chính quyền các cấp ở địa phương cần được phân giao quyền hạn, trách nhiệm cụ thể. Cơ chế phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi tới tận ngân sách cấp huyện, xã vẫn được duy trì trong Luật Ngân sách nhà nước 1996 (sửa đổi bổ sung 1998).

-Luật Ngân sách nhà nước 2002 hệ thống ngân sách Việt Nam đuợc thiết lập bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Trong đó, ngân sách địa phương sẽ hàm chứa ngân sách cấp tỉnh, huyện, xã. Tuy nhiên, cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội chỉ phân giao nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể cho ngân sách trung ương và xác định tổng khối lượng thu-chi cho ngân sách của từng địa phương. Trên cơ sở đó, cơ quan quyền lực cao nhất của địa phương: Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ được phân cấp thẩm quyền quyết định trong việc phân phối thu chi giữa các cấp ngân sách ở địa phương. Rõ ràng, với hệ thống ngân sách theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước 2002 việc phân cấp trong quản lý ngân sách nhà nước đã được đẩy mạnh, tăng tính chủ động, linh hoạt cho từng địa phương.

Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và quản lý hệ thống ngân sách:

 

-Đảm bảo tính tập trung thống nhất của ngân sách nhà nước, dự có phân chia các cấp ngân sách theo các cấp chính quyền nhà nước nhưng hệ thống ngân sách vẫn là thống nhất từ trung ương đến địa phương.

-Đảm bảo tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp ngân sách, có cơ chế phân cấp và quản lý phù hợp để phát huy được tính tự chủ, kích thích khai thác nguồn thu của các cấp ngân sách địa phương, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương.

III. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:

1. Định nghĩa về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước:

Phân cấp ngân sách Nhà nước là sự phân định trách nhiệm về quyền hạn, nghĩa vụ và lợi ích của các cơ quan Nhà nước các cấp trong tổ chức, điều hành, quản lý ngân sách Nhà nước. Thực chất của phân cấp ngân sách là việc phân chia quyền hạn và xác định trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền nhà nước đối với ngân sách cấp mình và ngân sách nhà nước nói chung. Phân cấp quản lý ngân sách sẽ giải quyết được mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề về hoạt động của ngân sách nhà nước như quan hệ về mặt chế độ, chính sách, quan hệ vật chất giữa nguồn thu, nhiệm vụ chi, quan hệ về quy trình ngân sách.

Việc phân cấp quản lý ngân sách phải dựa trên những nguyên tắc sau:

-Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải phù hợp với phân cấp quản lý các mặt khác của đời sống xã hội và phù hợp với năng lực quản lý của mỗi cấp chính quyền trên địa bàn.

-Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và vị trí độc lập, chủ động của ngân sách địa phương.

-Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải tôn trọng nguyên tắc công bằng.

Phân cấp ngân sách Nhà nước bao gồm nhiều nội dung nhằm giải quyết các mục tiêu sau:

– Giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền trong việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan tới Ngân sách Nhà nước.

– Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nhiệm vụ chi, phân phối nguồn thu và cân đối ngân sách Nhà nước.

– Giải quyết mối quan hệ trong quá trình thực hiện lập, chấp hành và quyết toán ngân sách Nhà nước.

Xuất phát từ yêu cầu trên, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước được thể hiện trên 2 phương diện:

-Xác định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong quản lý, điều hành ngân sách, trong quá trình lập, chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước.

-Phân phối nguồn thu, xác định nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách.

2. Nội dung của  phân cấp quản lý ngân sách nhà nước:

2.1. Trách nhiệm quyền hạn của các cấp chính quyền trong việc phân cấp quản lý ngân sách:

Liên quan lĩnh vực ngân sách nhà nước, có rất nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền được phân định về nhiệm vụ và quyền hạn gắn liền với việc quản lý, thực hiện ngân sách nhà nước, cụ thể như: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban Kinh tế-Ngân sách thuộc Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư, Ngân hàng nhà nước Việt Nam…

2.1.1 Quốc hội:

Điều 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) nêu rõ: “Quốc hội quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước, quyết định sửa đổi bãi bỏ các thứ thuế”. Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội đối với Ngân sách Nhà nước được ghi nhận tại Điều 15 Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002, cụ thể

– Ban hành và sửa đổi luật trong lĩnh vực ngân sách Nhà nước. Đây là một trong những thẩm quyền quan trọng nhất của Quốc hội – cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.

– Quyết định chính sách tài chính tiền tệ quốc gia nhằm góp phần phát triển kinh tế, bảo đảm cân đối ngân sách các cấp.

– Quyết định dự toán ngân sách Nhà nước:

+Tổng số thu ngân sách nhà nước bao gồm thu nội địa, thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, viện trợ không hoàn lại.

+Tổng số chi ngân sách nhà nước bao gồm chi ngân sách trung ương chi tiết theo từng lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ, chi viện trợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, tổng khối lượng chi ngân sách địa phương

+Mức bội chi và nguồn bù đắp

-Quyết định phân bổ ngân sách trung ương. Trước đây, đối với phương án phân bổ Ngân sách Nhà nước của Trung ương, Quốc hội giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội, nhưng hiện nay, theo Luật  Ngân sách nhà nước năm 2002, Quốc hội cũng giữ vai trò trong việc phân bổ ngân sách nhà nước của trung ương. Nội dung cụ thể bao gồm:

+Tổng số và mức chi từng lĩnh vực

+Dự toán chi của từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương theo từng lĩnh vực.

+Mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương

– Quyết định điều chỉnh dự toán Ngân sách Nhà nước trong những trường hợp cần thiết.

-Quyết định các chương trình, công trình xây dựng quan trọng mang tầm quốc gia, có ảnh hưởng to lớn đối với các mặt trong đời sống kinh tế xã hội, được đầu tư vốn Ngân sách Nhà nước.

– Quốc hội thực hiện quyền giám sát các hoạt động trong lĩnh vực Ngân sách Nhà nước.

-Phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước.

-Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC về lĩnh vực tài chính-ngân sách trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội các quyết định của Quốc hội, Luật Ngân sách Nhà nước quy định: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội, Hội đồng dân tộc của Quốc hội cũng tham gia vào một số hoạt động có liên quan đến Ngân sách Nhà nước và mang tính chất giám sát.

2.1.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban Thường vụ Quốc hội

-Ban hành văn bản pháp luật về lĩnh vực tài chính – ngân sách được Quốc hội giao;

-Cho ý kiến về các dự án luật, các báo cáo và các dự án khác về lĩnh vực tài chính – ngân sách do Chính phủ trình Quốc hội;

– Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách, quyết định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách từng địa phương đối với các khoản thu theo quy định

– Ban hành Quy chế lập, thẩm tra, trình Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;

– Giám sát việc thi hành pháp luật về ngân sách, chính sách tài chính, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính – ngân sách; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực tài chính – ngân sách trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc hủy bỏ các văn bản đó; hủy bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực tài chính – ngân sách trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; bãi bỏ các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về lĩnh vực tài chính – ngân sách trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

2.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội

1) Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác về lĩnh vực tài chính – ngân sách do Quốc hội,

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giao;

2) Chủ trì thẩm tra dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, các báo cáo về thực hiện ngân sách nhà nước và quyết toán ngân sách nhà nước do Chính phủ trình Quốc hội;

3) Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính – ngân sách; giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước và chính sách tài chính;

4) Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội về lĩnh vực tài chính – ngân sách;

5) Kiến nghị các vấn đề về quản lý lĩnh vực tài chính – ngân sách.

2.1.4 Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác của Quốc hội

1) Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối hợp với Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương và các dự án khác về lĩnh vực tài chính – ngân sách do Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;

2) Giám sát việc thực hiện pháp luật về lĩnh vực tài chính – ngân sách và việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội về lĩnh vực tài chính – ngân sách trong lĩnh vực phụ trách;

3) Kiến nghị các vấn đề về tài chính – ngân sách trong lĩnh vực phụ trách.

2.1.5 Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước

1) Công bố luật, pháp lệnh về lĩnh vực tài chính – ngân sách;

2) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy định trong việc tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp ký; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định về lĩnh vực tài chính – ngân sách;

3) Yêu cầu Chính phủ báo cáo về công tác tài chính – ngân sách khi cần thiết.

2.1.6 Chính phủ:

Quyền hạn của Chính phủ liên quan tới ngân sách Nhà nước được ghi nhận tại Điều 112 Hiến pháp 1992 và cụ thể hóa nội dung Luật Ngân sách Nhà nước, cụ thể:

– Trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội các dự án luật và pháp lệnh, ban hành các văn bản pháp quy liên quan đến Ngân sách Nhà nước thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.

– Lập và trình Quốc hội thông qua dự toán Ngân sách Nhà nước và dự toán phân bố Ngân sách Nhà nước, dự toán điều chỉnh Ngân sách Nhà nước trong trường hợp cần thiết, cũng như quyết toán các công trình xây dựng quan trọng mang tầm quốc gia đã được Quốc hội quyết định đầu tư bằng vốn ngân sách.

– Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách Nhà nước cho từng bộ nhiệm vụ thu, chi và mức bổ sung từ ngân sách Nhà nước Trung ương cho từng địa phương, giao tỷ lệ phần trăm phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đối với các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.

– Trước đây, Chính phủ còn được giao nhiệm vụ tổ chức và kiểm tra việc thực hiện ngân sách Nhà nước, theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002, nhiệm vụ này đã được phân cấp cho Bộ Tài chính thực hiện.

– Thống nhất quản lý ngân sách nhà nước, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý ngành và địa phương trong việc thực hiện ngân sách nhà nước;

– Tổ chức và điều hành thực hiện ngân sách nhà nước được Quốc hội quyết định, kiểm tra việc thực hiện ngân sách nhà nước, báo cáo Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước, các dự án và công trình quan trọng quốc gia, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, các dự án và công trình xây dựng cơ bản quan trọng khác;

– Quyết định việc sử dụng dự phòng ngân sách; quy định việc sử dụng quỹ dự trữ tài chính và các nguồn dự trữ tài chính khác của Nhà nước theo quy định của Luật này;

– Quy định hoặc phân cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định các định mức phân bổ và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước để làm căn cứ xây dựng, phân bổ và quản lý ngân sách nhà nước thực hiện thống nhất trong cả nước; đối với những định mức phân bổ và chế độ chi ngân sách quan trọng, phạm vi ảnh hưởng rộng, liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước, báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến bằng văn bản trước khi ban hành;

– Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về dự toán ngân sách, quyết toán ngân sách và các vấn đề khác thuộc lĩnh vực tài chính – ngân sách; trường hợp nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái với quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên thì Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thực hiện và đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ;

– Lập và trình Quốc hội quyết toán ngân sách nhà nước, quyết toán các dự án và công trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định;

– Ban hành quy chế xem xét, quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương.

Ngoài ra, tham gia tổ chức và điều hành Ngân sách Nhà nước còn có các cơ quan chức năng như Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng Nhà nước…

2.1.7 Bộ Tài chính: 

1) Chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh, các dự án khác về lĩnh vực tài chính – ngân sách và xây dựng chiến lược kế hoạch vay nợ, trả nợ trong nước và ngoài nước trình Chính phủ; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực tài chính – ngân sách theo thẩm quyền;

2) Chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc xây dựng các định mức phân bổ và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước, chế độ kế toán, quyết toán, chế độ báo cáo, công khai tài chính – ngân sách trình

Chính phủ quy định hoặc quy định theo phân cấp của Chính phủ để thi hành thống nhất trong cả nước;

3) Chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương; tổ chức thực hiện ngân sách nhà nước; chóng nhất quản lý và chỉ đạo công tác thu thuế, phí, lệ phí, các khoản thu khác của ngân sách nhà nước, các nguồn viện trợ quốc tế’ tổ chức thực hiện chi ngân sách nhà nước theo đúng dự toán được giao; lập quyết toán ngân sách trung ương; tổng hợp, lập quyết toán ngân sách nhà nước trình Chính phủ; tổ chức quản lý, kiểm tra việc sử dụng tài sản của Nhà nước;

4) Kiểm tra các quy định về tài chính – ngân sách của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; trường hợp quy định trong các văn bản đó trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, có quyền kiến nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ đối với những quy định của Bộ, cơ quan ngang Bộ; kiến nghị Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thi hành đối với những nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; đình chỉ việc thi hành hoặc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ đối với những quy định của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

5) Thống nhất quản lý nhà nước về vay và trả nợ của Chính phủ, vay và trả nợ của quốc gia;

6) Thanh tra, kiểm tra tài chính – ngân sách, xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với các vi phạm về chế độ quản lý tài chính – ngân sách của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, các địa phương, các tổ chức kinh tế, đơn vị hành chính, đơn vị sự nghiệp và các đối tượng khác có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước và sử dụng ngân sách nhà nước;

7) Quản lý quỹ ngân sách nhà nước, quỹ dự trữ nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước theo quy định của pháp luật.

2.1.8 Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư

1) Trình Chính phủ dự án kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của cả nước và các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, trong đó có cân đối tài chính, tiền tệ, vốn đầu tư xây dựng cơ bản làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tài chính – ngân sách;

2) Phối hợp với Bộ Tài chính lập dự toán ngân sách nhà nước. Lập phương án phân bổ ngân sách trung ương trong lĩnh vực phụ trách theo phân công của Chính phủ;

3) Phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành hữu quan kiểm tra, đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư các công trình xây dựng cơ bản.

2.1.9 Nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

1) Phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng chiến lược, kế hoạch vay nợ, trả nợ trong nước và ngoài nước, xây dựng và triển khai thực hiện phương án vay để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước;

2) Tạm ứng cho ngân sách nhà nước để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

2.1.9. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở trung ương

1) Xây dựng dự toán ngân sách hàng năm của cơ quan mình;

2) Phối hợp với Bộ Tài chính trong quá trình lập dự toán ngân -sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, quyết toán ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách;

3) Kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách;

4) Báo cáo tình hình thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách theo chế độ quy định;

5) Phối hợp với Bộ Tài chính trong việc xây dựng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách;

6) Quản lý, tổ chức thực hiện và quyết toán đối với ngân sách được giao; bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản của Nhà nước được giao.

2.1.10 Hội đồng nhân dân các cấp:

-Căn cứ vào nhiệm vụ thu chi ngân sách được cấp trên giao và tình hình thực tế tại địa phương, Hội đồng nhân dân các cấp được quyết định:

+Dự toán ngân sách Nhà nước cấp mình và ngân sách nhà nước trên địa bàn thuộc địa phương quản lý. Về nguyên tắc, cấp trên không quyết định chi tiết ngân sách Nhà nước của cấp dưới. Tuy nhiên, quyết định về ngân sách Nhà nước của Hội đồng nhân dân không thể trái với định hướng chung, không trái với Nghị quyết của Quốc hội về ngân sách Nhà nước.

+Phân bổ ngân sách Nhà nước (tổng số và mức chi từng lĩnh vực; dự toán chi ngân sách của từng cơ quan,

đơn vị thuộc cấp mình theo từng lĩnh vực; Mức bổ sung cho ngân sách từng địa phương cấp dưới),

+Phê chuẩn, quyết toán ngân sách Nhà nước cấp mình.

-Quyết định chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương.

-Quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết.

-Giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định.

-Bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật về tài chính-ngân sách của UBND cùng cấp và Hội đồng nhân

cấp dưới trực tiếp trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, NGhị quyết  của UBTVQH và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.

-Đối với Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, ngoài các nhiệm vụ quyền hạn nói trên, HĐND cấp tỉnh còn có nhiệm vụ:

+Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương.

+Quyết định tỉ lệ phần trăm phân chia giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương đối với phần ngân

sách địa phương được hưởng từ các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương.

+Là cơ quan quyền lực ở địa phương, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quyền ban hành một số chế độ thu phí, lệ phí, phụ thu theo quy định của Chính phủ. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được phép quyết định và thực hiện huy động vốn trong nước cho đầu tư trong trường hợp cấp tỉnh có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng mà vượt quá khả năng cân đối của địa phương. Với quyền hạn này, cấp tỉnh sẽ có thể phát huy tiềm năng để bồi dưỡng và tăng nguồn thu, chủ động bố trí chi tiêu hợp lý

+Quyết định cụ thể một số định mức phân bổ ngân sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi theo quy định của Chính phủ.

2.1.11 Ủy ban nhân dân các cấp:

1) Lập dự toán ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình theo các chỉ tiêu quy định; dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp;

2) Lập quyết toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp;

3) Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới về tài chính – ngân sách;

4) Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc; nhiệm vụ thu, chi, mức bổ sung cho ngân sách cấp dưới và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương đối với các khoản thu phân chia; quy định nguyên tắc bố trí và chỉ đạo thực hiện dự toán ngân sách đối với một số lĩnh vực chi được Hội đồng nhân dân quyết định

5) Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện ngân sách đia phương;

6) Phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn;

7) Báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật;

8) Đối với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các điểm trên, còn có nhiệm vụ lập và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân cùng cấp

9) Chỉ đạo cơ quan tài chính địa phương chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ theo quy định

2.1.12. Nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị dự toán ngân sách

1) Tổ chức lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý, thực hiện phân bổ dự toán ngân sách được cấp có thẩm quyền giao cho các đơn vị trực thuộc và điều chỉnh phân bổ dự toán theo thẩm quyền;

2) Tổ chức thực hiện dự toán thu, chi ngân sách được giao; nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản phải nộp ngân sách theo quy định của pháp luật; chi đúng chế độ, đúng mục đích, đúng đối tượng và tiết kiệm; quản lý, sử dụng tài sản của Nhà nước đối với các đơn vị trực thuộc theo đúng chế độ quy định;

3) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện thu, chi ngân sách đối với các đơn vị trực thuộc;

4) Chấp hành đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê; báo cáo, quyết toán ngân sách và công khai ngân sách theo quy định của pháp luật; duyệt quyết toán đối với các đơn vị dự toán cấp dưới;

5) Đối với các đơn vị dự toán là đơn vị sự nghiệp, ngoài nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các điểm trên còn được chủ động sử dụng nguồn thu sự nghiệp để phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động theo quy định của Chính phủ.

2.1.13 Tổ chức, cá nhân 

1) Nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản phải nộp khác vào ngân sách theo quy định của pháp luật;

2) Trường hợp được Nhà nước trợ cấp, hỗ trợ vốn và kinh phí theo dự toán được giao thì phải quản lý, sử dụng các khoản vốn và kinh phí đó đúng mục đích, đúng chế độ, tiết kiệm, có hiệu quả và quyết toán với cơ quan tài chính;

3) Chấp hành đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê và công khai ngân sách.

2.2. Phân định nhiệm vụ chi, nguồn thu giữa các cấp ngân sách Nhà nước:

2.2.1 Nguyên tắc:

-Ngân sách trung ương-ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể. Việc phân định được đảm bảo bằng pháp luật. Các cấp chính quyền không được phép đặt ra hoặc điều chỉnh khoản thu của ngân sách cấp mình. Mỗi cấp ngân sách chỉ phải tiến hành nhiệm vụ thu chi trên cơ sở luật định.

-Bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới phải đảm bảo công bằng, đảm bảo yêu cầu phát triển cân đối giữa các vùng, địa phương. Số bổ sung này là khoản thu của ngân sách cấp dưới. Việc bổ sung không phải được thực hiện đồng loạt đối với mọi cấp ngân sách mà dựa trên khả năng thu, nhiệm vụ chi của mỗi cấp ngân sách mà ngân sách cấp trên sẽ thực hiện việc cấp bổ sung.

-Không được dựng ngân của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp ngân sách khác. Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên ủy quyền cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp ngân sách thực hiện nhiệm vụ đó.

 

2.2.2 Phân định nguồn thu nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách:

2.2.2.1. Thu của ngân sách Nhà nước địa phương:

Ngân sách Nhà nước địa phương bao gồm ba cấp ngân sách: Ngân sách tỉnh, ngân sách huyện và ngân sách xã. Mỗi cấp ngân sách Nhà nước đều được hình thành từ ba nguồn thu: thu cố định, thu điều tiết và thu bổ sung.

* Thu cố định: Khoản thu phát sinh tại địa phương và địa phương được hưởng 100%. Tùy theo từng cấp ngân sách địa phương mà nguồn thu cố định là khác nhau:

– Khoản thu 100% vào  ngân sách Nhà nước của Tỉnh:

+Thuế nhà, đất

+Thuế tài nguyên

+Thuế môn bài

+Thuế chuyển quyền sử dụng đất và thuế sử dụng đất nông nghiệp

+Tiền sử dụng đất

+Tiền cho thuê đất

+Tiền cho thuê và tiền bán nhà thuộc sở hữu nhà nước

+ Lệ phí trước bạ của nhà, đất

+Thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các tổ chức kinh tế, thu từ quỹ dự trữ tài chính của địa

phương, thu nhập từ vốn góp của địa phương.

+ Toàn bộ thu từ hoạt động xổ số.

+ Thu kết dư ngân sách Nhà nước.

+ Các khoản viện trợ không hoàn lại của các tổ chức trực tiếp cho địa phương.

+ Các khoản thu khác (phí, lệ phí thu từ hoạt động sự nghiệp và các khoản thu khác nộp vào ngân sách cấp tỉnh)

– Khoản thu 100% của ngân sách Nhà nước huyện:

+ Thuế môn bài, trừ thuế môn bài của các hộ kinh doanh nhỏ.

+ Thuế sát sinh của tất cả các doanh nghiệp trên địa bàn.

+ Các khoản phí và lệ phí quy định cho ngân sách huyện.

+ Viện trợ không hoàn lại.

+ Các khoản thu từ kết dư ngân sách Nhà nước và thu khác.

– Khoản thu 100% của ngân sách Nhà nước cấp xã: Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước 2002, Ngân sách cấp xã được tăng thu, tuy nhiên, chủ yếu tăng thu từ nguồn thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới, cu thể:

+ Thuế môn bài từ các hộ kinh doanh nhỏ.

+ Thuế sát sinh do cá nhân giết mổ.

+ Các khoản phí, lệ phí quy định cho ngân sách xã.

+ Các khoản thu từ sự nghiệp dịch vụ của xã.

+ Các khoản thu từ đóng góp, ủng hộ.

+ Thu kết dư và các khoản thu khác.

* Thu điều tiết: Là khoản thu phát sinh trên địa bàn địa phương được hưởng theo một tỷ lệ phần trăm (%) nhất định. Thu điều tiết phát sinh trong trường hợp các khoản thu cố định của địa phương không đáp ứng được nhiệm vụ và chỉ tiêu được giao.

Tỷ lệ điều tiết cho các cấp ngân sách Nhà nước được ổn định từ 3 đến 5 năm, tạo cho địa phương chủ động trong bố trí kế hoạch ngân sách hàng năm và khuyến khích đầu tư tạo nguồn thu. NGười ta có thể gọi giai đoạn cố định tỷ lệ phần trăm của các khoản thu được điều tiết theo tỷ lệ phần trăm là thời kỳ ổn định ngân sách.

– Các khoản thu điều tiết giữa ngân sách Nhà nước Trung ương và ngân sách Nhà nước cấp tỉnh:

+ Thuế giá trị gia tăng, không kể thuế giá trị gia tăng hàng hóa nhập khẩu.

+ Thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể thuế thu nhập của các đơn vị hạch toán toàn ngành và thu nhập của hoạt động xổ số).

+ Thuế thu nhập cá nhân.

+ Thuế tiêu thụ đặc biệt từ hàng hóa, dịch vụ trong nước.

+Phí xăng dầu.

Ngoài khoản thu điều tiết này, kết thúc năm ngân sách Nhà nước, nếu tỉnh hoàn thành vượt mức kế hoạch thu ngân sách Nhà nước Trung ương về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt thì ngân sách nhà nước ở địa phương còn được trích một phần theo tỷ lệ phần trăm của số tăng để để giữ lại cho ngân sách của địa phương, với tính chất là khoản thưởng cho ngân sách Nhà nước của địa phương đó.

– Các khoản thu điều tiết giữa các cấp ngân sách Nhà nước tỉnh, ngân sách huyện và ngân sách xã.

+ Thuế chuyển quyền sử dụng đất.

+ Thuế nhà, đất.

+ Thu tiền sử dụng đất.

+ Thuế sử dụng đất nông nghiệp.

+ Thuế tài nguyên.

+ Lệ phí trước bạ nhà đất.

+ Thuế tiêu thụ đặc biệt các mặt hàng sản xuất trong nước (trừ sản xuất rượu, bia, thuốc lá, pháo, xăng dầu, ô tô).

Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định tỷ lệ điều tiết giữa ngân sách Nhà nước các cấp chính quyền địa phương trong đó đối với các thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì tỷ lệ điều tiết tối đa không quá tỷ lệ điều tiết giữa ngân sách Nhà nước Trung ương với ngân sách Nhà nước tỉnh, đối với các xã, thị trấn tối đa không quá tỷ lệ điều tiết được phân chia cho huyện.

Riêng đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh, ngoài nguồn thu điều tiết trên vẫn được tính thêm các khoản thu theo tỷ lệ phần trăm gồm có: Thuế giá trị gia tăng trên địa bàn (không kể thuế giá trị gia tăng của hoạt động xổ số), thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể thu nhập của các đơn vị hạch toán toàn ngành và xổ số), lệ phí trước bạ trên địa bàn nếu có.

* Thu bổ sung: trong trường hợp thu cố định và thu điều tiết của địa phương không đảm bảo được yêu cầu chi được phân cấp, sẽ được ngân sách Nhà nước cấp trên bù. Số thu bổ sung được xác định riêng cho từng cấp ngân sách địa phương dựa trên các tiêu thức dân số, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội của từng vùng và có chú ý đến vùng sâu, vùng xa.

Số thu bổ sung được ổn định từ 3 – 5 năm và được điều chỉnh hàng năm tùy theo tỷ lệ trượt giá do Thủ tướng chính phủ công bố. Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định mức bổ sung từ ngân sách Nhà nước cấp huyện cho ngân sách Nhà nước cấp xã.

Ngoài các khoản thu trên, ngân sách Nhà nước cấp tỉnh được huy động vốn trong nước. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu. Trường hợp tỉnh có nhu cần đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm thuộc danh mục đầu trong kế hoạch 5 năm đã đựơc HĐND cấp tỉnh quyết định nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán thì được phép huy động vốn trong nước bằng cách phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nướchàng năm của ngân sách cấp tỉnh.

2.2.2.2. Nhiệm vụ chi ngân sách Nhà nước địa phương:

Nhiệm vụ chi của từng cấp ngân sách Nhà nước địa phương phụ thuộc vào việc phân cấp quản lý hành chính – kinh tế của mỗi cấp chính quyền. Các khoản chi của từng cấp ngân sách Nhà nước địa phương nội dung có thể giống nhau nhưng khác nhau về mức độ và đối tượng chi. Chi ngân sách Nhà nước địa phương gồm:

– Chi thường xuyên: bao gồm

+Chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin, văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học công nghệ môi trường các hoạt động sự nghiệp khác do địa phương quản lý.

+Chi cho an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội (phần giao cho địa phương);

+Chi cho hoạt động của cơ quan nhà nước, Đảng Cộng sản, tổ chức chính trị – xã hội ở địa phương…

+Chi hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp ở địa phương theo quy định của pháp luật

+Thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng do địa phương quản lý

+Chương trình quốc gia do Chính phủ giao cho địa phương quản lý

+Trợ giá theo chính sách của nhà nước

– Chi đầu tư phát triển.

+Đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội do địa phương quản lý

+Đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính nhà nứoc theo quy định pháp luật.

-Chi trả nợ gốc và lãi những khoản tiền huy động cho đầu tư xây dựng công trình, kết cấu hạ tầng thông qua việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương.

– Chi bổ sung cho ngân sách Nhà nước cấp dưới.

– Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính.

2.2.2.3 Phân định nguồn thu của ngân sách Nhà nước Trung ương:

Do vị trí chủ đạo trong hệ thống ngân sách Nhà nước, ngân sách Nhà nước Trung ương cần phải tập trung được những nguồn ngân sách Nhà nước cơ bản nhất.

* Các khoản thu cố định gồm:

– Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

– Thuế tiêu thụ đặc biệt.

– Thuế lợi tức của các đơn vị hạch toán toàn ngành.

– Các khoản thuế và thu khác về dầu khí.

– Lợi tức từ góp vốn của Nhà nước, thu hồi tiền cho vay.

– Các khoản phí và lệ phí quy định nộp vào ngân sách Nhà nước Trung ương.

– Thu kết dư.

– Các khoản thu từ viện trợ không hoàn lại của chính phủ các nước, tổ chức quốc tế, tổ chức cá nhân nước ngoài cho chính phủ Việt Nam

* Khoản thu điều tiết chuyển về cho ngân sách Nhà nước Trung ương sau khi đã để lại cho địa phương theo tỷ lệ điều tiết ổn định:

-Thuế VAT (Trừ thuế VAT đối với hàng hoá nhập khẩu)

-Thuế thu nhập doanh nghiệp (trừ thuế TNDN đối với DN hạch toán toàn ngành)

-Thuế thu nhập cá nhân

-Thuế tiêu thụ đặc biệt từ hàng hoá, dịch vụ trong nước.

-Phí xăng, dầu

* Trong trường hợp cần phải bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước, ngân sách Nhà nước Trung ương được phép vay trong nước hoặc vay nước ngoài nhưng chỉ nhằm mục đích phục vụ cho đầu tư nhưng không được sử dụng bất kỳ khoản vay nào nhằm mục đích phục vụ cho các khoản chi thường xuyên; đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, ngân sách nhà nước thường ưu tiên chọn giải pháp vay trong nước dưới hình thức các loại giấy tờ có giá ngắn hoặc dài hạn.

2.2.2.4 Nhiệm vụ chi ngân sách Nhà nước Trung ương:

– Chi thường xuyên:

+Cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục, dạy nghề,y tế, xã hội,văn hóa thông tin,văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường

+Các sự nghiệp kinh tế do Trung ương quản lý, các sự nghiệp kinh tế khác do Trung ương quản lý

+ Chi cho các nhiệm vụ về quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã hội do ngân sách trung ương bảo đảm theo yêu cầu của Chính phủ;

+Chi thường xuyên cho các hoạt động của các cơ quan nhà nước trung ương thuộc hệ thống cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, cơ quan Đảng CSVN và các tổ chức chính trị xã hội.

+Chi trợ giá theo yêu cầu chính sách nhà nước

+Chi thường xuyên dành cho các đối tượng chính sách như thực hiện chế độ đối với những người về hưu, nghỉ mất sức theo quy định của Luật Lao động, chi cho các đối tượng thương binh, bệnh binh, liệt sĩ…

+Chi thuờng xuyên hỗ trợ cho các tổ chức chính trị-xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, xã hội-nghề nghiệp thuộc trung ương.

+Chương trình quốc gia do Trung ương thực hiện.

+Chi hỗ trợ quỹ Bảo hiểm xã hội theo luật định.

– Chi đầu tư phát triển:

+ Đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn;

+Đầu tư hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực quan trọng, cần thiết phải có sự tham gia của Nhà nước. Trước đây, theo Luật Ngân sách nhà nước 1998, ngân sách nhà nước chỉ phải chi đầu tư phát triển cho các doanh nghiệp nhà nước mà không đề cập đến các tổ chức kinh tế dưới dạng góp vốn cổ phần.

+Chi bổ sung dự trừ nhà nước dưới dạng bổ sung cho dự phòng ngân sách trung ương.

+Chi hỗ trợ tài chính, bổ sung vốn, hỗ trợ và thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật.

+Phần chi đầu tư phát triển trong các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước do cơ quan trung ương thực hiện

+Chi hỗ trợ các tổ chức tài chính của nhà nước do trung ương quản lý

– Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính trung ương.

– Chi bổ sung cho ngân sách địa phương

– Chi cho vay theo quy định của pháp luật.

– Chi viện trợ

– Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay.

2.2.2.5 Mối liên hệ giữa việc phân định nguồn thu-nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách

Việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa ngân sách các cấp được thực hiện như sau:

1) Ngân sách trung ương và ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể;

2) Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia và hỗ trợ những địa phương chưa cân đối được thu, chi ngân sách;

3) Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong thực hiện những nhiệm vụ được giao; tăng cường nguồn lực cho ngân sách xã. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn;

4) Nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó bảo đảm; việc ban hành và thực hiện chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách phải có giải pháp bảo đảm nguồn tài chính phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách từng cấp;

5) Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên ủy quyền cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi của mình, thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó;

6) Thực hiện phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa ngân sách các cấp và bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để bảo đảm công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu và số bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được ổn định 3 đến 5 năm. Số bổ sung từ ngân sách cấp trên là khoản thu của ngân sách cấp dưới;

Việc xác định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia phần ngân sách địa phương được hưởng thực hiện theo công thức sau:

Gọi:

Tổng số chi ngân sách địa phương (sau khi trừ đi các khoản sau: chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới, chi từ nguồn bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương, chi đầu tư từ nguồn huy động theo Khoản 3 Điều 8 của Luật Ngân sách nhà nước, chi từ nguồn đóng góp tự nguyện, chi từ nguồn viện trợ, chi từ nguồn Chính phủ vay ngoài nước, chi chuyển nguồn sang ngân sách năm sau) là A.

Tổng số các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100% (sau khi trừ đi các khoản thu sau: thu bổ sung từ ngân sách cấp trên, thu kết dư, thu huy động theo Khoản 3 Điều 8 của Luật Ngân sách nhà nước, thu từ đóng góp tự nguyện, thu viện trợ, thu chuyển nguồn từ ngân sách năm trước) là B.

Tổng số các khoản thu được phân chia giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương là C.

Nếu A – B  < C  thì tỷ lệ phần trăm (%) phân chia được tính theo công thức:

A  – B

Tỷ lệ phần trăm (%)  = —————-  x 100 %

C

Nếu A – B  ≥ C thì tỷ lệ phần trăm (%) xác định bằng 100% và phần chênh lệch sẽ được ngân sách trung ương bổ sung để cân đối ngân sách địa phương.

7) Trong thời kỳ ổn định ngân sách các địa phương được sử dụng nguồn tăng thu hàng năm mà ngân sách địa phương được hưởng để phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn; sau mỗi thời ký ổn định ngân sách, phải tăng khả năng tự cân đối, phát triển ngân sách địa phương, thực hiện giảm dân số bổ sung từ ngân sách cấp trên hoặc tăng tỷ lệ phần trăm (%) điều tiết số thu nộp về ngân sách cấp trên;

8) Ngoài việc ủy quyền thực hiện nhiệm vụ chi và bổ sung nguồn thu quy định tại điểm 5 và điểm 6 ở trên, không được dựng ngân sách của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp khác, trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ

IV. QUẢN LÝ QUỸ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:

1. Khái niệm:

Quản lý quỹ ngân sách Nhà nước là việc xây dựng kế hoạch tạo lập, sử dụng ngân sách Nhà nước tập trung các khoản thu, tổ chức và điều hòa vốn tiền mặt đảm bảo thực hiện chi trả tiền ngân sách Nhà nước.

Việc quản lý quỹ ngân sách Nhà nước phải đảm bảo tính thống nhất, tính đầy đủ và tính phân cấp.

Tính thống nhất thể hiện trong các chế độ, chính sách, phương thức quản lý và sự thống nhất khi sử dụng đơn vị tiền tệ để hạch toán, Luật Ngân sách nhà nước quy định mọi khoản  thu, chi ngân sách Nhà nước đều phải được hạch toán bằng đồng Việt Nam).

Tính toán đầy đủ yêu cầu tất cả các khoản thu chi của ngân sách phải được hạch toán đầy đủ vào ngân sách Nhà nước. Các khoản thu do cơ quan thu trực tiếp thu phải nộp tiền vào kho bạc và phải báo cáo với cơ quan tài chính, kho bạc để hạch toán và làm các thủ tục cấp phát, thanh toán.

Tính phân cấp đòi hỏi nguồn thu của ngân sách cấp nào phải tập trung vào ngân sách cấp đó, không được sử dụng quỹ của ngân sách cấp này để chi cho ngân sách cấp khác.

Hoạt động quản lý quỹ ngân sách Nhà nước bao gồm các nội dung sau:

  • Xây dựng kế hoạch tạo lập và sử dụng quỹ Ngân sách Nhà nước, lập và cụ thể hóa thu chi ngân sách Nhà nước cả năm và theo định kỳ kế hoạch.
  • Tập trung các nguồn thu là việc sử dụng hệ thống pháp luật thu hiện hành, các nghiệp vụ và kế hoạch thu được phân bổ để tạo lập quỹ ngân sách Nhà nước, kể cả việc thực hiện các nghiệp vụ vay.
  • Tổ chức điều tiết nguồn thu cho từng cấp ngân sách Nhà nước trên cơ sở kế hoạch đã được phân bổ, bảo đảm nguồn kinh phí kịp thời cho các cấp ngân sách Nhà nước.
  • Thực hiện chi trả, cấp phát cho các đối tượng, kiểm tra việc sử dụng kinh phí theo chế độ chi tiêu của Nhà nước.

 

2. Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước trong quản lý quỹ ngân sách Nhà nước:

2.1. Hệ thống cơ quan tài chính Nhà nước và nhiệm vụ quản lý quỹ ngân sách Nhà nước.

Hệ thống quản lý quỹ ngân sách Nhà nước được diễn ra liên tục ở tất cả các khâu của hệ thống cơ quan tài chính. Mỗi tổ chức trong hệ thống cơ quan tài chính có những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể đối với công tác quản lý quỹ ngân sách Nhà nước.

Bộ Tài chính cùng với các cơ quan tài chính địa phương là hệ thống cơ quan quản lý chuyên môn tổng hợp, có chức năng quản lý ngân sách Nhà nước, bảo đảm điều kiện vật chất để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước một cách có hiệu quả và tiết kiệm. Dựa vào tình hình phát triển kinh tế – xã hội và khả năng thu của các cơ quan thu, cơ quan tài chính có trách nhiệm lập kế hoạch thu và chi ngân sách toàn bộ hệ thống, đồng thời tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động có liên quan tới quỹ ngân sách Nhà nước.

Cơ quan thuế là một bộ phận trong hệ thống cơ quan tài chính có chức năng xác định khả năng thu những khoản nộp bắt buộc để tạo nguồn cho ngân sách. Hoạt động này của cơ quan thuế có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì các khoản thu về thuế đóng vai trị quyết định cho việc hình thành quỹ ngân sách Nhà nước, cơ quan thuế các cấp phải có những biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ thu, nâng cao ý thức chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật tài chính.

Cơ quan thuế được tổ chức thành hệ thống thống nhất từ Trung ương đến các địa phương, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ thu ngân sách trên địa bàn hoạt động.

Kho bạc Nhà nước là một tổ chức trong hệ thống cơ quan tài chính, có chức năng quản lý quỹ ngân sách Nhà nước. Nhiệm vụ chủ yếu của kho bạc là tập trung và phản ánh các khoản thu ngân sách Nhà nước, thực hiện điều tiếu số thu ngân sách Nhà nước cho các cấp ngân sách Nhà nước và thực hiện chi trả, kiểm soát chi ngân sách Nhà nước theo từng đối tượng thụ hưởng theo dự toán được duyệt. Trong kho bạc Nhà nước được tổ chức theo hệ thống dọc, thống nhất từ Trung ương đến địa phương theo 3 cấp.

2.2. Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan quản lý tài chính Nhà nước trong quản lý quỹ ngân sách Nhà nước:

2.2.1. Hoạt động xây dựng kế hoạch ngân sách Nhà nước:

Cơ quan tài chính có trách nhiệm cùng các đơn vị Trung ương và địa phương xây dựng dự án ngân sách Nhà nước và dự án phân bổ ngân sách Nhà nước Trung ương để trình Chính phủ, đề xuất các biện pháp nhằm thực hiện chính sách tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách Nhà nước.

Cơ quan thuế có trách nhiệm đánh giá tình hình thực hiện các khoản thu trong năm kế hoạch dựa trên những dự báo tình hình phát triển kinh tế xã hội để dự kiến số thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác.

Cơ quan Hải quan các cấp lập dự toán thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các khoản thu khác liên quan đến xuất nhập khẩu cấp mình quản lý gởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

2.2.2. Tập trung các nguồn thu ngân sách:

Theo Luật Ngân sách Nhà nước, chỉ có cơ quan tài chính, cơ quan thuế, cơ quan hải quan và các cơ quan khác được Bộ Tài chính giao nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước (gọi chung là các cơ quan thu) mới được tổ chức thu ngân sách Nhà nước.

Cơ quan thuế có trách nhiệm xác định mọi nguồn thu từ thuế, lệ phí, và các khoản thu khác. Tất cả các nguồn thu và khoản thu đều do cán bộ thuộc ngành thuế viết biên lai. Trường hợp đặc biệt cần ủy nhiệm cho các ngành, các tổ chức hoặc cá nhân, Nhà nước có quy định cụ thể về phương thức thu, thời gian nộp tìên vào kho bạc Nhà nước và báo cáo định kỳ để tránh tình trạng biển thủ, tham ô tiền thuế.

Cơ quan Hải quan Việt Nam là cơ quan Nhà nước được giao trách nhiệm quản lý mọi hoạt động di chuyển hàng hóa qua biên giới Việt Nam, giữ vững an ninh kinh tế và trật tự an toàn xã hội cũng như giữ vững những truyền thống văn hóa dân tộc. Thực hiện nhiệm vụ này trong hoạt động của mình, cơ quan hải quan cũng tiến hành thu những khoản thu nhất định mà chủ yếu là thuế xuất nhập khẩu và các khoản khác như phí, lệ phí, tiền phạt v.v… Vì vậy, trong nhiệm vụ tập trung các nguồn của quỹ ngân sách Nhà nước, cơ quan Hải quan có những trách nhiệm xác định rõ thuế xuất, nhập khẩu, kể cả xuất nhập khẩu tiểu ngạch của đơn vị để đối tượng nộp trực tiếp tại kho bạc (nếu là tiền mặt) hoặc chuyển vào tài khoản chuyên thu của cơ quan Hải quan mở tại kho bạc; có trách nhiệm chủ động bố trí cán bộ, phương tiện đảm bảo thu hết số thiền thuế theo kế hoạch.

Đối với các tổ chức kinh tế và tư nhân có địa điểm sản xuất kinh doanh cố định, có mức thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước khác bằng tiền mặt lớn, kho bạc thu trực tiếp tại các điểm thu theo quy định. Việc bố trí các điểm thu của kho bạc (nhất là các điểm lưu động), phải đảm bảo được sự thuận tiện và an toàn cho đối tượng nộp, cho việc vận chuyển tiền về Kho bạc nhằm tập trung các nguồn thu vào ngân sách Nhà nước nhanh và có hiệu quả, giảm hiện tượng xâm tiêu thuế cũng như nợ đọng thuế, thực hiện sự kiểm tra giám sát lẫn nhau giữa cơ quan phát lệnh thu và cơ quan thu.

Đối với các doanh nghiệp nếu nộp thuế và các khoản phải nộp khác bằng chuyển khoản, có thể nộp vào tài khoản tiền gửi của kho bạc Nhà nước mở tại Ngân hàng nơi doanh nghiệp đó mở tài khoản chuyên thu tại Kho bạc Nhà nước để nộp thuế và các khoản phải nộp khác. Quan hệ thu nộp này được thực hiện do hệ thống Kho bạc được phép mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng chuyên doanh. Các doanh nghiệp thực hiện nộp thuế vào tài khoản của Kho bạc tại Ngân hàng theo thời hạn và mức thuế được xác định.

Đối với các khoản thu từ thuế và thu khác thực hiện bằng ngoại tệ, kho bạc có thể mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng ngoại thương để các đối tượng thực hiện nghĩa vụ của mình theo lệnh của cơ quan tài chính hoặc cơ quan thuế, căn cứ vào tỷ giá tại thời điểm thực hiện giao dịch để quy đổi tương đương với giá trị của đồng Việt Nam.

Đồng thời với hoạt động thu, Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm hạch toán đầy đủ kịp thời mọi khoản thu ngân sách Nhà nước vào ngân sách Nhà nước, đảm bảo an toàn về số tiền thu được và thực hiện nhập kho tiền theo quy định. Sau khi hạch toán vào tài khoản thu ngân sách Nhà nước, kho bạc phải gửi giấy hồi báo cho cơ quan thuế hoặc cơ quan Hải quan về khối lượng tiền đã thu của từng đối tượng nộp nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng nộp.

Để đảm bảo nguồn thu được tập trung nhanh, kịp thời và đầy đủ vào ngân sách Nhà nước cũng như hạn chế những hiện tượng tiêu cực, Kho bạc có quyền quy định mức tồn quỹ hàng ngày hoặc định kỳ cho cơ quan thuế, cơ quan Hải quan.

2.2.3. Thực hiện điều tiết nguồn thu cho từng cấp ngân sách Nhà nước.

Dựa trên tỷ lệ điều tiết được Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phân bổ cho các cấp ngân sách, cơ quan tài chính tổng hợp chuyển cho Kho bạc cùng cấp thực hiện điều tiết thực tế.

Kho bạc Nhà nước căn cứ vào kế hoạch thu và tỷ lệ điều tiết được thông báo khi thực hiện thu, chuyển trả ngay vào sổ thu điều tiết cho ngân sách Nhà nước địa phương, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu chi, tránh tình trạng dồn vào cuối quý, cuối năm.

2.2.4. Thực hiện chi trả, cấp phát cho các đối tượng, tiến hành kiểm soát chi Ngân sách Nhà nước:

Chi ngân sách Nhà nước không phải là những hành vi riêng lẻ, độc lập mà là hành vi sử dụng vốn qua một quy trình từ phân phối cho đến khi sử dụng. Do nhu cầu quản lý kinh tế ngày càng cao, đòi hỏi hoạt động chi ngân sách Nhà nước phải được thực hiện thông qua nhiều các cơ quan khác nhau.

Dựa trên quyết định phân bổ của Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp theo phương án phân bổ của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng nhân dân, gửi đến cơ quan tài chính cùng cấp và kho bạc nơi giao dịch kế hoạch tài chính của mình. Các cơ quan tài chính lập kế hoạch bố trí đều kinh phí trong năm để chi và quản lý, theo dõi đối với các khoản chi thường xuyên và có kế hoạch chi chủ động đối với những khoản chi đầu tư.

Kho bạc Nhà nước các cấp dựa vào hạn mức chi do cơ quan tài chính thông báo và lệnh chuyển chi của Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, thực hiện thanh toán cho bên thụ hưởng. Tất cả các khoản chi ngân sách đều được thực hiện trực tiếp tại Kho bạc cho bên thụ hưởng và phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về chi ngân sách Nhà nước.

V. XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1. Khái niệm vi phạm pháp luật về ngân sách nhà nước

Hành vi vi phạm pháp luật về ngân sách nhà nước là hành vi làm trái các quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước do chủ thể là tổ chức, cá nhân thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý gây phương hại đến trật tự công cộng và do đó phải gánh chịu những chế tài tương ứng theo qui định của pháp luật .

2. Các hành vi vi phạm pháp luật về Ngân sách nhà nước

Những hành vi sau đây là những hành vi vi phạm pháp luật về ngân sách :

1) Không kê khai hoặc kê khai sai doanh thu, thu nhập, chi phí, giá và các căn cứ tính các khoản phải nộp ngân sách; trì hoãn, nộp không đầy đủ hoặc không thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, trừ trường hợp được phép chậm nộp do cơ quan có thẩm quyền quyết định.

2)Cho miễn, giảm và cho phép chậm nộp các khoản phải nộp ngân sách nhà nước sai thẩm quyền, trái nội dung quy định; giữ lại nguồn thu của ngân sách sai chế độ, sử dụng các nguồn thu được để lại để chi không đúng mục đích, vượt tiêu chuẩn, chế độ, định mức quy định.

3)Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt, hoặc chiếm dụng nguồn thu ngân sách.

4) Thực hiện phân chia sai nguồn thu giữa các cấp ngân sách.

5) Thu sai quy định của pháp luật.

6) Chi sai chế độ, không đúng mục đích, không đúng dự toán ngân sách được giao.

7) Duyệt quyết toán sai quy định của pháp luật.

8) Hạch toán sai chế độ kế toán của Nhà nước và Mục lục Ngân sách nhà nước gây thiệt hại cho ngân sách.

9) Tổ chức, cá nhân được phép tự kê khai, tự nộp thuế mà kê khai sai, nộp sai chế độ quy định gây thiệt hại cho ngân sách.

10) Quản lý hoá đơn, chứng từ sai chế độ; mua bán, sửa chữa, làm giả hoá đơn và chứng từ thanh toán; sử dụng hoá đơn, chứng từ không hợp pháp;

11) Trì hoãn việc chi ngân sách khi đã bảo đảm có đủ các điều kiện chi theo quy định; quyết toán ngân sách chậm so với thời hạn quy định.

12) Các hành vi khác trái với quy định của những văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực ngân sách.

3. Các hình thức xử lý

Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về ngân sách thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại cho công quỹ thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Các hình thức xử lý vi phạm bao gồm:

– Chế tài hành chính áp dụng cho các vi phạm hành chính trong lĩnh vực Ngân sách nhà nước. Chế tài này có thể tước đi một số quyền lợi về vật chất và tinh thần của người vi phạm nhằm khôi phục lại hậu quả và răn đe, giáo dục đối với người vi phạm .

 

– Chế tài hình sự. Về mặt nguyên tắc, để áp dụng chế tài hình sự đối với một hành vi vi phạm pháp luật về ngân sách  thì cơ quan có thẩm quyền phải chứng minh rằng hành vi vi phạm đó là tội phạm và được quy định trong Bộ luật hình sự .

– Chế tài dân sự. Bất kể hành vi nào gây thiệt hại cho quyền tài sản hay lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia vào họat động Ngân sách nhà nước thì đều phải chịu trách nhiệm dân sự .

 


 

Chương III – Chu trình ngân sách

Chu trình ngân sách hay còn gọi là quy trình ngân sách dựng để chỉ tòan bộ họat động của một ngân sách kể từ khi bắt đầu hình thành cho đến khi kết thúc chuyển sang ngân sách mới. Một chu trình ngân sách bao gồm 3 khâu nối tiếp nhau, đó là: lập ngân sách, chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách.

1. Lập dự toán Ngân sách nhà nước

1.1. Mục tiêu của lập dự toán Ngân sách nhà nước

Lập dự toán Ngân sách nhà nước là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định đối với tòan bộ các khâu của quá trình quản lý ngân sách. Lập dự toán ngân sách thực chất là lập kế họach thu chi của ngân sách trong một năm. Kết quả của khâu này là bản dự toán ngân sách. Bản dự toán ngân sách phải đảm bảo mục tiêu là dự toán ngân sách sẽ đáp ứng được việc thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội. Và việc phân bổ các nguồn lực phù hợp với chính sách của nhà nước

1.2. Yêu cầu của dự toán Ngân sách nhà nước 

– Dự toán ngân sách nhà nước và dự toán ngân sách các cấp chính quyền phải tổng hợp theo từng lĩnh vực thu, chi và theo cơ cấu giữa chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ.

-. Dự toán ngân sách của các cấp chính quyền, của đơn vị dự toán các cấp phải lập theo đúng yêu cầu, nội dung, biểu mẫu và thời hạn quy định.

– Dự toán ngân sách phải kèm theo báo cáo thuyết minh rõ cơ sở, căn cứ tính toán.

– Dự toán ngân sách các cấp phải bảo đảm cân đối theo nguyên tắc sau:

+ Đối với dự toán ngân sách nhà nước: tổng số thu thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và các khoản chi trả nợ; bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển.

+ Đối với dự toán ngân sách cấp tỉnh: phải cân bằng giữa thu và chi trên cơ sở số thu của ngân sách cấp tỉnh gồm: các khoản thu ngân sách cấp tỉnh được hưởng 100%, các khoản thu phân chia cho ngân sách cấp tỉnh theo tỷ lệ phần trăm (%) đã được quy định và số bổ sung cân đối từ ngân sách trung ương (nếu có); số dự kiến huy động vốn trong nước để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định

+ Đối với dự toán ngân sách cấp huyện, và cấp xã phải cân bằng thu, chi.

1.3. Căn cứ lập dự toán ngân sách 

Cơ quan làm công tác dự toán thường phải cân đối ngân sách thông qua việc ước lượng những khỏan thu và ước lượng những khỏan chi. Việc ước lượng đòi hỏi phải chính xác, khoa học. Vì vậy mà thông tư số 59 của Bộ Tài chính có qui định rằng khi lập Dự toán Ngân sách nhà nước, cơ quan có thẩm quyền phải dựa trên những căn cứ sau đây:

– Nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng – an ninh; chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể của năm kế hoạch và những chỉ tiêu phản ánh quy mô nhiệm vụ, đặc điểm hoạt động, điều kiện kinh tế – xã hội và tự nhiên của từng vùng như: dân số theo vùng lãnh thổ, các chỉ tiêu về kinh tế – xã hội do cơ quan có thẩm quyền thông báo đối với từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, từng địa phương và đơn vị;

– Các luật, pháp lệnh thuế, chế độ thu; định mức phân bổ ngân sách; chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách do cấp có thẩm quyền quy định; trường hợp cần sửa đổi, bổ sung các văn bản này thì phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và ban hành trước thời điểm lập dự toán ngân sách nhà nước hàng năm. Trong đó:

+ Đối với thu ngân sách nhà nước, việc lập dự toán phải căn cứ vào mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu liên quan và các quy định của pháp luật về thu ngân sách;

+ Đối với chi đầu tư phát triển, việc lập dự toán phải căn cứ vào những dự án đầu tư có đủ các điều kiện bố trí vốn theo quy định tại Quy chế quản lý vốn đầu tư và xây dựng và phù hợp với khả năng ngân sách hàng năm, kế hoạch tài chính 5 năm; đồng thời ưu tiên bố trí đủ vốn phù hợp với tiến độ triển khai của các chương trình, dự án đã được cấp có thẩm quyền quyết định đang thực hiện;

+ Đối với chi thường xuyên, việc lập dự toán phải tuân theo các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; trong đó:

● Đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương: căn cứ định mức phân bổ chi ngân sách trung ương do Thủ tướng Chính phủ quyết định, ban hành định mức phân bổ chi ngân sách cho các đơn vị trực thuộc, bảo đảm đúng về tổng mức và chi tiết theo từng lĩnh vực.

● Đối với các địa phương: Hội đồng nhân dân cấp tỉnh căn cứ định mức phân bổ chi ngân sách địa phương do Thủ tướng Chính phủ quyết định, ban hành định mức phân bổ chi ngân sách cho các cơ quan, đơn vị trực thuộc tỉnh và cấp dưới.

● Đối với các đơn vị sử dụng ngân sách, việc lập dự toán căn cứ vào các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi do cơ quan có thẩm quyền ban hành.

● Đối với các cơ quan hành chính thực hiện chế độ khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính và các đơn vị sự nghiệp có thu, việc lập dự toán thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;

+ Đối với chi trả nợ, bảo đảm bố trí chi trả đủ các khoản nợ đến hạn (kể cả nợ gốc và trả lãi) theo đúng nghĩa vụ trả nợ;

+ Đối với vay bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước, việc lập dự toán phải căn cứ vào cân đối ngân sách, khả năng từng nguồn vay, khả năng trả nợ và mức bội chi ngân sách theo quy định của cấp có thẩm quyền.

– Những quy định về phân cấp quản lý kinh tế – xã hội, phân cấp quản lý ngân sách.

-. Đối với dự toán ngân sách chính quyền địa phương các cấp, việc lập dự toán trong kỳ ổn định ngân sách căn cứ vào tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu và mức bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên đã được giao; đối với năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách, căn cứ vào chế độ phân cấp ngân sách và dự toán thu, chi ngân sách của từng địa phương.

– Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm sau; Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính về việc lập dự toán ngân sách; hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về lập dự toán ngân sách ở các cấp địa phương.

– Số kiểm tra về dự toán ngân sách do cơ quan có thẩm quyền thông báo.

– Tình hình thực hiện dự toán ngân sách một số năm trước và một số năm gần kề.

1.4. Quy trình lập dự toán ngân sách nhà nước

Như đã đề cập ở các phần trên, ngân sách phải do Quốc hội quyết định. Tuy nhiên, chỉ có cơ quan hành pháp (Chính phủ) mới có thể hiểu rõ mọi nhu cầu quốc gia vì chính phủ điều động mọi cơ quan hành chính trong việc thu chi Ngân sách nhà nước. Như vậy việc sọan thảo dự toán ngân sách phải do cơ quan hành pháp tiến hành và cơ quan lập pháp sẽ giữ quyền quyết định dự toán ngân sách.

Theo qui định của Thông tư số 59 ngày 23 tháng 6 năm 2003 của Bộ Tài chính Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước, công tác hướng dẫn lập dự toán ngân sách nhà nước và thông báo số kiểm tra dự toán ngân sách nhà nước được thực hiện như sau:

1.4.1. Đơn vị lập dự toán ngân sách 

Đơn vị dự toán cấp I là đơn vị trực tiếp nhận dự toán ngân sách hàng năm do Thủ tướng Chính phủ hoặc Uỷ ban nhân dân giao. Đơn vị dự toán cấp I thực hiện phân bổ, giao dự toán ngân sách cho đơn vị cấp dưới trực thuộc; chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc tổ chức, thực hiện công tác kế toán và quyết toán ngân sách của đơn vị mình và công tác kế toán và quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc theo quy định.

Đơn vị dự toán cấp II là đơn vị cấp dưới đơn vị dự toán cấp I, được đơn vị dự toán cấp I giao dự toán và phân bổ dự toán được giao cho đơn vị dự toán cấp III (trường hợp được ủy quyền của đơn vị dự toán cấp I), chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác kế toán và quyết toán ngân sách của đơn vị mình và công tác kế toán và quyết toán của các đơn vị dự toán cấp dưới theo quy định.

Đơn vị dự toán cấp III là đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách, được đơn vị dự toán cấp I hoặc cấp II giao dự toán ngân sách, có trách nhiệm tổ chức, thực hiện công tác kế toán và quyết toán ngân sách của đơn vị mình và đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc (nếu có) theo quy định.

Đơn vị cấp dưới của đơn vị dự toán cấp III được nhận kinh phí để thực hiện phần công việc cụ thể, khi chi tiêu phải thực hiện công tác kế toán và quyết toán theo quy định.

1.4.2. Hướng dẫn lập dự toán ngân sách 

– Trước ngày 31 tháng 5, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị về việc xây dựng kế họach phát triển kinh tế xã hội và dự toán Ngân sách nhà nước năm sau.

– Căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm sau, Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn về yêu cầu, nội dung, thời hạn lập dự toán ngân sách nhà nước và thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách nhà nước cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

– Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư hướng dẫn, số kiểm tra về dự toán ngân sách của Bộ Tài chính và căn cứ yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của bộ, cơ quan, thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc.

– Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư hướng dẫn, số kiểm tra về dự toán ngân sách của Bộ Tài chính, căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế – xã hội, yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của địa phương, căn cứ khả năng cân đối ngân sách địa phương, hướng dẫn và thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và Uỷ ban nhân dân cấp dưới.

– Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Uỷ ban nhân dân các cấp, khi thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách nhà nước cho các đơn vị trực thuộc và Uỷ ban nhân dân cấp dưới bảo đảm số thu không thấp hơn số kiểm tra về thu, số chi phải phù hợp với số kiểm tra về tổng mức và cơ cấu.

– Trước ngày 10 tháng 6 năm trước, Bộ Tài chính thông báo số kiểm tra dự toán ngân sách cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nội dung số kiểm tra gồm:

+ Tổng mức và từng lĩnh vực thu, chi ngân sách đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở trung ương.

+ Tổng số thu, chi và một số lĩnh vực chi quan trọng đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

1.4.3. Lập dự toán Ngân sách nhà nước 

1.4.3.1.  Lập dự toán ngân sách địa phương

Sở Tài chính – Vật giá chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư xem xét dự toán ngân sách của các đơn vị thuộc tỉnh, dự toán thu do cơ quan thuế, cơ quan hải quan lập (nếu có), dự toán thu, chi ngân sách của các huyện; lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, dự toán thu, chi ngân sách tỉnh (gồm dự toán ngân sách huyện, xã và dự toán ngân sách cấp tỉnh), dự toán chi chương trình mục tiêu quốc gia, báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh để trình Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh xem xét trước khi báo cáo Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, bộ quản lý lĩnh vực giáo dục – đào tạo, khoa học công nghệ (đối với dự toán chi giáo dục – đào tạo, khoa học công nghệ), các cơ quan Trung ương quản lý chương trình mục tiêu quốc gia (phần dự toán chi chương trình mục tiêu quốc gia) chậm nhất vào ngày 25 tháng 7 năm trước.

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hướng dẫn cụ thể việc lập dự toán ngân sách các cấp ở địa phương phù hợp với yêu cầu, nội dung và thời gian lập dự toán ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

1.4.3.2. Lập dự toán ngân sách nhà nước và ngân sách trung ương

Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, cơ quan liên quan, xem xét dự toán thu, chi ngân sách do các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo, dự toán chi ngân sách nhà nước theo lĩnh vực (đối với lĩnh vực giáo dục – đào tạo, khoa học công nghệ), chi chương trình mục tiêu quốc gia do các cơ quan quản lý chương trình mục tiêu quốc gia báo cáo, nhu cầu trả nợ và khả năng vay; tổng hợp và lập dự toán thu, chi ngân sách nhà nước, lập phương án phân bổ ngân sách trung ương trình Chính phủ.

1.4.3.3. Biểu quyết ngân sách nhà nước 

– Dự toán ngân sách phải được Ủy ban Kinh tế và Ngân sách Quốc hội xem xét, đánh gía và ủy ban này xẽ có những ý kiến cụ thể báo cáo trước Quốc hội.

– Các báo cáo có liên quan đến dự toán NS phải được gửi đến đại biểu Quốc hội chậm nhất là 10 ngày trước ngày họp Quốc hội. Quốc hội sẽ thảo luận dự toán ngân sách. Sau khi thảo luận, Quốc hội sẽ biểu quyết ngân sách nhà nước. Nếu quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua thì Quốc hội sẽ ra Nghị quyết về việc phê chuẩn dự toán Ngân sách nhà nước. Như vậy Dự toán Ngân sách nhà nước được Quốc hội phê chuẩn trở thành một đạo luật của nhà nước mà mọi cá nhân và tổ chức từ trung ương đến địa phương có nghĩa vụ chấp hành.

Ở một số quốc gia, việc biểu quyết được qui định rằng các khỏan chi phải được biểu quyết trước các khỏan thu. Nguyên do của việc biểu quyết này là quan niệm nhà nước chỉ cần thu khi có nhu cầu chi. Nếu biểu quyết các khỏan thu trước các khỏan chi là phí phạm vì có thể có những khoản thu mà quốc gia không thực sự cần đến.

– Trường hợp dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương chưa được Quốc hội quyết định, Chính phủ lập lại dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương trình Quốc hội vào thời gian do Quốc hội quyết định.

Trường hợp dự toán ngân sách địa phương chưa được Hội đồng nhân dân quyết định, Uỷ ban nhân dân lập lại dự toán ngân sách trình Hội đồng nhân dân vào thời gian do Hội đồng nhân dân quyết định, nhưng không được chậm hơn ngày 10 tháng 01 năm sau đối với ngân sách cấp tỉnh, ngày 20 tháng 01 năm sau đối với ngân sách cấp huyện, ngày 30 tháng 01 năm sau đối với ngân sách cấp xã

1.4.3.4. phân bổ ngân sách trung ương, giao dự toán ngân sách nhà nước

1) Sau khi dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương đã được Quốc hội quyết định, Bộ Tài chính có trách nhiệm:

– Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương, đối với năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách, trình Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách từng địa phương đối với các khoản thu phân chia theo quy định

– Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương theo từng lĩnh vực; nhiệm vụ thu, chi, tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, mức bổ sung cân đối (nếu có), mức bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương, dự toán chi từ nguồn kinh phí uỷ quyền của ngân sách trung ương cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trước ngày 20 tháng 11 năm trước;

-) Hướng dẫn nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trước ngày 25 tháng 11 năm trước.

2) Trên cơ sở quyết định của Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Sở Tài chính – Vật giá có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định dự toán thu, chi ngân sách tỉnh, phương án phân bổ ngân sách cấp tỉnh và mức bổ sung từ ngân sách cấp tỉnh cho ngân sách cấp dưới trước ngày 10 tháng 12 năm trước; Uỷ ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm báo cáo Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự toán ngân sách tỉnh và kết quả phân bổ dự toán ngân sách cấp tỉnh đã được Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định.

Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Sở Tài chính – Vật giá trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc tỉnh; nhiệm vụ thu, chi, tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương (phần ngân sách địa phương hưởng) và giữa các cấp chính quyền địa phương, mức bổ sung từ ngân sách cấp tỉnh cho từng huyện, dự toán chi từ nguồn kinh phí uỷ quyền của ngân sách trung ương, dự toán chi từ nguồn kinh phí uỷ quyền của ngân sách cấp tỉnh (nếu có) cho từng huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

3) Sau khi nhận được quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách của Uỷ ban nhân dân cấp trên; Uỷ ban nhân dân trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định dự toán thu, chi ngân sách địa phương và phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp quyết định dự toán và phân bổ ngân sách.

4) Sau khi nhận được dự toán thu, chi ngân sách được cấp có thẩm quyền giao; các đơn vị dự toán phải tổ chức phân bổ và giao dự toán thu, chi ngân sách cho từng đơn vị trực thuộc, kể cả dự toán chi từ nguồn kinh phí uỷ quyền (nếu có) trước ngày 31 tháng 12 năm trước.

2. Chấp hành Ngân sách nhà nước

Chấp hành Ngân sách nhà nước là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, tài chính và hành chính nhằm biến các chỉ tiêu thu chi trong kế họach Ngân sách nhà nước trở thành hiện thực .

2.1. Mục tiêu của chấp hành Ngân sách nhà nước

– Biến các chỉ tiêu thu chi ghi trong dự toán ngân sách đã được Quốc hội phê chuẩn thành hiện thực

– Kiểm tra các thực hiện chính sách, chế độ, tiêu chuẩn mà nhà nước đánh giá tính phù hợp của chính sách với thực tiễn

2.2. Nội dung chấp hành Ngân sách nhà nước

Chấp hành ngân sách bao gồm chấp hành thu ngân sách, chấp hành chi ngân sách và họat động điều chỉnh dự toán ngân sách.

2.2.1. Chấp hành thu ngân sách 

Chấp hành thu ngân sách là quá trình tổ chức thu và quản lý nguồn thu của ngân sách nhà nước. Hệ thống tổ chức thu ngân sách nhà nước bao gồm các cơ quan thuế, hải quan và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ thu. Các cơ quan này phải có trách nhiệm kiểm sóat các nguồn thu Ngân sách nhà nước, xác định và thông báo số phải nộp cho Ngân sách nhà nước cho các cá nhân, tổ chức. Các tổ chức cá nhân có nghĩa vụ nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật. Trường hợp chậm nộp mà không được phép sẽ bị cưỡng chế nộp theo quy định của pháp luật.

Toàn bộ các khoản thu của ngân sách nhà nước phải nộp trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước, trừ một số khoản cơ quan thu có thể thu trực tiếp song phải định kỳ nộp vào Kho bạc Nhà nước theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

2.2.2. Chấp hành chi ngân sách 

Chấp hành chi Ngân sách nhà nước là quá trình tổ chức chi ngân sách nhà nước và quản lý các khỏan chi của Ngân sách nhà nước.

Quá trình chi Ngân sách nhà nước được qui định như sau:

1) Sau khi được Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban nhân dân giao dự toán ngân sách, các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, các đơn vị dự toán cấp I tiến hành phân bổ và giao dự toán chi ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc. Đối với các Bộ, Tổng cục được tổ chức theo ngành dọc, chưa có điều kiện phân bổ và giao dự toán trực tiếp đến các đơn vị sử dụng ngân sách, thì có thể phân bổ đến đơn vị dự toán cấp II và uỷ quyền cho đơn vị này phân bổ, giao dự toán cho đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc, song Bộ, Tổng cục phải tổng hợp và chịu trách nhiệm về toàn bộ dự toán ngân sách đã phân bổ và giao cho đơn vị sử dụng ngân sách.

2) Dự toán chi thường xuyên giao cho đơn vị sử dụng ngân sách được phân bổ theo từng loại của Mục lục ngân sách nhà nước, theo các nhóm mục:

– Chi thanh toán cá nhân.

– Chi nghiệp vụ chuyên môn.

– Chi mua sắm, sửa chữa.

– Các khoản chi khác.

Đối với các nhiệm vụ chi về chương trình mục tiêu quốc gia; chi mua sắm, sửa chữa lớn; chi sự nghiệp kinh tế, dự toán năm giao cho đơn vị sử dụng còn được phân theo tiến độ thực hiện từng quý.

3) Dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản được phân bổ chi tiết theo từng loại và các mục của Mục lục ngân sách nhà nước và phân theo tiến độ thực hiện từng quý.

4) Khi phân bổ dự toán ngân sách được giao, cơ quan, đơn vị phân bổ dự toán phải bảo đảm bố trí vốn, kinh phí cho các dự án, nhiệm vụ đã được chi ứng trước dự toán; đồng thời, phải phân bổ hết dự toán ngân sách được giao, trường hợp có các nhiệm vụ chi chưa xác định được rõ đơn vị thực hiện trong dự toán đầu năm thì được giữ lại để phân bổ sau nhưng khi phân bổ phải gửi cơ quan tài chính cùng cấp để thẩm tra theo quy trình quy định.

5) Phương án phân bổ dự toán ngân sách của cơ quan nhà nước và đơn vị dự toán cấp I cho các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc phải gửi cơ quan tài chính cùng cấp để thẩm tra. Nội dung thẩm tra gồm:

Thẩm tra tính chính xác giữa phân bổ của cơ quan, đơn vị đến đơn vị sử dụng ngân sách với nội dung dự toán do cơ quan có thẩm quyền giao.

Bảo đảm đúng chính sách, chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi ngân sách.

Qua thẩm tra, nếu phát hiện phương án phân bổ không đảm bảo các yêu cầu trên thì cơ quan tài chính yêu cầu cơ quan phân bổ điều chỉnh lại. Trường hợp cơ quan, đơn vị phân bổ ngân sách không thống nhất với yêu cầu điều chỉnh của cơ quan tài chính thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ (đối với các cơ quan, đơn vị trung ương), Uỷ ban nhân dân (đối với các cơ quan, đơn vị địa phương) để xem xét, quyết định.

6) Trong vòng 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được phương án phân bổ dự toán ngân sách, cơ quan tài chính phải thẩm tra và có thông báo bằng văn bản về kết quả thẩm tra đến cơ quan, đơn vị phân bổ ngân sách. Trường hợp các Bộ, Tổng cục được tổ chức theo ngành dọc, chỉ phân bổ và giao dự toán đến đơn vị dự toán cấp II thì vẫn phải tổng hợp toàn bộ phương án phân bổ đến đơn vị sử dụng ngân sách gửi Bộ Tài chính, Bộ Tài chính thực hiện thẩm tra và thông báo bằng văn bản đến cơ quan, đơn vị phân bổ ngân sách.

7). Sau khi phương án phân bổ ngân sách được cơ quan tài chính thống nhất, thủ trưởng cơ quan, đơn vị phân bổ ngân sách quyết định giao dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc; đồng gửi cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước cùng cấp và Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch để phối hợp thực hiện.

8) Trường hợp chậm phân bổ hoặc kết quả phân bổ chưa được cơ quan tài chính thống nhất thì cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước tạm cấp kinh phí theo quy định .

9) Khi cần điều chỉnh dự toán ngân sách giữa các đơn vị trực thuộc mà không làm thay đổi tổng mức và chi tiết dự toán được giao, thủ trưởng cơ quan, đơn vị phân bổ ngân sách lập giấy đề nghị điều chỉnh phân bổ dự toán, gửi cơ quan tài chính và Kho bạc Nhà nước cùng cấp.

Cơ quan tài chính cùng cấp thẩm tra đề nghị điều chỉnh dự toán theo quy định. Trong vòng 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị điều chỉnh của đơn vị dự toán, cơ quan tài chính phải trả lời bằng văn bản gửi cơ quan, đơn vị phân bổ và Kho bạc Nhà nước cùng cấp.

Trên cơ sở thống nhất ý kiến với cơ quan tài chính cùng cấp, thủ trưởng cơ quan, đơn vị phân bổ ngân sách quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách đã giao cho các đơn vị trực thuộc; đồng gửi cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước cùng cấp và Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch.

10) Trường hợp đơn vị dự toán cấp I cần phải điều chỉnh dự toán đã giao cho các đơn vị trực thuộc song không làm thay đổi tổng mức dự toán Thủ tướng Chính phủ hoặc Uỷ ban nhân dân đã giao cho đơn vị thì phải có sự thống nhất của cơ quan tài chính cùng cấp.

11). Trường hợp cơ quan tài chính phát hiện việc chấp hành dự toán ngân sách của đơn vị sử dụng ngân sách chậm, có khả năng không hoàn thành được mục tiêu hoặc chi không hết dự toán được giao thì có quyền yêu cầu cơ quan, đơn vị phân bổ ngân sách, hoặc đề nghị Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban nhân dân có giải pháp kịp thời hoặc điều chỉnh nhiệm vụ, dự toán để bảo đảm sử dụng ngân sách đúng theo mục tiêu, chế độ quy định, tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách nhà nước.

12) Trường hợp được bổ sung dự toán từ nguồn dự phòng ngân sách hoặc tăng thu ngân sách theo quyết định của cấp có thẩm quyền, đơn vị dự toán cấp I phải phân bổ cho đơn vị sử dụng theo đúng mục tiêu được giao gửi cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước cùng cấp và Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch.

2.2.3. Điều chỉnh dự toán Ngân sách nhà nước 

Trong quá trình chấp hành ngân sách, dự toán Ngân sách nhà nước sẽ đượ điều chỉnh trong các trường hợp sau:

 

1) Điều chỉnh dự toán ngân sách của chính quyền địa phương cấp dưới trong trường hợp dự toán ngân sách của các cấp chính quyền địa phương chưa phù hợp với dự toán ngân sách nhà nước, hoặc chưa phù hợp với dự toán ngân sách cấp trên, thực hiện như sau:

Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ, cơ quan tài chính báo cáo Uỷ ban nhân dân yêu cầu Hội đồng nhân dân cấp dưới điều chỉnh dự toán ngân sách sau khi nhận được báo cáo quyết định dự toán ngân sách của Hội đồng nhân dân cấp dưới.

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm báo cáo Chính phủ, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự toán ngân sách điều chỉnh đã được Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Uỷ ban nhân dân cấp dưới có trách nhiệm báo cáo Uỷ ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp trên dự toán ngân sách điều chỉnh đã được Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.

 

2) Trường hợp có biến động lớn về ngân sách nhà nước cần phải điều chỉnh tổng thể, Chính phủ lập dự toán điều chỉnh ngân sách ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất.

3) Trường hợp có yêu cầu cấp bách về quốc phòng, an ninh hoặc vì lý do khách quan cần phải điều chỉnh nhiệm vụ thu, chi của một số cơ quan, đơn vị, địa phương, song không làm biến động đến tổng thể và cơ cấu ngân sách, Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

4) Trường hợp có biến động lớn về ngân sách địa phương cần phải điều chỉnh tổng thể, Uỷ ban nhân dân lập dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.

5) Trường hợp có yêu cầu cấp bách về quốc phòng, an ninh hoặc do lý do khách quan cần điều chỉnh nhiệm vụ thu, chi của một vài cơ quan trực thuộc hoặc của ngân sách cấp dưới, nhưng không làm biến động đến tổng thể ngân sách địa phương, Uỷ ban nhân dân trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.

6) Các cơ quan nhà nước điều chỉnh dự toán ngân sách của các đơn vị trực thuộc trong các trường hợp sau:

– Khi Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban nhân dân quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách của cơ quan đó;

– Cần phân bổ lại ngân sách cho các đơn vị trực thuộc.

Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội Khóa X trong quá trình thực hiện quyền giám sát của mình đã đề xuất điều chỉnh ngân sách phân bổ cho địa phương hoặc kiến nghị Chính phủ bổ sung ngân sách cho một số địa phương gặp khó khăn đột xuất. Tuy nhiên, việc phải tăng ngân sách là điều cần tránh nhưng do tình hình thực tiễn ở Việt Nam, nguồn ngân sách phân bổ từ trung ương xuống còn là nguồn chủ yếu đối với nhiều địa phương thì việc điều chỉnh phân bổ là việc thường xuyên. Tuy nhiên, cần tránh đồng nhất giữa việc điều chỉnh phân bổ với cơ chế xin cho .

3. Quyết toán Ngân sách nhà nước

Quyết toán Ngân sách nhà nước là phản ánh, đánh giá và kiểm tra lại quá trình lập và chấp hành Ngân sách nhà nước. Quyết toán Ngân sách nhà nước được thực hiện tốt có ý nghĩa quan trọng trong việc nhìn nhận lại quá trình chấp hành ngân sách qua một năm, rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực bổ sung cho công tác lập ngân sách cũng như chấp hành ngân sách ở những chu trình tiếp theo .

3.1.Về mặt số liệu

Số liệu báo cáo quyết toán phải chính xác, trung thực, đầy đủ. Nội dung báo cáo quyết toán ngân sách phải theo đúng các nội dung ghi trong dự toán được giao (hoặc được cơ quan có thẩm quyền cho phép) và chi tiết theo Mục lục ngân sách nhà nước. Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ; chịu trách nhiệm về những khoản thu, chi, hạch toán, quyết toán ngân sách sai chế độ.

Báo cáo quyết toán năm của đơn vị dự toán cấp dưới gửi đơn vị dự toán cấp trên, đơn vị dự toán cấp I gửi cơ quan tài chính cùng cấp  phải gửi kèm  các báo cáo sau đây:

1) Bảng cân đối tài khoản cuối ngày 31 tháng 12 và bảng cân đối tài khoản sau khi kết thúc thời gian chỉnh lý quyết toán.

2) Báo cáo thuyết minh quyết toán năm; thuyết minh quyết toán phải giải trình rõ nguyên nhân đạt, không đạt hoặc vượt dự toán được giao theo từng chỉ tiêu và những kiến nghị nếu có.

Báo cáo quyết toán năm, gửi các cấp có thẩm quyền để thẩm định, phê duyệt phải có xác nhận của Kho bạc Nhà nước cùng cấp về tổng số và chi tiết.

3.2. Về mặt nội dung 

Báo cáo quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán và của các cấp chính quyền địa phương không được quyết toán chi lớn hơn thu. Cấp dưới không quyết toán các khoản kinh phí uỷ quyền của ngân sách cấp trên vào báo cáo quyết toán ngân sách cấp mình.

3.3. Về trình tự 

3.3.1. Về trình tự lập, gửi, xét duyệt báo cáo thu, chi ngân sách nhà nước năm đối với đơn vị dự toán 

1) Sau khi kết thúc công tác khóa sổ kế toán cuối ngày 31 tháng 12, số liệu trên sổ sách kế toán của đơn vị phải bảo đảm cân đối và khớp đúng với chứng từ thu, chi ngân sách của đơn vị và số liệu của cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước về tổng số và chi tiết; trên cơ sở đó đơn vị dự toán tiến hành lập báo cáo quyết toán năm.

2) Ngoài mẫu biểu báo cáo quyết toán năm theo qui định của Bộ trưởng Bộ Tài chính, đơn vị dự toán còn phải gửi kèm báo cáo giải trình chi tiết các loại hàng hóa, vật tư tồn kho, các khoản nợ, vay và tạm ứng, tạm thu, tạm giữ, tồn quỹ tiền mặt, số dư tài khoản tiền gửi của đơn vị dự toán để cơ quan chủ quản cấp trên (hoặc cơ quan tài chính cùng cấp) xem xét trước khi ra thông báo duyệt (hoặc thẩm định) quyết toán năm cho đơn vị. Việc xét duyệt và thẩm định quyết toán năm thực hiện theo đúng quy định của pháp luật

3) Sau khi nhận được báo cáo quyết toán của đơn vị dự toán cấp dưới, thủ trưởng đơn vị dự toán cấp trên có trách nhiệm xét duyệt quyết toán và thông báo kết quả xét duyệt quyết toán cho đơn vị dự toán cấp dưới. Trong phạm vi 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo xét duyệt quyết toán, đơn vị dự toán cấp dưới phải thực hiện xong những yêu cầu trong thông báo xét duyệt quyết toán. Trường hợp đơn vị dự toán cấp dưới có ý kiến không thống nhất với thông báo duyệt quyết toán của đơn vị dự toán cấp trên thì phải có văn bản gửi đơn vị dự toán cấp trên nữa để xem xét và quyết định. Trường hợp đơn vị dự toán cấp II có ý kiến không thống nhất với thông báo duyệt quyết toán của thủ trưởng đơn vị dự toán cấp I thì phải có văn bản gửi cơ quan tài chính (đồng cấp với đơn vị dự toán cấp I) để xem xét và quyết định. Trong khi chờ ý kiến quyết định của các cấp có thẩm quyền thì đơn vị dự toán cấp dưới phải chấp hành theo thông báo duyệt quyết toán của đơn vị dự toán cấp trên.

4) Đơn vị dự toán cấp I có trách nhiệm duyệt báo cáo quyết toán của các đơn vị trực thuộc, tổng hợp và lập báo cáo quyết toán năm (gồm báo cáo quyết toán của đơn vị mình và báo cáo quyết toán của đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc), gửi cơ quan tài chính đồng cấp. Đối với đơn vị dự toán thuộc ngân sách trung ương, Bộ Tài chính có trách nhiệm thẩm định quyết toán năm trong thời gian tối đa 30 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo quyết toán; đối với đơn vị dự toán thuộc ngân sách địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định thời gian thẩm định quyết toán cụ thể, nhưng phải đảm bảo thời gian quyết toán theo quy định của Điều 67 của Luật Ngân sách nhà nước. Trong phạm vi 10 ngày kể từ khi đơn vị dự toán cấp I nhận được thông báo nhận xét quyết toán năm của cơ quan tài chính, đơn vị dự toán cấp I phải thực hiện xong những yêu cầu trong thông báo nhận xét quyết toán của cơ quan tài chính.

Trường hợp đơn vị dự toán cấp I có ý kiến không thống nhất với thông báo nhận xét quyết toán của cơ quan tài chính thì phải trình Uỷ ban nhân dân đồng cấp (nếu là đơn vị dự toán thuộc cấp chính quyền địa phương) hoặc trình Thủ tướng Chính phủ (nếu là đơn vị dự toán thuộc trung ương) để xem xét và quyết định. Trong khi chờ ý kiến quyết định của Uỷ ban nhân dân đồng cấp và Thủ tướng Chính phủ thì mọi quyết định của cơ quan tài chính phải được thi hành.

5) Trường hợp đơn vị dự toán cấp I đồng thời là đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan tài chính duyệt quyết toán và thông báo kết quả xét duyệt quyết toán cho đơn vị dự toán cấp I.

6) Đối với các công trình xây dựng cơ bản, các chương trình dự án quốc gia, kết thúc năm ngân sách chủ đầu tư lập báo quyết toán thực hiện vốn đầu tư trong năm theo từng công trình, dự án gửi Kho bạc Nhà nước và cơ quan tài chính đồng cấp. Việc duyệt, thẩm định quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo quy định riêng của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

3.3.2.Trình tự lập, thẩm định, phê chuẩn và gửi báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách nhà nước hàng năm của ngân sách các cấp chính quyền 

1) Mẫu biểu báo cáo quyết toán năm của ngân sách cấp dưới lập gửi cơ quan tài chính cấp trên theo hệ thống mẫu biểu quyết toán qui định.

2) Ban Tài chính xã có trách nhiệm lập báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách cấp xã (theo hệ thống mẫu biểu quy định tại Thông tư của Bộ Tài chính về quản lý thu, chi ngân sách xã và các hoạt động tài chính khác của xã, phường, thị trấn) trình Uỷ ban nhân dân xã xem xét gửi Phòng tài chính huyện đồng thời trình Hội đồng nhân dân xã phê chuẩn. Trường hợp báo cáo quyết toán năm của xã do Hội đồng nhân dân xã phê chuẩn có thay đổi so với báo cáo quyết toán năm do Uỷ ban nhân dân xã đã gửi Phòng Tài chính huyện, thì Uỷ ban nhân dân xã báo cáo bổ sung, gửi Phòng Tài chính huyện. Sau khi Hội đồng nhân dân xã phê chuẩn, trong

phạm vi 5 ngày, Ban tài chính xã gửi báo cáo quyết toán đến các cơ quan sau:

– 01 bản gửi Hội đồng nhân dân xã;

– 01 bản gửi Uỷ ban nhân dân xã;

– 01 bản gửi Phòng Tài chính huyện;

– 01 bản lưu tại Ban Tài chính xã.

Đồng thời, gửi Kho bạc Nhà nước huyện nghị quyết phê chuẩn quyết toán của Hội đồng nhân dân xã.

3) Phòng Tài chính huyện có trách nhiệm thẩm định quyết toán thu, chi ngân sách xã; lập quyết toán thu, chi ngân sách cấp huyện; tổng hợp, lập  báo cáo thu ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện và quyết toán thu, chi ngân sách huyện bao gồm quyết toán thu, chi ngân sách cấp huyện và quyết toán thu, chi ngân sách cấp xã trình Uỷ ban nhân dân huyện xem xét gửi Sở Tài chính – Vật giá, đồng thời trình Hội đồng nhân dân huyện phê chuẩn. Trường hợp báo cáo quyết toán năm của huyện do Hội đồng nhân dân huyện phê chuẩn có thay đổi so với báo cáo quyết toán năm do Uỷ ban nhân dân huyện đã gửi Sở Tài chính – Vật giá thì Uỷ ban nhân dân huyện báo cáo bổ sung, gửi Sở Tài chính – Vật giá. Sau khi Hội đồng nhân dân huyện phê chuẩn, trong phạm vi 5 ngày, Phòng tài chính huyện gửi báo cáo quyết toán đến các cơ quan sau:

– 01 bản gửi Hội đồng nhân dân huyện;

– 01 bản gửi Uỷ ban nhân dân huyện;

– 01 bản gửi Sở Tài chính – Vật giá;

– 01 bản lưu tại Phòng Tài chính huyện.

Đồng thời, gửi Kho bạc Nhà nước huyện nghị quyết phê chuẩn quyết toán của Hội đồng nhân dân cấp

huyện.

4) Sở Tài chính – Vật giá có trách nhiệm thẩm định quyết toán thu ngân sách nhà nước phát sinh trên địa bàn huyện, quyết toán thu, chi ngân sách huyện; lập quyết toán thu, chi ngân sách cấp  tỉnh; tổng hợp lập quyết toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh và báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách địa phương bao gồm: quyết toán thu, chi ngân sách cấp tỉnh; quyết toán thu, chi ngân sách cấp huyện và quyết toán thu chi ngân sách cấp xã trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét gửi Bộ Tài chính, đồng thời trình Hội đồng nhân dân tỉnh phê chuẩn. Trường hợp báo cáo quyết toán năm của ngân sách tỉnh do Hội đồng nhân dân tỉnh phê chuẩn có thay đổi so với báo cáo quyết toán năm do Uỷ ban nhân dân tỉnh đã gửi Bộ Tài chính thì Uỷ ban nhân dân tỉnh báo cáo bổ sung, gửi Bộ Tài chính. Sau khi được Hội đồng nhân dân tỉnh phê chuẩn, trong phạm vi 5 ngày, cơ quan tài chính gửi báo cáo quyết toán đến các cơ quan sau:

– 01 bản gửi Hội đồng nhân dân tỉnh;

– 01 bản gửi Uỷ ban nhân dân tỉnh;

– 01 bản gửi Bộ Tài chính;

– 01 bản gửi Kiểm toán Nhà nước;

– 01 bản lưu tại Sở Tài chính – Vật giá tỉnh.

Đồng thời, gửi Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh nghị quyết phê chuẩn quyết toán của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

5) Bộ Tài chính có trách nhiệm thẩm định quyết toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh, quyết toán thu, chi ngân sách địa phương và quyết toán thu, chi ngân sách của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở trung ương; lập báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách trung ương; tổng hợp lập báo cáo tổng quyết toán thu, chi ngân sách nhà nước trình Chính phủ xem xét để trình Quốc hội phê chuẩn; đồng gửi cơ quan Kiểm toán Nhà nước.

6) Cơ quan thu có trách nhiệm tổ chức, hướng dẫn các đơn vị, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ nộp ngân sách nhà nước lập các chứng từ thu ngân sách nhà nước theo đúng mẫu quy định và đúng Mục lục ngân sách nhà nước; lập, báo cáo thu ngân sách nhà nước tháng, quý và báo cáo quyết toán thu ngân sách nhà nước năm theo chế độ quy định.

7) Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm tổ chức hạch toán kế toán thu, chi ngân sách nhà nước theo Mục lục ngân sách nhà nước bảo đảm các khoản thu, chi ngân sách nhà nước phát sinh được hạch toán chính xác, trung thực, kịp thời và đầy đủ. Định kỳ tháng, quý, năm lập báo cáo việc thực hiện dự toán thu, chi ngân sách cho cơ quan tài chính và các cơ quan hữu quan theo quy định của Bộ Tài chính.

8) Việc thẩm định báo cáo quyết toán năm thực hiện theo quy định tại Điều 74 của Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ.

3.3.3. Thời gian gửi báo cáo quyết toán năm và thời gian thẩm định quyết toán năm 

1) Đối với đơn vị dự toán: Sau khi đã duyệt báo cáo quyết toán năm của các đơn vị trực thuộc, đơn vị dự toán cấp I của ngân sách trung ương tổng hợp gửi Bộ Tài chính chậm nhất trước ngày 1 tháng 10 năm sau, thời gian gửi báo cáo quyết toán của đơn vị dự toán cấp II, III giao đơn vị cấp I quy định nhưng phải bảo đảm thời hạn để đơn vị dự toán cấp I gửi báo cáo quyết toán Bộ Tài chính theo quy định trên; đối với các đơn vị dự toán thuộc ngân sách địa phương, Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định cụ thể để bảm đảm thời hạn gửi báo cáo quyết toán của ngân sách địa phương theo Điều 67 của Luật Ngân sách nhà nước.

2) Đối với ngân sách các cấp chính quyền địa phương: Sau khi đã thẩm định báo cáo quyết toán của các đơn vị trực thuộc và ngân sách cấp dưới, Sở Tài chính – Vật giá tổng hợp trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để trình Hội đồng nhân dân đồng cấp đồng thời gửi Bộ Tài chính chậm nhất trước ngày 1 tháng 10 năm sau; đối với ngân sách cấp dưới, Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định cụ thể nhưng phải đảm bảo thời hạn phê chuẩn quyết toán quy định tại Điều 67 của Luật Ngân sách nhà nước.

3) Thẩm định báo cáo quyết toán năm: Trong thời hạn không quá 30 ngày, kể từ khi nhận được báo cáo quyết toán năm của địa phương được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn, và quyết toán của các đơn vị dự toán cấp I thuộc ngân sách trung ương, Bộ Tài chính thực hiện thẩm định và có ý kiến nhận xét quyết toán gửi địa phương, đơn vị dự toán cấp I thuộc ngân sách trung ương. Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định cụ thể thời hạn thẩm định báo cáo quyết toán năm của cơ quan tài chính cấp trên đối với ngân sách cấp dưới và đơn vị dự toán cấp I ở địa phương, bảo đảm thời gian để Hội đồng nhân dân các cấp phê chuẩn quyết toán ngân sách năm theo quy định tại Điều 67 của Luật Ngân sách nhà nước.

3.4. Xử lý kết dư ngân sách.

Kết dư ngân sách trung ương là số chênh lệch giữa tổng số thu ngân sách trung ương và vay bù đắp bội chi lớn hơn tổng số chi ngân sách trung ương, kết dư ngân sách địa phương là chênh lệch giữa tổng số thu ngân sách địa phương lớn hơn tổng số chi ngân sách địa phương; chi ngân sách bao gồm cả những khoản thanh toán trong thời gian chỉnh lý quyết toán, các khoản chi chuyển nguồn sang năm sau để thực hiện những nhiệm vụ chi được cấp có thẩm quyền quyết định tiếp tục được thực hiện trong năm sau.

Kết dư ngân sách được xử lý như sau:

1) Kết dư ngân sách trung ương, ngân sách cấp tỉnh được chuyển năm mươi phần trăm (50%) vào quỹ dự trữ tài chính, năm mươi phần trăm (50%) vào thu ngân sách năm sau. Trường hợp quỹ dự trữ tài chính đã đủ mức giới hạn theo quy định thì chuyển toàn bộ vào thu ngân sách năm sau.

2) Kết dư ngân sách cấp huyện và ngân sách xã được chuyển vào thu ngân sách năm sau (100%).

Tóm tắt quy trình ngân sách

Giai đoạn: Chuẩn bị và lập dự toán ngân sách:

– Ủy ban TVQH cho ý kiến về định mức phân bổ ngân sách và chế độ chi ngân sách quan trọng để làm căn cứ xây dựng dự toán NS (trước ngày 01/05).

– Thủ Tướng Chính phủ ra chỉ thị về xây dựng dự toán Ngân sách nhà nước (trước ngày 31/05).

– Bộ Tài chính, Bộ kế họach và đầu tư ra thông tư hướng dẫn và thông báo số kiểm tra. Các Bộ, cơ quan trung ương và ủy ban nhân dân các tỉnh hướng dẫn cấp dưới lập dự toán (trước ngày 10/06)

– Các cơ quan, đơn vị, các tỉnh gửi dự toán đến Bộ tài chính và Bộ kế họach và đầu tư (trước ngày 20/07).

– Bộ Tài chính tổ chức làm việc với các cơ quan Trung ương và địa phương, tổng hợp và lập dự toán Ngân sách nhà nước trình Chính phủ (từ cuối tháng 07).

– Chính phủ trình các cơ quan Quốc Hội thẩm tra (trước ngày 01/10).

Giai đoạn thẩm tra, phê chuẩn và phân bổ ngân sách:

– Ủy ban Kinh tế Ngân sách kiểm tra (chậm nhất là ngày 05/10).

– Chính phủ báo cáo giải trình sau phiên họp thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội (3 ngày sau phiện họp thẩm tra).

– Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và Ngân sách (chậm nhất là ngày 12/10).

– Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến (trước ngày 18/10).

– Ủy ban Kinh tế và Ngân sách hòan chỉnh báo cáo thẩm tra trước khi khai mạc kỳ họp Quốc hội (chậm nhất là 10 ngày).

– Quốc hội thảo luận chất vấn và quyết định dự toán Ngân sách nhà nước, phân bổ NS trung ương (trước ngày 15/11).

– Chính phủ giao dự toán ngân sách nhà nước cho các cơ quan trung ương và địa phương (trước ngày 20/11).

– Ủy ban nhân dân trình xem xét điều chỉnh dự toán trên cơ sở quyết định của Quốc hội sau đó trình Hội đồng nhân dân tỉnh thảo luận, quyết định ngân sách địa phương. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định dự toán NS địa phương và phương án phân bổ NS địa phương (trước ngày 10/12).

– Hội đồng nhân dân cấp huyện quyết định dự toán NS huyện và phương án phân bổ NS huyện (10 ngày sau khi được Hội đồng nhân dân tỉnh phê chuẩn).

– Giao dự toán NS xã và các đơn vị sử dụng NS (trước ngày 21/12).

Giai đoạn chấp hành ngân sách:

– Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện dự toán ngân sách (trong năm tài khóa).

Giai đoạn quyết toán ngân sách:

– Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức lập quyết toán NS trình Hội đồng nhân dân các cấp và Quốc hội (18 tháng kể từ ngày kết thúc năm ngân sách).

 


 

Chương IV – Pháp luật về thu ngân sách nhà nước

I. THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:

1. Khái niệm thu ngân sách Nhà nước:

Thu ngân sách nhà nước là một loại hoạt động nhà nước, hoạt động của một tổ chức có quyền lực công, luôn gắn liền với yếu tố chính trị của nhà nước. Từ đó, chúng ta có thể hiểu thu ngân sách Nhà nước là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm tập trung một bộ phận của cải xã hội dưới hình thức giá trị theo những hình thức và biện pháp phù hợp để hình thành nên quỹ ngân sách Nhà nước.

Xét về bản chất, thu ngân sách Nhà nước phản ánh các quan hệ phân phối của cải xã hội giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội. Đó là việc nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để tham gia vào việc phân chia của cải xã hội được các chủ thể khác nhau trong xã hội tạo ra. Đối tượng của hoạt động thu ngân sách Nhà nước là của cải xã hội biểu hiện dưới hình thức giá trị.

Nội dung vật chất của thu ngân sách nhà nước thể hiện ở việc nhà nước tập trung vào trong tay mình những nguồn vốn tiền tệ để hình thành nên quỹ ngân sách nhà nước. Đây là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nứơc nhằm đảm bảo chức năng và nhiệm vụ của bộ máy nhà nước là phục vụ lợi ích công cộng và duy trì sự tồn tại của nhà nước. Do đó, thu ngân sách nhà nước là hoạt động có vai trò quan trọng của nhà nước, góp phần tạo ra thu nhập tài chính  để đáp ứng nhu cầu công cộng và nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước.

Trong thực tiễn đời sống xã hội, của cải xã hội được hình thành từ các nguồn khác nhau, có các tính chất, đặc điểm và thuộc nhiều loại chủ thể khác nhau. Do đó, tùy thuộc vào nội dung, tính chất của các nguồn của cải mà Nhà nước quy định các hình thức và biện pháp phù hợp nhằm tập trung một phần của cải xã hội vào quỹ ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, ở nước ta cũng như phổ biến ở các nước trên thế giới, các khoản thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước được thực hiện chủ yếu theo phương thức bắt buộc mang tính quyền lực Nhà nước dưới hình thức phổ biến là thuế.

Thu ngân sách nhà nước có những đặc điểm sau:

-Thu ngân sách nhà nước gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.

-Các khoản thu ngân sách nhà nước bắt nguồn và gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và các quá trình kinh tế.

2. Phân loại các khoản thu của ngân sách Nhà nước:

Hiện nay trong quản lý ngân sách Nhà nước, nội dung kinh tế là căn cứ phổ biến để phân loại các

khoản thu ngân sách Nhà nước.Căn cứ vào nội dung này thì các khoản thu ngân sách Nhà nước được chia thành 02 loại:

Nhóm I: Thu từ thuế, phí, lệ phí có tính chất thuế.

Nhóm II: Thu không mang tính chất thuế, bao gồm một số nhóm tiêu biểu như sau:

– Lợi tức của Nhà nước  thu được từ hoạt động góp vốn tại các tổ chức kinh tế.

– Tiền bán và cho thuê tài sản của Nhà nước; tiền thu hồi vốn của nhà nước từ các cơ sở kinh tế.

– Viện trợ không hoàn lại và vay của các tổ chức Chính phủ, phi chính phủ ở nước ngoài.

– Thu khác ( thu từ hoạt động sự nghiệp có thu, các khoản đóng góp tự nguyện  của các tổ chức cá nhân để xây dựng các công trình kết cấu cơ sở hạ tầng, các khoản di sản nhà nước được hưởng…)

Nếu chúng ta dựa vào tính pháp lý để phân loại, các khoản thu của ngân sách Nhà nước được chia thành các nhóm sau:

-Các khoản thu mang tính bắt buộc: bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí.

-Các khoản thu mang tính chất tự nguyện: bao gồm các khoản thu tự viện trợ, vay nợ, tặng, cho…

Dựa trên nguyên tắc thăng bằng ngân sách, người ta có thể phân biệt các khoản thu ngân sách nhà nước thành 2 loại chủ yếu sau đây, tuỳ thuộc vào tác dụng của nó đối với sự thăng bằng ngân sách:

– Các khoản thu có tính chất hoa lợi. Đó là những khoản thu làm tăng ngân quỹ khả dụng của quốc khố nhưng không làm tăng trái vụ của quốc gia; hoặc đó là những khoản thu làm giảm trái khoản của quốc gia mà không làm giảm ngân quỹ. NHững khoản thu này rất có lợi cho nhà nước. Việc áp dụng chúng có thể góp phần cải thiện tình trạng mất cân đối của ngân sách nhà nước. Thông thường, các khoản thu có tính chất h oa lợi bao gồm các khoản thu từ thuế, thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước, thu từ các khoản đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân; thu từ viện trợ không hoàn lại của nước ngoài cho Chính phủ, thu từ tiền phạt vi phạm pháp luật…

-Các khoản thu không có tính chất hoa lợi. Đây là những khoản thu làm tăng ngân quỹ khả dụng của ngân khố nhưng đồng thời cũng làm tăng một số lượng tương ứng các trái vụ của quốc gia. Những khoản thu này thường không có tác dụng đáng kể trong việc cải thiện tình trạng mất cân đối ngân sách. Bởi lẽ, đối với những khoản thu này, Chính phủ thu bao nhiêu tiền vào kho bạc nhà nước, sau đó, Chính phủ cũng phải chi ra tương ứng bấy nhiêu tiền để thực hiện các trái vụ. Thông thường, các khoản thu không mang tính chất hoa lợi bao gồm: thu từ vay nợ và viện trợ có hoàn lại, thu từ phí, lệ phí, thu từ tiền bồi thường thiệt hại cho nhà nước…

II. PHÁP LUẬT THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1. Khái niệm:

Pháp luật về thu ngân sách Nhà nước là một hệ thống các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ thu ngân sách Nhà nước và các quan hệ xã hội phát sinh liên quan trực tiếp đến hoạt động thu ngân sách Nhà nước trong quá trình Nhà nước thực hiện các hoạt động thu ngân sách Nhà nước.

Căn cứ vào nội dung của các quy phạm pháp luật, pháp luật về thu ngân sách Nhà nước bao gồm các bộ phận sau:

– Pháp luật về thu ngân sách Nhà nước từ thuế.

– Pháp luật về thu ngân sách Nhà nước từ phí, lệ phí.

– Pháp luật về các khoản thu khác của ngân sách Nhà nước như vay nợ, tiền viện trợ,…

2. Nội dung pháp lý các khoản thu ngân sách Nhà nước:

2.1 Các khoản thu từ thuế, lệ phí, phí.

2.1.1 Các khoản thu từ thuế: 

Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế.

Thuế là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Các quốc gia đều mong muốn thuế trở thành nguồn thu chính của ngân sách nhà nước vì nguồn thu từ thuế phản ánh được tình hình phát triển kinh tế của quốc gia và thu nhập của người dân. Thông thường, các quốc gia chỉ đặt chỉ tiêu thu thuế bằng tỉ lệ tương ứng với tổng sản phẩm quốc dân (GDP).

Hệ thống pháp luật thuế của Nhà nước ta hiện nay bao gồm các loại thuế chủ yếu như sau:

– Thuế sử dụng đất nông nghiệp.

– Thuế giá trị gia tăng.

– Thuế tiêu thụ đặc biệt.

– Thuế thu nhập doanh nghiệp.

– Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

– Thuế thu nhập cá nhân

– Thuế nhà đất.

– Thuế chuyển quyền sử dụng đất.

2.1.2 Các khoản thu từ phí, lệ phí:

2.1.2.1 Khái niệm 

– Phí là khỏan thu nhằm thu hồi chi phí đầu tư cung cấp các dịch vụ công cộng không thuần túy theo quy định của pháp luật và là khỏan tiền mà các tổ chức, cá nhân phải trả khi sử dụng các dịch vụ công cộng đó.

Dịch vụ công cộng thuần túy là những dịch vụ mà nhà nước có thể lượng hóa được mức độ sử dụng của từng cá nhân tổ chức vì vậy mà nhà nước có thể thu lại một phần hoặc tòan bộ chi phí đã bỏ ra để cung cấp dịch vụ cho các đối tượng này thông qua chế độ thu phí.

– Lệ phí là những khỏan thu gắn liền với việc cung cấp các dịch vụ hành chính pháp lý của nhà nước cho các cá nhân và tổ chức nhằm phục vụ cho công việc quản lý hành chính nhà nước theo qui định của pháp luật. Cần lưu ý là khỏan tiền đó không phải là giá của dịch vụ mà là khỏan thu phục vụ cho yêu cầu quản lý của nhà nước.

2.1.2.2. Phân cấp thẩm quyền quy định về phí và lệ phí

1) Đối với phí

Chính phủ quy định đối với một số phí quan trọng, có số thu lớn, liên quan đến nhiều chính sách kinh tế – xã hội của Nhà nước. Trong từng loại phí do Chính phủ quy định, Chính phủ có thể ủy quyền cho Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định mức thu đối với từng trường hợp cụ thể cho phù hợp với tình hình thực tế.

– Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) quy định đối với một số khoản phí về quản lý đất đai, tài nguyên thiên nhiên; một số khoản phí gắn với chức năng quản lý hành chính nhà nước của chính quyền địa phương.

– Bộ Tài chính quy định đối với các khoản phí còn lại để áp dụng thống nhất trong cả nước.

– Thẩm quyền quy định đối với phí được quy định cụ thể trong Danh mục chi tiết phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị định 24/CP ngày 06 tháng 03 năm 2006 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Phí và Lệ phí. Thẩm quyền quy định đối với phí bao gồm việc quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng đối với từng phí cụ thể.

Trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định về khoản phí chưa có tên trong Danh mục chi tiết phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị định 24/CP thì Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ quản lý, sử dụng tiền phí thu được cho phù hợp với Điều

2) Đối với lệ phí. Việc phân cấp thẩm quyền quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng đối với lệ phí như sau: 

– Chính phủ quy định đối với một số lệ phí quan trọng, có số thu lớn, có ý nghĩa pháp lý quốc tế;

– Bộ Tài chính quy định đối với những lệ phí còn lại.

2.1.2.3.Nguyên tắc xác định mức thu phí, lệ phí

*Đối với phí

– Mức thu phí đối với các dịch vụ do Nhà nước đầu tư hoặc do tổ chức, cá nhân đầu tư vốn đều phải trên cơ sở bảo đảm thu hồi vốn trong thời gian hợp lý; phù hợp với khả năng đóng góp của người nộp; thuận tiện cho cả người thu phí và người nộp phí. Ngoài ra, mức thu đối với các dịch vụ do Nhà nước đầu tư còn phải bảo đảm thi hành các chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Đảng, Nhà nước trong từng thời kỳ và phù hợp với tình hình thực tế.

– Các khoản chi phí để thực hiện các dịch vụ thu phí, phục vụ cho việc xác định mức thu phí bao gồm:

+ Chi phí xây dựng, mua sắm, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên và định kỳ máy móc, thiết bị, phương tiện làm việc,… hoặc thuê ngoài tài sản trực tiếp phục vụ công việc thu phí. Chi phí này được phân bổ theo mức độ hao mòn của những tài sản trực tiếp phục vụ công việc thu phí;

+ Chi phí vật tư, nguyên, nhiên, vật liệu sử dụng trong quá trình thực hiện công việc thu phí;

+ Chi trả các khoản tiền lương hoặc tiền công, các khoản phụ cấp, các khoản đóng góp theo tiền lương, tiền công, theo chế độ hiện hành cho lao động trực tiếp thu phí, lệ phí;

– Mức thu đối với những loại phí thuộc thẩm quyền của Chính phủ quy định thì thực hiện theo quy định của Chính phủ đối với từng loại phí cụ thể.

– Mức thu đối với những loại phí thuộc thẩm quyền Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.

– Thời gian hợp lý để thu hồi vốn đầu tư thực hiện các dịch vụ thu phí căn cứ vào đánh giá khả năng thu phí, hiệu quả thu phí, vốn đầu tư và nhu cầu cần thu hồi vốn đầu tư để thực hiện dịch vụ thu phí, được xác định (dự kiến) trong đề án thu phí.

– Căn cứ vào quy định của pháp luật, tổ chức, cá nhân được thu phí có trách nhiệm xây dựng mức thu kèm theo đề án thu phí (gồm: phương thức đầu tư, thời gian đầu tư hoàn thành, thời gian đưa dự án đầu tư vào sử dụng, thời gian dự kiến bắt đầu thu phí, dự kiến mức thu và căn cứ xây dựng mức thu, đánh giá khả năng đóng góp của đối tượng nộp phí, hiệu quả thu phí và khả năng thu hồi vốn) để trình cơ quan có thẩm quyền quy định về phí (Chính phủ, Bộ Tài chính hoặc Hội đồng nhân dân cấp tỉnh) xem xét, quyết định.

Mức thu phí trước khi trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung cần có ý kiến của cơ quan tài chính cùng cấp, trừ trường hợp cơ quan xây dựng mức thu là cơ quan  tài chính. Ý kiến bằng văn bản của cơ quan tài chính phải được gửi kèm trong hồ sơ và là một căn cứ pháp lý để cơ quan có thẩm quyền quy định về phí xem xét, quyết định.  Việc quy định mức thu phí phải căn cứ vào chủ trương chính sách của Nhà nước; tình hình kinh tế – chính trị – xã hội và đặc điểm của các vùng trong từng thời kỳ; tính chất, đặc điểm của từng dịch vụ thu phí, có tham khảo mức thu loại phí tương ứng ở các nước trong khu vực và thế giới (nếu có).

* Đối với lệ phí 

Mức thu lệ phí được ấn định trước bằng một số tiền nhất định đối  với từng công việc quản lý nhà nước được thu lệ phí, không nhằm mục đích bù đắp chi phí để thực hiện công việc thu lệ phí. Riêng đối với lệ phí trước bạ, mức thu được tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) trên giá trị tài sản trước bạ theo quy định của Chính phủ.

Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định mức thu đối với những lệ phí thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định, để bảo đảm việc thi hành thống nhất trong cả nước.

2.2 Các khoản thu khác ngoài thuế, phí, lệ phí.

2.2.1 Các khoản thu từ bán tài sản của nhà nước và thu từ lợi tức cổ phần của nhà nước 

Để quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội, Chính phủ tham gia vào các hoạt động kinh tế ở những mức độ nhất định như đầu tư, tài trợ, góp vốn…Việc nhà nước tham gia vào các hoạt động đó có thể phát sinh các khoản thu từ lợi tức cổ phần, thu hồi vốn của nhà nước đầu tư vào các cơ sở kinh tế. Khoản thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước là một khoản thu vào yếu tố sản xuất, kinh doanh tính trên số vốn ngân sách Nhà nước cấp và có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động. Ngoài ra, nhà nước có thể cho thuê hoặc bán các tài sản của nhà nước. Tiền bán hoặc cho thuê công sản là khoản thu thuộc về ngân sách nhà nước Chế độ thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước:

2.2.2 Chế độ thu ngân sách Nhà nước về vay nợ :

Vay trong nước. Các khoản vay trong nước đều được thực hiện thông qua việc Chính phủ phát hành các loại giấy tờ có giá như trái phiếu, công trái, trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc. Toàn bộ nguồn vốn thu được từ việc phát hành các loại giấy tờ có giá đều phải được tập trung vào ngân sách nhà nước để sử dụng cho các nhu cầu chi đầu tư phát triển kinh tế theo kế hoạch và mục tiêu đã được Chính phủ đề ra.

– Vay nước ngoài. Đó là các khoản vay do Chính phủ vay và cam kết thực hiện nghĩa vụ với nước ngoài. Đó cũng có thể là những khoản vay do Chính phủ uỷ quyền cho các doanh nghiệp vay được Bộ Tài chính hoặc Ngân hàng nhà nước Việt Nam đứng ra bảo lãnh. Toàn bộ vốn vay nước ngoài của Chính phủ đều phải được cân đối vào ghi vào ngân sách.

2.2.3 Các khoản viện trợ: 

Viện trợ là nguồn vốn thuộc chương trình hợp tác của chính phủ các nước, các tổ chức nước ngoài dành cho 1 quốc gia. Viện trợ nước ngoài là nguồn quan trọng để bổ sung cho ngân sách nhà nước, góp phần hỗ trợ nhà nước thực hiện các khoản chi phát triển, cải cách kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của người dân.

Viện trợ có thể là song phương hoặc đa phương. Viện trợ có thể dưới hình thức có hoàn lại hoặc không hoàn lại. Thông thường, các khoản viện trợ có hoàn lại sẽ được thể hiện dưới dạng cho vay ưu đãi, lãi suất thấp, thời hạn hoàn trả gốc dài và có thể được ân hạn

Ngoài ra, thu ngân sách nhà nước còn có thể bao gồm các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.

 


 

Chương V – Pháp luật về chi ngân sách nhà nước

I. KHÁI NIỆM CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CƠ CẤU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1. Khái niệm chi ngân sách nhà nước:

Chi ngân sách nhà nước thể hiện chức năng phân phối tài chính ở khâu ngân sách nhà nước. Chi ngân sách Nhà nước là hoạt động của Nhà nước nhằm mục đích phân tích và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước theo dự toán ngân sách Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định. Có thể nói, đó chính là quá trình phân phối và sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Do vậy, thực hiện các khoản chi ngân sách nhà nước luôn gắn liền với các quan hệ tiền tệ trong phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước là quỹ ngân sách nhà nước.

Về phương diện vật chất, các khoản chi ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ số tiền từ ngân quỹ mà nhà nước sử dụng để đảm bảo cho chức năng, nhiệm vụ của mình. Về phương diện kinh tế, chi ngân sách nhà nước là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ kinh tế xã hội mà nhà nước phải thực hiện. Do vậy, các khoản chi ngân sách nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia.

Chi ngân sách nhà nước có những đặc điểm sau đây :

-Chi ngân sách nhà nước gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.

-Cơ cấu, nội dung và mức độ dành cho các khoản chi ngân sách nhà nước do cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước là Quốc Hội quyết định.

-Chi ngân sách nhà nước phải mang tính hiệu quả cao. Tính hiệu quả của hoạt động chi ngân sách nhà nước phải được đánh giá ở tầm vĩ mô.

-Chi ngân sách nhà nước là hình thức cấp phát trực tiếp của nhà nước vào các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Chi ngân sách nhà nước là hình thức cấp phát không hoàn lại.

2. Cơ cấu các khoản chi ngân sách nhà nước:

2.1 Chi đầu tư phát triển: 

Việc phân biệt chi đầu tư phát triển trong cơ cấu các khoản chi ngân sách nhà nước là căn cứ vào mục đích kinh tế-xã hội của việc sử dụng các khoản chi ngân sách nhà nước. Theo đó, các khoản chi ngân sách nhà nước được phân biệt thành 2 nhóm lớn: chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Trong đó, chi đầu tư phát triển mang tính chất của khoản chi tích luỹ. Chi thường xuyên còn được hiểu là chi có tính chất tiêu dùng.

Chi có tính chất tích lũy hay còn gọi là chi đầu tư phát triển bao gồm những khoản chi phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng, gắn liền với việc xây dựng, mở rộng cơ sở hạ tầng kinh tế. Có thể nói, chi đầu tư phát triển là khoản chi tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, nhằm phát triển năng lực sản xuất, tăng tích luỹ tài sản của nền kinh tế quốc dân. Việc nhà nước thực hiện chi đầu tư phát triển chính là việc ngân sách nhà nước bỏ vốn vào các hoạt động kinh tế xã hội để hướng đến những lợi ích kinh tế xã hội lớn hơn trong tương lai. Đây là những khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhưng ít phát sinh lợi ích ngay lập tức. Điều này làm cho các khoản chi đầu tư phát triển ít thu hút tư nhân tham gia đầu tư. Chính vì vậy mà vai trò của nhà nước rất quan trọng trong việc thực hiện các khoản chi này. Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng, chi đầu tư phát triển thường có những khoản chi lớn hay được kể đến là:

-Chi đầu tư xây dựng cơ bản. Khoản chi này được ngân sách nhà nước dựng để chi cho việc đầu tư, xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội mà không có khả năng thu hồi vốn. Khoản chi này nhằm đảm bảo các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.

-Chi đầu tư, hỗ trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, lĩnh vực quan trọng mà cần thiết phải có sự tham gia của nhà nước Nhà nước. Những khoản chi này góp phần quan trọng để nhà nước thực hiện vai trò định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế xã hội theo đúng múc tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ.

-Chi dự trữ Nhà nước là khoản chi để mua hàng hoá, vật tư dự trữ nhà nước có tính chiến lược của quốc gia hoặc hàng hoá, vật tư dự trữ mang tính chuyên ngành.

-Chi đầu tư phát triển thuộc các chương trình, mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước chẳng hạn như cho chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, chương trình nước sạch nông thôn, phủ xanh đồi trọc…

Chi đầu tư phát triển có những đặc điểm như sau:

-Chi đầu tư phát triển là khoản chi lớn như không có tính ổn định do thứ tự và tỉ trọng ưu tiên trong chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước cho từng nội dung chi, từng lĩnh vực kinh tế xã hội ở mỗi giai đoạn là khác nhau.

-Phạm vi và mức độ chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước luôn gắn liền với việc thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.

2.2 Chi thường xuyên:

So với nhóm các khoản chi có tính chất tích lũy hay còn gọi là chi đầu tư phát triển, nhóm các khoản chi có tính chất tiêu dùng đa dạng và phức tạp hơn. Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước thể hiện quá trình phân phối, sử dụng vốn từ quỹ ngân sách nhà nước để đáp ứng cho các nhu cầu gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước. Chi thường xuyên bao gồm 4 nhóm chi chủ yếu được xác định:

– Chi cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cơ quan Đảng: bao gồm chi quản lý hành chính của các cơ quan Nhà nước ở các cấp. Nhà nước ngày càng có xu hướng giảm thiểu đến mức tối đa có thể được các khoản chi năm trong nhóm này, nhằm mục đích tăng thu và tiết kiệm chi cho ngân sách nhà nước, tiến đến tinh gọn bộ máy quản lý hành chính nhà nước các cấp sao cho hiệu suất làm việc đạt mức cao nhất.

– Chi cho các hoạt động sự nghiệp: Bao gồm chi cho các hoạt động kinh tế, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học, đào tạo, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, trợ cấp chính sách xã hội và bảo hiểm xã hội… Chi hỗ trợ cho hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội, chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp…Đây là nhóm chi chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng số chi có tính chất tiêu dùng của ngân sách Nhà nước.

– Chi cho quốc phòng và an ninh: Là khoản chi hết sức cần thiết của quốc gia, nhằm bảo đảm điều kiện vật chất cho sự nghiệp quốc phòng, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.

– Chi khác: bao gồm chi trợ giá theo chính sách của nhà nước, phần chi thường xuyên trong các chương trình, mục tiêu quốc gia.

Chi thường xuyên có đặc điểm sau:

-Những khoản chi thường xuyên có tính chất ổn định, bởi vì, có nhiều chức năng của nhà nước là không thay đổi như chức năng bảo vệ công dân, chức năng quản lý kinh tế. Mặt khác, nhà nước luôn phải đảm bảo những khoản chi mang tính chất ổn định mà không phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội thay đổi, chẳng hạn như khoản chi lương của công chức, viên chức.

-Các khoản chi thường xuyên có hiệu lực tác động trong thời gian ngắn và mang tính tiêu dùng xã hội. Chi thường xuyên chủ yếu đáp ứng cho các nhu cầu chi để thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước về quản lý kinh tế xã hội trong từng năm ngân sách. Đây là khoản chi chủ yếu nhằm trang trải cho các nhu cầu về quản lý hành chính nhà nước, quốc phòng an ninh, các hoạt động sự nghiệp..

-Phạm vi, mức độ chi thường xuyên của ngân sách nhà nước gắn liền với cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước và sự lựa chọn của nhà nước trong việc cung ứng các hàng hoá công cộng. Một quốc gia với cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước càng gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả thì khoản chi thường xuyên càng được tiết kiệm và ngược lại.

-Chi thường xuyên cần được quản lý theo dự toán và được sử dụng theo nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả. Trong quá trình phân bổ và lập kế họach chi để đưa vào trong dự toán phải luôn tính toán sao cho chi phí ít nhất nhưng vẫn đạt hiệu quả tốt nhất Những khoản chi thường xuyên một khi đã được ghi nhận vào dự toán và được cơ quan quyền lực nhà nước thông qua sẽ được xem là chỉ tiêu pháp lệnh. Các đơn vị quản lý tài chính và chủ thể thụ hưởng ngân sách nhà nước có nghĩa vụ chấp hành tuyệt đối. Yêu cầu này nhằm hướng đến việc đảm bảo mục tiêu cân đối ngân sách nhà nước.

Bên cạnh đó, chi ngân sách nhà nước còn bao gồm chi trả gốc, lãi tiền huy động cho đầu tư, chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính và chi bổ sung cho ngân sách nhà nước cấp dưới.

2.3 Chi trả gốc, lãi tiền huy động cho đầu tư:

Khoản nợ gốc thực chất đó là số tiền nhà nước đã vay của các chủ nợ trong và ngoài nước đến hạn phải thanh toán. Chi trả nợ bao gồm:

-Trả nợ trong nước: đây là những khoản nợ mà nhà nước đã vay của các tầng lớp dân cư, đoàn thể xã hội, tổ chức thông qua hình thức phát hành giấy tờ có giá (trái phiếu, công trái…). Ở đây, Chính phủ là chủ thể đứng ra vay và phải đảm bảo thanh toán đầy đủ, đúng hạn cả gốc, lãi cho người chủ sở hữu công trái, trái phiếu của Chính phủ. Việc thanh toán chi trả sẽ đựoc thực hiện tại kho bạc nhà nước. Nguồn vốn thanh toán sẽ do ngân sách nhà nước đảm nhận. Cụ thể là, ngân sách nhà nước ở trung ương có trách nhiệm chi trả các loại giấy tờ có giá phát hành phục vụ cho các công trình trung ương. Hàng năm, Bộ Tài chính có trách nhiệm lập kế hoạch thanh toán trái phiếu trình Chính phủ phê duyệt và đưa vào dự toán ngân sách nhà nước. Căn cứ vào kế hoạch được duyệt, cơ quan tài chính chuẩn bị nguồn vốn để kho bạc nhà nước thanh toán trái phiếu, công trái đến hạn. Trường hợp công trái, trái phiếu đã đến hạn thanh toán mà chủ sở hữu chưa đến thanh toán thì trái phiếu, công trái đó sẽ được bảo lưu cả gốc lẫn lãi trong thời gian phát hành và được hưởng lãi suất ngang bằng lãi suất gửi tiết kiệm không kỳ hạn.

Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước 2002, ngân sách địa phương cũng có thể được bổ sung bằng nguồn vốn thu được từ việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu. Trường hợp ngân sách cấp tỉnh có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán thì ngân sách cấp tỉnh đó được phép huy động vốn trong nước bằng việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Việc huy động vốn bằng hình thức này phải tuân thủ yêu cầu cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức tổng dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.

-Trả nợ nước ngoài: đây là những khoản nợ nước ngoài mà nhà nước đã vay của chính phủ các nước, các doanh nghiệp hoặc các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Chính phủ sẽ lập kế hoạch trả nợ theo hàng năm và kế hoạch trả nợ 5 năm. Hàng năm, Bộ Tài chính có trách nhiệm lập kế hoạch tổng hạn mức trả nợ nước ngoài của Chính phủ trình lên cho Chính phủ duyệt. Thủ tướng Chính phủ sẽ uỷ quyền cho Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ theo hạn mức được duyệt. Nguồn vốn để thanh toán nợ nước ngoài do ngân sách trung ương đảm nhận. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm bố trí nguồn vốn hàng năm theo kế hoạch được duyệt để trả nợ nước ngoài khi đến hạn. Việc trả nợ theo kế hoạch có thể được tiến hành theo phương thức trả nợ thông qua hàng hoá hoặc bằng tiền.

Theo xu hướng đổi mới chính sách tài chính quốc gia, quan điểm mới về cân đối ngân sách và bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Các khoản vay trong nước, nước ngoài của Chính phủ đều phải được thực hiện cho mục đích đầu tư và phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế. Đối với vốn vay để đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng, ngân sách nhà nước tiến hành cấp phát vốn và thực hiện thu hồi vốn thông qua tu phí, giá dịch vụ. Đồng thời, nhà nước sẽ là chủ thể trực tiếp trả nợ. Đối với vốn cho vay mục đích đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh, nhà nước là người vay sau đó sẽ cho tổ chức kinh tế trong nước vay lại. Các tổ chức này sau một thời gian nhất định và với một tỷ lệ lãi suất được xác định trên thị trường vốn ở trong nước, phải hoàn trả số vốn vay cho nhà nước để nhà nước thanh toán nợ cho chủ thể đã cho vay.

2.4 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính:

Quỹ dự trữ tài chính của quốc gia là khoản tích luỹ từ ngân sách nhà nước, hình thành nên nguồn dự trữ chiến lược do nhà nước thống nhất quản lý và sử dụng. Quỹ dự trữ quốc gia được sử dụng với 2 mục đích:

-Nhằm tạm ứng cho ngân sách nhà nước trong trường hợp ngân sách nhà nước cần thực hiện nhu cầu chi để đảm bảo nhiệm vụ, yêu cầu kinh tế xã hội của quốc gia nhưng nguồn thu cho ngân sách nhà nước chưa tập trung kịp. Trường hợp quỹ dự trữ tài chính tạm ứng cho ngân sách nhà nước thì ngân sách nhà nước phải hoàn trả trong năm ngân sách.

-Nhằm xử lý cân đối ngân sách nhà nước. Việc sử dụng quỹ dự trữ tài chính cho mục đích xử lý cân đối ngân sách được thể hiện trong các trường hợp như: cần nguồn ngân sách nhà nước để phòng chống, khắc phục hậu quả của thiên tai, tai nạn trên diện rộng, thực hiện các nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng an ninh, hoặc các nhiệm vụ cần thiết, cấp bách khác phát sinh ngoài dự toán để tránh không làm ảnh hưởng, xáo trộn đến sản xuất, đời sống xã hội. Ngoài ra, nếu nguồn thu ngân sách nhà nước, kể cả từ vay nợ nhằm mục đích bù đắp bội chi cho ngân sách nhà nước không đạt mức bội chi mà dự toán ngân sách nhà nước đã tiên liệu theo quyết định của cơ quan quyền lực ở trung ương và địa phương, trường hợp này quỹ dự trữ tài chính sẽ được sử dụng nhằm đảm bảo yêu cầu cân đối ngân sách trong năm ngân sách.

Quỹ dự trữ quốc gia được hình thành từ ngân sách nhà nước, do cơ quan quyền lực cao nhất (Quốc hội) quyết định. Quỹ dự trữ quốc gia được quản lý chuyên trách bởi Cục dữ trự quốc gia-một cơ quan được tổ chức theo hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương. Hàng năm, ngân sách nhà nước sẽ bố trí những nguồn tăng thu từ ngân sách nhà nước, thu kết dư và dự toán chi ngân sách nhà nước hàng năm (tối đa không vượt quá 25% tổng dự toán chi) để bổ sung cho quỹ dự trữ tài chính.

Về thẩm quyền quyết định sử dụng quỹ dự trữ tài chính, Bộ trưởng Bộ Tài chính  hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định đối với việc tạm ứng cho ngân sách nhà nước từ quỹ dự trữ tài chính. Trường hợp xử lý cân đối ngân sách, đối với quỹ dự trữ tài chính ở trung ương, Thủ tướng Chính phủ sẽ có thẩm quyền quyết định. Đối với quỹ dự trữ tài chính ở địa phương sẽ do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Nếu không xét đến trường hợp tạm ứng từ quỹ dự trữ tài chính phải được hoàn trả ngay trong năn ngân sách, việc sử dụng quỹ dự trữ tài chính cho các mục đích khác cần phải đảm bảo yêu không bảo toàn số dư của quỹ dự trữ tài chính. Theo đó, không được sử dụng vượt quá 30% số dư của Quỹ dự trữ tài chính tại thời điểm bắt đầu năm ngân sách.

Ngoài ra, quỹ dự trữ tài chính phân biệt với quỹ dự phòng ngân sách-một khoản chi được bố trí từ nội dung chi đầu tư phát triển.

2.5 Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới:

Mục đích của khoản chi này nhằm đảm bảo tính công bằng, yêu cầu phát triển cân đối giữa các vùng địa phương. Luật Ngân sách nhà nước 2002 đã có sự mở rộng hơn so với trước đây. Trước khi Luật Ngân sách nhà nước 2002 có hiệu lực, ngân sách cấp trên chỉ được phép bổ sung cho ngân sách nhà nước cấp dưới để đảm bảo yêu cầu cân đối thu chi cho cấp ngân sách được thụ hưởng. Hình thức cho bổ sung này đựơc gọi là cho bổ sung để cân đối ngân sách và thể hiện tính chất tài trợ vô điều kiện. Hiện nay, loại hình chi bổ sung cân đối thu, chi này vẫn được duy trì nhằm tạo đìêu kiện cho chính quyền cấp dưới cân đối nguồn ngân sách để hoàn thành nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh được giao. Ngoài ra, pháp luật ngân sách nhà nước hiện hành còn cho phép ngân sách cấp trên chi bổ sung có mục tiêu cho ngân sách cấp dưới để hỗ trợ một phần cho những cấp ngân sách có khó khăn khi phát sinh các nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết mà sau khi đã tận dụng mọi khả năng về kinh phí của cấp mình chẳng hạn như đã sử dụng nguồn quỹ dự phòng, quỹ dự trữ tài chính mà vẫn chưa đáp ứng được.  Hình thức chi bổ sung có mục tiêu mang bản chất của những khoản tài trợ bất đối ứng.

II. PHÁP LUẬT VỀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:

1. Khái niệm:

Tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động chi ngân sách nhà nước giữa các chủ thể tạo thành pháp luật về chi ngân sách nhà nước. Như vậy, pháp luật về chi ngân sách Nhà nước là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước phân phối và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước.

Đặc điểm quan trọng của quan hệ pháp luật chi ngân sách Nhà nước là Nhà nước luôn luôn là một bên chủ thể. Còn các chủ thể khác có thể là pháp nhận hoặc thể nhân thụ hưởng vốn ngân sách Nhà nước.

Căn cứ vào nội dung điều chỉnh, các quy phạm pháp luật về chi ngân sách Nhà nước, có thể phân ra các bộ phận sau:

+ Các quy phạm pháp luật quy định những vấn đề cơ bản về hoạt động chi ngân sách Nhà nước như các nguyên tắc, điều kiện, phương thức chi ngân sách Nhà nước.

+ Các quy phạm pháp luật quy định nội dung pháp lý các khoản chi ngân sách Nhà nước. Bộ phận quy phạm pháp luật này thường được gọi là chế độ pháp lý các khoản chi ngân sách Nhà nước.

+ Các quy phạm pháp luật quy định về tổ chức quản lý, phân phối các khoản chi ngân sách Nhà nước.

2. Các nguyên tắc, điều kiện, phương thức chi ngân sách nhà nước

2.1. Các nguyên tắc và điều kiện chi ngân sách Nhà nước: 

2.1.1. Các nguyên tắc chi ngân sách Nhà nước:

Hoạt động chi ngân sách Nhà nước là một mặt hoạt động của ngân sách Nhà nước. Chính vì vậy chi ngân sách Nhà nước phải tuân thủ nguyên tắc chung của quản lý ngân sách Nhà nước. Luật ngân sách Nhà nước quy định: ngân sách Nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, có phân công trách nhiệm gắn với quyền hạn, phân cấp quản lý giữa các ngành, các cấp. Trên cơ sở nguyên tắc chung đó, các quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp luật quy định về chi ngân sách Nhà nước còn thể hiện những tư tưởng mang tính chất chỉ đạo của Nhà nước đặt ra phương châm và mục đích của hoạt động chi ngân sách Nhà nước. Các nguyên tắc đó bao gồm:

– Nguyên tắc cân bằng thu, chi.

– Nguyên tắc chi theo kế hoạch và đúng mục đích.

– Nguyên tắc tăng cường thu và tiết kiệm chi

2.1.1.1. Nguyên tắc cân bằng thu, chi:

Mối tương quan giữa hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước tác động trực tiếp tới tình trạng ngân sách Nhà nước và toàn xã hội. Bởi vậy, trong quản lý ngân sách Nhà nước, cân bằng giữa thu và chi ngân sách Nhà nước là một trong những nguyên tắc quan trọng trong chi ngân sách nhà nước. Nguyên tắc này cần phải được quán triệt trong toàn bộ quá trình ngân sách, đặc biệt là khâu chấp hành ngân sách. Theo nguyên tắc này, các khoản thu, chi thể hiện trong dự toán ngân sách nhà nước phải đảm bảo tính cân đối. Các khoản chi chỉ được xây dựng trên cơ sở nguồn thu đã được xác định. Ngược lại, các nguồn thu cho ngân sách nhà nước sẽ nhằm đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu đã được hoạch định. Ngân sách nhà nước sẽ được cân bằng theo cách xác định tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên của ngân sách và góp phần tích lũy ngày càng cao để phục vụ cho nhu cầu chi đầu tư phát triển. Trường hợp ngân sách nhà nước bội chi, số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tạo điều kiện tiến đến cân bằng ngân sách nhà nước. Trên thực tế, đôi khi khả năng nguồn thu bị hạn chế và tăng chậm trong khi các khoản chi lại tăng nhanh hơn nên tình trạng bội chi ngân sách luôn có thể xảy ra. Để xử lý bội chi ngân sách nhà nước, một trong những giải pháp là đi vay trong hoặc ngoài nước. Trong trường hợp này, việc sử dụng nguồn vay để bù đắp bội chi chỉ nhằm mục đích đầu tư phát triển nhằm đảm bảo khả năng chi trả nợ của nhà nước, mà tuyệt đối không được sử dụng các khoản vay để thực hiện những khoản chi mang tính chất tiêu dùng.

2.1.1.2. Nguyên tắc chi theo kế hoạch và đúng mục đích:

Tính kế hoạch của ngân sách Nhà nước đòi hỏi hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước đều phảo dựa trên cơ sở kế hoạch. Sự thiếu ăn khớp giữa thu, chi ngân sách Nhà nước đều tạo ra những khó khăn cho hoạt động quản lý ngân sách Nhà nước và hạn chế hiệu quả trong thực tế. Do đó, để bảo đảm sự ăn khớp giữa thu và chi ngân sách Nhà nước đòi hỏi chúng phải được thực hiện theo kế hoạch.

Nguyên tắc này đòi hỏi các khoản chi ngân sách Nhà nước chỉ được thực hiện với điều kiện khoản chi đó đã được ghi trong dự toán ngân sách được duyệt, trừ các trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định. Mặc khác việc cấp phát và sử dụng vón ngân sách Nhà nước phải đúng với đối tượng thụ hưởng, và đúng nội dung, mục đích của khoảng chi được xác định trong dự toán ngân sách được duyệt.

2.1.1.3. Nguyên tắc tiết kiệm chi và tăng cường thu:

Trong cơ chế thị trường, việc nhà nước cắt bỏ một vài khoản chi tiêu không đồng nghĩa với việc gánh nặng chi tiêu của ngân sách nhà nước sẽ được giảm bớt. Trong điều kiện nền kinh tế của nước ta nguồn thu ngân sách Nhà nước hạn hẹp, nhu cầu chi tiêu rất lớn, chỉ có tiết kiệm chi thì mới có thể đủ nguồn tài chính trang trải được các nhu cầu cấp bách. Quá trình hoạch định chính sách, hình thành và thực hiện ngân sách Nhà nước cũng không thể dự liệu trước được từ đầu năm. Thêm vào đó, các thông tin để xây dựng kế hoạch ngân sách không đủ mức chính xác cần thiết, nên mặc dù trong các dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm, người ta đã luôn bố trí một khoản dự phòng khoảng 2– 5% tổng số dự toán chi ngân sách Nhà nước, nhưng số dự phòng trên cũng không thể bảo đảm cho quá trình điều hành ngân sách Nhà nước. Vì vậy, tiết kiệm chi và đẩy mạnh thu là một trong 3 nguyên tắc phải được quán triệt ngay từ đầu khi bắt đầu một chu trình ngân sách.

Tiết kiệm chi không phải là đơn thuần cắt bỏ các khoản chi ngân sách Nhà nước một cách tùy tiện, mà là chi tiêu đúng theo các định mức, đúng tiêu chuẩn và đúng chế độ mà Nhà nước đã quy định cho từ đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan có lập dự toán thu chi.

Tăng cường thu không chỉ đơn thuần tìm các giải pháp để thu ngay vào quỹ ngân sách càng nhiều càng tốt, chống thất thu, mà ngay cả trong bố trí chi ngân sách Nhà nước cũng phải thể hiện được việc nuôi dưỡng chăm sóc nguồn thu.

2.1.2.  Điều kiện thực hiện chi ngân sách Nhà nước:

Hoạt động chi ngân sách Nhà nước được thực hiện dựa trên các nguyên tắc đồng thời để thực hiện chi ngân sách Nhà nước trong các trường hợp cụ thể. Pháp luật quy định các điều kiện chi ngân sách Nhà nước. Các điều kiện đó bao gồm:

Thứ nhất, khoản chi đã được xác định trong dự toán ngân sách được duyệt. Điều kiện này không áp dụng trong trường hợp vào đầu năm ngân sách dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định cơ quan tài chính các cấp được phép cấp kinh phí cho các nhu cầu chi không thể trì hoãn được cho tới khi dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách đượ quyết định.

Điều kiện này cũng không được áp dụng trong trường hợp có sự thay đổi về thu, chi mà sự thay đổi đó được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp nhận và quyết định.

 

Thứ hai: Khoản chi đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định.

Thứ ba: Khoản chi đã được cơ quan tài chính hoặc thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền chuẩn chi.

Thứ tư: khoản chi được thực hiện trên cơ sở có đầy đủ các chứng từ có liên quan.

Tùy theo tính chất từng khoản chi, pháp luật quy định cụ thể những loại hồ sơ, chứng từ thanh toán bắt buộc phải có là điều kiện thực hiện các khoản chi ngân sách Nhà nước.

Ngoài các điều kiện trên đây đối với những khoản chi cho công việc cần phải đấu thầu thì việc chi ngân sách chỉ được thực hiện trên cơ sở kết quả đấu thầu theo quy định của Chính phủ.

2. 2 Phương thức cấp phát ngân sách từ ngân sách Nhà nước:

Phương thức cấp phát tài chính từ ngân sách Nhà nước là cách thức thực hiện phân phối vốn ngân sách Nhà nước cho các đơn vị thụ hưởng theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở nguồn kinh phí đã được phân bổ, kế hoạch sử dụng ngân sách đã được xây dựng và thông qua theo trình tự, thủ tục luật định, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước ra quyết định chi, yêu cầu cơ quan kho bạc nhà nước chuyển giao kinh phí.

Hiện nay, ở nước ta việc cấp phát ngân sách từ ngân sách Nhà nước được thực hiện theo hai phương thức chủ yếu là phương thức cấp phát theo dự toán kinh phí và phương thức cấp phát theo lệnh chi tiền. Ngoài ra, các chủ thể có liên quan đến ngân sách nhà nước còn có thể được cấp phát theo phương thức cấp phát trực tiếp, phương thức cấp phát kinh phí ủy quyền và cấp phát gán thu bù chi, cấp phát ghi thu, ghi chi.

Để thực hiện cấp phát, thanh toán các khoản chi ngân sách Nhà nước theo các phương thức thanh toán trên đây, pháp luật quy định hai hình thức thanh toán là hình thức cấp tạm ứng và hình thức cấp phát thanh toán là chủ yếu. Cấp tạm ứng là việc ngân sách nhà nước sẽ ứng trước một số tiền cho đối tượng có nhu cầu sử dụng ngân sách khi đối tượng này chưa có đủ điều kiện để nhận chính xác số tiền phục vụ cho hoạt động xin tạm ứng. Trong trường hợp đơn vị sử dụng ngân sách có nhu cầu thực tế, đơn vị này sẽ phát hành “Giấy đề nghị rút kinh phí (tạm ứng)” cùng với bộ chứng từ có liên quan đến khoản xin tạm ứng gửi đến kho bạc nhà nước. Mức tạm ứng tuỳ thuộc vào tính chất, tiến độ thực hiện từng khoản chi nhưng không quá tổng số kinh phí đã được phân bổ theo lệnh chi tiền.  Kho bạc nhà nước sau khi kiểm tra hồ sơ hợp lệ sẽ tiến hành tạm ứng. Đối với cấp phát kinh phí dưới hình thức thanh toán, khi đảm bảo đủ điều kiện để được thanh toán từ ngân sách nhà nước, đơn vị sử dụng ngân sách lập giấy đề nghị rút kinh phí cùng với các chứng từ phù hợp gửi kho bạc đề nghị thanh toán. Các hình thức cấp phát đều phải thực hiện thông qua hệ thống kho bạc nhà nước.

Trong các phương thức cấp phát, thù trưởng đơn vị sử dụng ngân sách chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định sử dụng ngân sách nhà nước của mình. Đồng thời, kho bạc nhà nước cũng có trách nhiệm trong việc quản lý thanh toán các khoản ngân sách nhà nước được cấp phát.

2.2.1 Phương thức cấp phát theo dự toán kinh phí:

Đây là phương thức để cấp phát kinh phí thường xuyên cho các đơn vị dự toán ngân sách nhà nước-vốn là những đối tượng thường xuyên sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ đuợc giao. Các đối tượng này bao gồm: các cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp hoạt động dưới hình thức thu đủ, chi đủ hoặc gán thu bù chi, các cơ quan Đảng, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp được nhà nước đảm bảo kinh phí. Như vậy, cấp phát theo dự toán kinh phí là phương thức áp dụng đối với các khoản chi mà cơ quan tài chính không trực tiếp cấp phát. Trong đó, dự toán kinh phí được hiểu là khả năng tối đa mà đơn vị thụ hưởng có thể nhận từ ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên của mình. Kinh phí sử dụng thực tế của những đối tượng thụ hưởng không được phép vượt quá giới hạn đã được phân bổ chi tiết theo từng hạng, mục, tháng, quý được gọi là hạn mức cấp phát. Theo phương thức này, định kỳ hàng tháng, hàng quý, cơ quan tài chính cấp hạn mức kinh phí vốn cho các cơ quan, đơn vị thụ hưởng ngân sách nhà nước. Nếu phát sinh nhu cầu cần thiết, cấp bách, đơn vị sử dụng ngân sách có thể yêu cầu kinh phí vượt hơn dự toán kinh phí quý cho đơn vị nhưng không được vựơt quá dự toán tổng thể.

Quyết định chi của đơn vị sử dụng ngân sách có hình thức là “Giấy rút dự toán ngân sách nhà nước”. Khi có nhu cầu thực tế, căn cứ vào hạn mức của từng hạn, mục chi, hạn mức chi định kỳ từng tháng, quý, đại diện hợp pháp của đơn vị sử dụng ngân sách phát hành “Giấy rút dự toán ngân sách nhà nước” cùng các chứng từ hợp pháp yêu cầu kho bạc quản lý tài khoản thanh toán. Kho bạc sẽ thực hiện chi trả theo đúng mục chi thực tế sau khi đã kiểm tra điều kiện theo quy định.

Phương thức này được áp dụng rộng rãi do các đơn vị dự toán ngân sách nhà nước sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước để đáp ứng các yêu cầu thường xuyên của đơn vị mình. Phương thức này cũng tạo điều kiện cho kho bạc nhà nước chủ động kiểm soát chi ngân sách nhà nước, chủ động sử dụng nguồn kinh phí với hiệu suất cao. Đồng thời, kho bạc nhà nước cũng chịu trách nhiệm rất lớn khi thực hiện cấp phát kinh phí theo dự toán. Cơ quan tài chính chỉ có trách nhiệm đôn đốc, thông báo chính thức dự toán kinh phí trong kỳ áp dụng cho đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước. Ngoài ra, các đơn vị sử dụng kinh phí theo phương thức cấp phát theo dự toán sẽ bị chi phối về tính chủ động trong quá trình sử dụng kinh phí. Bên cạnh đó, những đơn vị này còn có thể phát sinh hành vi tiêu cực như tận hưởng tối đa dự toán đã được phân bổ, không tuân thủ nguyên tắc tăng cường thu, tiết kiệm chi.

2.2.2 Phương thức cấp phát theo lệnh chi tiền:

Đây là phương thức được áp dụng đối với những khoản chi do cơ quan tài chính cấp phát trực tiếp cho đơn vị sử dụng ngân sách. Phương thức này chỉ được áp dụng đối với những chủ thể không có quan hệ thường xuyên với ngân sách nhà nước chẳng hạn như các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội…Ngoài ra những khoản chi mang tính chất đặc thù phát sinh từng lần chẳng hạn như các khoản giao dịch của Chính phủ với các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong mối quan hệ vay nợ, viện trợ, các khoản bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới cũng được cấp phát theo phương thức thông qua lệnh chi tiền.

Lệnh chi tiền là quyết định do cơ quan tài chính phát hành đến kho bạc nhà nước yêu cầu kho bạc chi trả, thanh toán một số tiền cho đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước theo đúng nội dung của lệnh chi. Nhận được lệnh chi tiền hợp lệ, căn cứ vào yêu cầu của cơ quan tài chính thể hiện trong lệnh chi tiền, kho bạc sẽ tiến hành xuất quỹ thanh toán cho đơn vị sử dụng ngân sách bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản theo hình thức: cấp tạm ứng hoặc cấp thanh toán. Khi nhận được kinh phí, cho dù dưới hình thức tạm ứng hay thanh toán, đơn vị thụ hưởng ngân sách có toàn quyền sử dụng nguồn kinh phí đã được chuyển giao một cách chủ động.

Ngoài hai phương thức cấp phát chủ yếu là cấp phát kinh phí theo dự toán và theo lệng chi tiền, ngân sách nhà nước còn có thể được cấp phát theo một số hình thức khác như:

-Hình thức cấp phát ghi thu, ghi chi: Đây là phương thức thu, chi tại chỗ, tại một thời điểm nhất định và giao cho đơn vị trực tiếp thực hiện, sau đó sẽ có báo cáo quyết toán với ngân sách nhà nước.

-Hình thức cấp phát kinh phí ủy quyền: hình thức này áp dụng chủ yếu khi cơ quan quản lý cấp trên ủy quyền cho cơ quan quản lý cấp dưới thực hiện nhiệm vụ thuộc chức năng của mình. Do vậy, kinh phí phải được chuyển từ ngân sách cấp trên xuống cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ chi thay cho ngân sách cấp trên. Sau khi thực hiện xong, ngân sách cấp dưới có trách nhiệm quyết toán lại với ngân sách cấp trên.

-Hình thức gán thu bù chi: hình thức này được áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu nhằm khuyến khích cơ chế hạch toán kinh tế, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Các đơn vị phải tự tạo nguồn thu để đảm bảo chi tiêu, ngân sách nhà nước chỉ cấp phần chênh lệch thiếu. Trường hợp hạch toán phát sinh nguồn chênh lệch thừa, đơn vị phải nộp phần này vào ngân sách nhà nước.

III. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ CÁC KHOẢN CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:

1. Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển:

1.1. Khái niệm.

Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ phân phối và sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cho nhu cầu đầu tư xây dựng theo kế hoạch của Nhà nước.

1.2.1. Đối tượng chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển:

Vốn cấp phát của ngân sách Nhà nước áp dụng cho các trường hợp sau:

– Các dự án đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh mà không có khả năng thu hồi vốn.

– Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, góp vốn cổ phần liên doanh và các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật.

– Chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển đối với các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án phát triển kinh tế.

-Chi cho dự trữ nhà nước.

Những khoản chi trên đều có đặc điểm là nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận dài lâu cho nền kinh tế, phục vụ cho nhu cầu đầu tư, phát triển đất nước, thời hạn sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước lâu dài, cho nên, việc quyết toán thường sẽ trải qua nhiều năm năm ngân sách.

Vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước dựng để đầu tư đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các cơ sở sản xuất tạo việc làm, các dự án đầu tư quan trọng của Nhà nước trong từng thời kỳ và một số dự án khác của các ngành có khả năng thu hồi vốn đã được xác định trong cơ cấu kế hoạch của Nhà nước.

Như vậy, chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản được sử dụng theo hai loại hình: một loại được cấp phát, còn một loại là được cho vay với lãi suất ưu đãi.

Về nguyên tắc, theo quy định hiện hành các dự án được ngân sách Nhà nước cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản là những dự án không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Còn các dự án được cho vay ưu đãi là các dự án có khả năng thu hồi vốn.

1.2.2. Trình tự chuyển giao vốn đầu tư phát triển  từ ngân sách Nhà nước:

Phù hợp với hai loại hình chi đầu tư xây dựng cơ bản, pháp luật quy định hai loại trình tự chuyển giao vốn.

a. Đối với các đối tượng được ngân sách Nhà nước cấp phát vốn.

Hàng năm, căn cứ vào kế hoạch Nhà nước đã được duyệt. Bộ tài chính sẽ thông báo cho các bộ, ngành, địa phương và hệ thống tổng cục Đầu tư phát triển về việc cấp vốn, cơ quan quản lý ngân sách Nhà nước sẽ chuyển tiền theo kế hoạch sang Tổng cục Đầu tư để thực hiện việc cấp cụ thể.

Để nhận được vốn cấp phát, các chủ đầu tư phải mở tài khoản tại các Cục hoặc Chi cục đầu tư phát triển nơi giao dịch và xuất trình các văn bản cần thiết theo quy định của pháp luật.

Nói chung, nguyên tắc cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách Nhà nước là cấp phát để thanh toán khối lượng hoàn thành theo giá trị khối lượng được nghiệm thu hàng tháng. Nghĩa là đơn vị xây lắp phải tự vay, bỏ vốn ra xây dựng theo hợp đồng với chủ đầu tư, sau đó được chủ đầu tư thanh toán lại trên cơ sở khối lượng nghiệm thu. Đối với các gói thầu tổ chức đấu thầu xây lắp được thực hiện tạm ứng vốn từ 10 – 20% kế hoạch vốn cả năm tùy theo quy mô và điều kiện cụ thể của từng gói thầu.

Đối với việc mua sắm thiết bị, sẽ được tạm ứng vốn theo chế độ quy định và trên cơ sở các điều kiện của hợp đồng giữa chủ đầu tư và tổ chức cung ứng vật tư thiết bị, nhưng tối đa không vượt kế hoạch năm được duyệt.

b. Đối với các công trình, dự án được sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi:

Khác với các dự án được ngân sách Nhà nước cấp phát, căn cứ vào kế hoạch vốn tín dụng ưu đãi hàng năm, hàng quý được duyệt, cơ quan quản lý ngân sách Nhà nước sẽ chuyển tiền sang Tổng cục đầu tư phát triển để làm nguồn vốn cho vay. Căn cứ kế hoạch vốn hàng quý được Bộ Tài chính duyệt. Tổng cục đầu tư phát triển sẽ thông báo cho cơ quan cấp trên của chủ đầu tư để lập hạn mức vốn cho vay theo từng dự án gửi Tổng cục Đầu tư phát triển. Căn cứ số vốn do ngân sách Nhà nước Trung ương chuyển, Tổng cục đầu tư phát triển sẽ ra thông báo hạn mức vốn được phép vay cho đối tượng được vay.

Các chủ đầu tư để rút được tiền phải ký hợp đồng tín dụng Nhà nước với cơ quan cho vay vốn. Căn cứ hợp đồng tín dụng Nhà nước đã ký, kế hoạch đầu tư cả năm được duyệt và hạn mức cho vay vốn được thông báo, cơ quan cho vay theo chế độ tín dụng ưu đãi sẽ làm thủ tục để cho chủ đầu tư rút vốn vay.

2. Chế độ cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.

2.1. Khái niệm.

Chế độ cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cấp cho doanh nghiệp Nhà nước để góp phần hình thành vốn lưu động trong quá trình sản xuất.

2.2. Nội dung chế độ cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.

2.2.1. Đối tượng được xét cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.

Các đối tượng phải thỏa mãn các điều kiện sau mới được cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.

– Phải là đơn vị sản xuất ra của cải vật chất thực sự cho xã hội tức không phải là đơn vị hoạt động kinh doanh dịch vụ là chủ yếu.

– Phải có quyết định thành lập của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp doanh nghiệp thành lập lại hoặc đã hoạt động từ trước 1989 sau khi sắp xếp lại, thì cũng phải cú quyết định chính thức.

– Phải có công văn đề nghị của cơ quan quản lý cấp trên của doanh nghiệp.

– Phải có biên bản thẩm định của Hội đồng quản trị xác định vốn lưu động định mức cho doanh nghiệp, trong đó phải xác định cụ thể hiệu quả của sản xuất kinh doanh.

2.2.2. Mức được cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.

Đối với các doanh nghiệp quốc doanh mới đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh được duyệt cấp vốn, ngân sách sẽ cấp tối đa không quá 30% tổng số vốn lưu động đã được xác định.

Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động mà được duyệt cấp ngân sách thì ngân sách Nhà nước cũng

cấp tối đa không quá 30% tổng số vốn đã được xác định lại.

2.2.3. Trình tự cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.

Doanh nghiệp, tổ chức kinh tế giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế-xã hội xin cấp vốn lưu động phải được Hội đồng xác định vốn lưu động định mức xác định khả năng và nhu cầu vốn. Hội đồng gồm các đại diện của cơ quan quản lý tài chính về vốn và tài sản cùng cấp, cơ quan thuế, ngân hàng nơi doanh nghiệp mở tài khoản giao dịch chính, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của đơn vị.

Hồ sơ xin cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước phải được bảo đảm chứng minh rõ ràng doanh nghiệp thỏa mãn các điều kiện xét cấp như đã quy định. Căn cứ hồ sơ xét cấp, cơ quan tài chính quản lý doanh nghiệp sẽ xem xét, đề nghị ghi vào kế hoạch ngân sách Nhà nước để cấp vốn. Trên cơ sở kế hoạch ngân sách Nhà nước đã bố trí theo đề nghị của cơ quan tài chính quản lý doanh nghiệp, cơ quan quản lý ngân sách sẽ thực hiện lệnh cấp vốn lưu động cho đơn vị.

Sau khi được ngân sách Nhà nước cấp phát, đơn vị phải chủ động phối hợp với cơ quan quản lý ngân sách doanh nghiệp làm các thủ tục giao nhận và bảo tòan vốn.

3. Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp kinh tế.

3.1. Khái niệm.

Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp kinh tế là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ sử dụng vốn ngân sách Nhà nước chi dùng cho các hoạt động nhằm phục vụ cho yêu cầu sản xuất kinh doanh và tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế và xã hội được tiến hành thuận lợi.

Đặc điểm chung của chế độ chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp kinh tế là không nhằm mục đích trực tiếp kinh doanh lấy lãi.

3.2. Nội dung chế độ chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp kinh tế.

Nguyên tắc chung của việc chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp kinh tế là theo công việc, nhiệm vụ đã được bố trí trong kế hoạch. Đối với chi cho duy trì bộ máy quản lý hành chính của đơn vị thực hiện hoạt động sự nghiệp kinh tế tính được chủ yếu trong nguồn chi về quản lý hành chính của ngân sách Nhà nước.

Do có nhiều loại hình đơn vị như cú loại vừa thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính vừa thực hiện luôn các nghiệp vụ chuyên môn, có loại đơn vị để thực hiện nhiệm vụ được giao phải đi thuê các đơn vị chuyên môn hạch toán riêng thực hiện công vệc… Nên việc cấp phát vốn sự nghiệp kinh tế trong ngân sách Nhà nước thường căn cứ vào loại hình đơn vị hoạt động trong lĩnh vực này. Hiện nay, có hai loại chủ yếu là:

Thứ nhất: Loại hình đơn vị được cấp phát vốn ngân sách Nhà nước theo phương thức gán thu bù chi.

Thứ hai: Loại hình đơn vị được cấp vốn ngân sách Nhà nước theo công việc.

Hiện nay theo chế độ phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước thì nguồn vốn cấp cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế được phân làm hai loại: Nguồn vốn của ngân sách Trung ương và nguồn vốn ngân sách của địa phương.

Các hoạt động sự nghiệp kinh tế thuộc đối tượng cấp phát của ngân sách Trung ương là các hoạt động sự nghiệp kinh tế do các đơn vị Trung ương quản lý thực hiện gồm:

– Công tác định canh, định cư các làng, bản người dân tộc tiểu số;

– Hỗ trợ đưa dân đi và đón dân đến vùng kinh tế mới;

– Công tác đo đạc, xây dựng lưới tọa độ địa chính các cấp và đo vẽ bản đồ địa chính các tỷ lệ, công tác đo vẽ bản đồ quốc gia.

– Công tác điều tra cơ bản tài nguyên thiên nhiên.

– Hoạt động thường xuyên của các đơn vị không hạch toán kinh doanh thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, thủy lợi do các Bộ, ngành, Trung ương quản lý như: giống cây, con, nghiên cứu và bảo vệ động thực vật, vườn ươm, trạm tưới, tiêu, bảo vệ đê điều; kiểm lâm nhân dân, tu bổ rừng do Trung ương quản lý, các khoản chi cho phục vụ mục tiêu khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm,…

– Duy tu, bảo dưỡng đường giao thông, cầu cống, nạo vét kênh rạch, sông biển,… do các đơn vị Trung ương thực hiện.

– Bảo quản dự trữ hàng hóa quốc gia.

Ngân sách địa phương đảm nhiệm chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế do các đơn vị địa phương quản lý thực hiện gồm:

– Hoạt động của các trạm trại nông nghiệp địa phương (không phải là hạch toán kinh tế) về giống cây, con bảo vệ thực vật, thú y…

– Hoạt động của các trạm, đơn vị thủy nông, thủy loại (cả đào đắp kênh mương dẫn phụ, trạm tưới tiêu nước không phải là hạch toán kinh doanh).

– Hoạt động về lâm nghiệp như: vườn ươm cây để trồng rừng, kiểm lâm và bảo vệ rừng do địa phương quản lý.

– Hoạt động về đảm bảo quản lý, hướng dẫn, trợ giúp theo chế độ đối với dân mới đến vùng kinh tế mới…

– Hoạt động về quản lý đất đai địa chính ở địa phương.

– Hoạt động về tu bổ, sửa chữa thường xuyên đường giao thông, quản lý đô thị, nhà ở, ánh sáng công cộng ở địa phương.

4. Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho các hoạt động sự nghiệp văn hóa – xã hội.

Chi cho các sự nghiệp văn hóa – xã hội là khoản chi lớn của ngân sách Nhà nước trong tổng số chi tiêu dựng hàng năm của ngân sách Nhà nước, bao gồm hai nội dung:

Nội dung thứ nhất: là chi bảo đảm các hoạt động sự nghiệp.

Nội dung thứ hai: là chi trợ cấp cho các đối tượng theo những chính sách xã hội của Nhà nước ban hành và trợ cấp quỹ bảo hiểm xã hội, chi thực hiện các chế độ, chính sách đối với các đối tượng mà Nhà nước ưu đãi.

Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho các hoạt động sự nghiệp văn hóa – xã hội bao gồm các khoản chi chủ yếu sau đây:

4.1. Chi về giáo dục và đào tạo:

+ Đối với công tác giáo dục.

Nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí cho giáo dục tiểu học ở các trường công lập (cấp 1); thực hiện chế độ thu học phí từ phổ thông trung học, khuyến khích phát triển và thực hiện chính sách hỗ trợ kinh phí đầu tư cơ sở vật chất cho các trường bán công, trường dân lập, tư thục.

Nhà nước đảm bảo kinh phí cho các chương trình, mục tiêu quốc gia về giáo dục như: xóa lớp học ca 3, chương trình phát triển giáo dục đối với đồng bào dân tộc, phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ cho toàn dân.

Nhà nước hỗ trợ kinh phí để tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các trường lớp, từng bước đưa tin học vào các trường học, hỗ trợ kinh phí cho việc xuất bản sách báo cho thiếu nhi.

+ Đối với công tác đào tạo.

Nhà nước bảo đảm kinh phí cho việc xây dựng cơ sở vật chất, trả lương giáo viên cho các trường đại học, các trường trung học chuyên nghiệp và cao đẳng do Nhà nước mở. Chính sách học bổng học sinh, sinh viên phải gắn với kết quả học tập và chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với các học sinh thuộc đối tượng chính sách xã hội.

Đối với đào tạo lại, nguồn kinh phí là của các cơ quan, doanh nghiệp, Nhà nước không cấp kinh phí cho hoạt động dạy nghề mà nguồn kinh phí được thực hiện trên cơ sở đóng góp trực tiếp của các doanh nghiệp và cá nhân.

4.2. Chi về y tế.

Nhà nước thực hiện chi ngân sách cho các hoạt động y tế theo phạm vi sau đây:

– Thực hiện nâng cấp một số bệnh viện có tính chất đầu ngành.

– Triển khai các chương trình quốc gia về lĩnh vực y tế như tiêm chủng mở rộng, phòng chống HIV và AIDS, chống các bệnh bướu cổ, sốt rét, bại liệt.

– Tăng cường và củng cố các cơ sở y tế ở các địa bàn vùng núi cao, hải đảo, biên giới, vùng căn cứ cách mạng, hỗ trợ ngân sách cho các y bác sĩ làm việc ở nơi khó khăn.

Nhà nước bảo đảm chi phí phòng khám, chữa bệnh cho các đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi.

4.3. Chi phát triển sự nghiệp văn hóa, thông tin, báo chí…

Nhà nước thực hiện phương châm từng bước đổi mới việc đầu tư cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, tuyên truyền, báo chí, thể dục thể thao, phục vụ chính trị. Việc cấp phát cho các hoạt động này được thực hiện theo nguyên tắc Nhà nước đặt hàng và tài trợ kinh phí. Để tăng cường khả năng hạch toán hoặc tự thu đảm bảo chi của các đơn vị chuyên nghiệp, ngân sách Nhà nước chỉ đảm bảo cho hoạt động có tính chất thường xuyên của mình, tập trung đầu tư cho các mục tiêu và chương trình Quốc gia trong đó các khoản chi quan trọng là:

+ Bố trí bảo đảm kinh phí sóng phát thanh và truyền hình trong cả nước.

+ Bố trí đảm bảo kinh phí cho chương trình trùng tu di tích lịch sử – văn hóa có tính chất Quốc gia, chương trình đưa văn hóa thông tin và thê thao về cơ sở, đào tạo tài năng thể thao cho đất nước;

+ Tiến tới Nhà nước chỉ trợ cấp cho những nhu cầu tuyên truyền phục vụ chính trị.

+ Thay đổi phương thức trợ giá đối với các hoạt động phim ảnh không mang tính chất kinh doanh theo hình thức đặt hàng của Nhà nước.

+ Thực hiện khấu trừ phần kinh phí của ngân sách Nhà nước cấp cho phát thanh và truyền hình trên phần thu về quảng cáo, dịch vụ, lệ phí….

4.4. Chi về nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ.

Thực hiện quan điểm phát triển khoa học và công nghệ là sự nghiệp của toàn dân, cơ sở sản xuất kinh doanh là người sử dụng cuối cùng kết quả nghiên cứu khoa học; do đó họ phải là người bảo trợ cho sự nghiệp khoa học và công nghệ. Nhà nước bố trí kinh phí của ngân sách Nhà nước bảo đảm chế độ lương cho cán bộ nghiên cứu khoa học thuộc các ngành khoa học xã hội, khoa học cơ bản và nghiên cứu kỹ thuật.

Từng bước Nhà nước thực hiện chi tiền lương cho cán bộ khoa học gắn với đề tài khoa học.

Đối với chi phí cho các đề tài khoa học cấp Nhà nước, Nhà nước chỉ bảo đảm kinh phí cho các đề tài khoa học của cấp Bộ thuộc các lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và khoa học cơ bản. Các đề tài gắn với ứng dụng thực tế vào sản xuất kinh doanh thì thực hiện cơ chế ký hợp đồng giữa cơ sở nghiên cứu với các đơn vị sản xuất kinh doanh.

Thực hiện chế độ thu hồi kinh phí từ các công trình nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ sản xuất do ngân sách Nhà nước cấp và tập trung vào ngân sách Nhà nước để trên cơ sở đó thành lập “Quỹ khuyến khích phát triển sự nghiệp nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ mới”.

4.5. Chi cấp xã hội và trợ cấp quỹ bảo hiểm xã hội.

Nhà nước thực hiện phương châm xóa bao cấp qua bảo hiểm xã hội đối với các doanh nghiệp và người lao động phát triển Quỹ bảo hiểm xã hội để quỹ này hoàn toàn trở thành quỹ Bảo hiểm xã hội chung cho mọi người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế và dân cư, tiến tới đảm bảo tự thu chi.

5. Chế độ chi về an ninh, quốc phòng.

Chi ngân sách Nhà nước cho an ninh, quốc phòng là một khoản chi có tính chất tuyệt mật kể cả nội dung chi và số chi.

Theo nguyên tắc chung, chi cho quốc phòng và an ninh bao gồm các khoản chi về lương, tiền ăn của sĩ quan và chiến sĩ thuộc bộ máy thường trực, chi về trang thiết bị và các hoạt động của bộ máy đó để thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên, chi về xây dựng cơ sở vật chất như trụ sở, doanh trại…

Ngoài ra còn bao gồm các khoản chi để thực hiện các chính sách đối với các quân nhân như: Quỹ lập mồ mã của các liệt sĩ, chi thực hiện chế độ xuất ngũ, chuyển ngành, tuyển quân…

Riêng chi về các hoạt động dân quân du kích trong ngân sách Nhà nước được tách riêng và do ngân sách của các địa phương đảm nhiệm.

Do điều kiện riêng của nước ta, để đảm bảo thêm nhu cầu chi tiêu của mình, hệ thống quân đội và công an còn có các đơn vị chuyên làm nhiệm vụ kinh tế, tự sản xuất và kinh doanh nhằm tự trang trải thêm các nhu cầu chi của ngành, đồng thời luôn đảm bảo quân số chi cần thiết. ngân sách Nhà nước chỉ cấp vốn ban đầu cho các đơn vị này để họ có đủ khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh.

6. Chế độ chi hoạt động quản lý Nhà nước.

Trong chi ngân sách Nhà nước, chi quản lý Nhà nước chiếm tỷ trọng không lớn nhưng hết sức cần thiết để duy trì hoạt động thường xuyên của bộ máy Nhà nước. Chi quản lý Nhà nước là chi của ngân sách Nhà nước nhằm đảm bảo hoạt động của bộ máy Nhà nước, không bao gồm chi xây dựng cơ bản.

Trên cơ sở xác định khái niệm chi ngân sách Nhà nước cho hoạt động quản lý Nhà nước có thể diễn đạt khái niệm chi ngân sách Nhà nước cho hoạt động quản lý Nhà nước như sau:

Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho hoạt động quản lý Nhà nước là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ sử dụng vốn ngân sách Nhà nước chỉ dùng cho các hoạt động của bộ máy Nhà nước, không bao gồm chi về xây dựng cơ bản.

Nội dung cơ bản của khoản chi này, cũng như các khoản chi sự nghiệp khác, bao gồm chi về lương và các khoản có tính chất lương, chi phí để thực hiện công việc quản lý hành chính, chi mua sắm tài sản cố định và trang thiết bị để phục vụ công tác quản lý hành chính (coi như tài sản cố định), chi sửa chữa lớn và sửa chữa thường xuyên trụ sở cơ quan, ô tô, trang thiết bị, chi hội nghị, chi các đoàn ra nước ngoài và đón các đoàn khách nước ngoài…

Trong một nội dung chi của ngân sách Nhà nước về quản lý Nhà nước của nước ta hiện nay, ngoài các đối tượng là cơ quan chức năng quản lý Nhà nước còn có các khoản chi khác.

Theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước, Nhà nước bảo đảm cân đối kinh phí hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội. Kinh phí hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc tự bảo đảm, ngân sách Nhà nước chỉ tài trợ trong một số trường hợp cụ thể theo quy định của Chính phủ. Các khoản chi này cũng được coi là chi ngân sách Nhà nước về quản lý Nhà nước.

7. Nội dung pháp lý các khoản chi khác của ngân sách Nhà nước.

7.1. Chi ngân sách Nhà nước để trả nợ nước ngoài.

Bộ Tài chính chịu trách nhiệm quản lý về vay và trả nợ phần vay của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý về vay và trả nợ nước ngoài phần vay của các doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp đi vay vốn nước ngoài phải được Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước chấp thuận các điều kiện vay, trả , trên cơ sở quyết định của Thủ tướng Chính phủ mới được tiến hành đi vay.

Chi ngân sách Nhà nước để trả nợ nước ngoài được thực hiện dưới hai hình thức: trả tiền hoặc trả bằng hiện vật, trong đó trả bằng hiện vật được ưu tiên nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước.

7.2. Chi trả nợ, lãi công trái, trái phiếu,  tín phiếu kho bạc Nhà nước.

Hiện nay trong ngân sách Nhà nước có hai khoản tiền chi trả về tiền vay trong nước là trả nợ công trái quốc gia phát hành những năm trước đây và chi trả lãi tiền vay bằng tín phiếu kho bạc Nhà nước và trái phiếu. Việc tiến hành các nghiệp vụ chi trả cụ thể hiện nay do kho bạc Nhà nước thực hiện.

Đối với trả nợ tín phiếu, nguyên tắc chi trả là trước mắt, ngân sách Nhà nước chỉ tạm thời bố trí chi trả nợ tiền vay, còn nợ gốc sẽ dùng hình thức vay mới trả cũ, động viên nhân dân yêu cầu vẫn phải bố trí trả kịp thời. Sau này khi nguồn thu của ngân sách Nhà nước khá hơn, sẽ bố trí trả dần tiền gốc vay

7.3. Chế độ chi trợ giá.

Trong chế độ chi ngân sách Nhà nước có khoản chi trợ giá cho một số mặt hàng thiết yếu mà còn việc sản xuất, tiêu dùng gắn với việc thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội của Nhà nước.

Hàng hóa được ngân sách Nhà nước trợ cấp giá bao gồm:

– Các mặt hàng thiết yếu cho miền núi, vùng cao, vùng sâu có khó khăn như muối i ốt, dầu thắp sáng, giấy viết, thuốc chữa bệnh;

– Các mặt hàng thuộc diện chính sách giữ giống gốc quốc gia, sách báo chính trị phục vụ công tác tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.

– Nhà nước trợ giá cước vận chuyển các mặt hàng thiết yếu cho miền núi, hải đảo.

 

Chương VI – Pháp luật về ngân sách của doanh nghiệp

I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NGÂN SÁCH CỦA DOANH NGHIỆP:

1. Khái niệm:

Ngân sách doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động và chuyển hóa các nguồn ngân sách trong quá trình phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt tới những mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong khuôn khổ cho phép của pháp luật.

Về bản chất, ngân sách doanh nghiệp là một loại quan hệ tạo lập phân phối sử dụng của cải dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

2. Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật đối với ngân sách của doanh nghiệp.

Trong quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế, hoạt động ngân sách của doanh nghiệp đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng pháp luật.

– Xuất phát từ vai trò và vị trí hoạt động ngân sách doanh nghiệp có ảnh hưởng đến sự chuyển dịch một phần của cải xã hội đòi hỏi Nhà nước phải có cách thức tác động có hiệu quả nhất lên hoạt động này, Pháp luật chính là công cụ có hiệu quả đáp ứng được yêu cầu đó.

– Trong nền kinh tế thị trường, phần lớn các quan hệ ngân sách giữa các doanh nghiệp đòi hỏi phải thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng. Pháp luật với những quy định cụ thể là cơ sở để bảo đảm thực hiện yêu cầu đó.

– Quan hệ ngân sách giữa doanh nghiệp với ngân sách Nhà nước làm thay đổi tình trạng pháp lý đối với một khối lượng của cải vật chất nhất định . Việc thay đổi này không thể tùy tiện mà cần phải có sự can thiệp của Pháp luật thông qua các quy phạm pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp với ngân sách Nhà nước.

II. NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI NGÂN SÁCH DOANH NGHIỆP.

Nội dung điều chỉnh chủ yếu của pháp luật đối với hoạt động ngân sách trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh – một loại hình doanh nghiệp điển hình và phổ biến nhất trong các loại hình doanh nghiệp được thể hiện ở các mặt sau đây:

1. Chế độ huy động và sử dụng vốn, tài sản doanh nghiệp:

1.1. Vốn trong doanh nghiệp và các đặc trưng của nó:

Để tiến hành bất cứ một quá trình sản xuất kinh doanh nào, doanh nghiệp cũng cần phải có vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết có ý nghĩa quyết định đến các bước tiếp theo của quá trình kinh doanh.

Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và vô hình được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi. Vốn kinh doanh trong doanh nghiệp là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh chứ không để tiêu dùng. Vốn kinh doanh phải có trước khi diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn kinh doanh sau khi ứng ra được sử dụng vào kinh doanh và sau một chu kỳ hoạt động phải được thu về để ứng tiếp cho chu kỳ hoạt động tiếp theo.

1.2. Chế độ huy động vốn của doanh nghiệp.

Vốn kinh doanh của một doanh nghiệp được huy động, khai thác từ những nguồn vốn sau:

1.2.1. Nguồn vốn thuộc sở hữu chủ:

Đây là nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp. Đối với các loại hình doanh nghiệp khác nhau, nguồn hình thành nguồn vốn này cũng khác nhau.

Theo quy định của pháp luật, để được kinh doanh trong một lĩnh vực cụ thể, nguồn vốn này phải đạt đến một mức độ nhất định.

Các doanh nghiệp thường xác định quy mô nguồn vốn chủ sở hữu ở mức vừa phải để vừa tranh thủ các khoản nợ, làm tăng mức doanh lợi vốn và vừa san sẻ rủi ro trong kinh doanh.

1.2.2. Các nguồn vốn tín dụng:

Vốn từ nguồn tín dụng là các khoản vốn mà doanh nghiệp có thể huy động dưới hình thức vay của các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, hoặc các tổ chức tài chính trung gian khác và cũng có thể bằng hình thức doanh nghiệp phát hành trái phiếu để huy động vốn cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.

Những hình thức tín dụng điển hình hiện nay bao gồm:

– Tín dụng ứng tiền qua tài khoản,

– Tín dụng cầm cố hoặc thế chấp tài sản.

– Tín dụng có bảo lãnh.

– Tín dụng thông qua chiết khấu.

– Tín dụng thương mại…

Hình thức tín dụng ứng tiền qua tài khoản thường được áp dụng trong trường hợp giữa người cho vay và người đi vay đã hoàn toàn tin tưởng lẫn nhau, và người đi vay phải có tài khoản tại một ngân hàng nhất định, vì thế uy tín của người đi vay là điều kiện thay cho việc bảo lãnh hoặc cầm cố, thế chấp tài sản.

Tín dụng thương mại cũng là một hình thức tín dụng khá phổ biến. Khác với tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại là khoản vay tương đương với giá trị hàng hóa mua bán chịu giữa người mua và người bán.

Theo quy định của pháp luật các doanh nghiệp thỏa mãn các điều kiện của pháp luật sẽ được vay vốn ở các tổ chức tín dụng trên cơ sở giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng.

Tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn, các doanh nghiệp có thể được vay vốn theo các kỳ hạn khác nhau như ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Nguồn vốn tín dụng ngắn hạn đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động của các doanh nghiệp trong kinh doanh.

Nguồn vốn tín dụng trung hạn và dài hạn đáp ứng nhu cầu về vốn của doanh nghiệp để mua sắm tài sản cố định, sửa chữa mới, mở rộng quy mô thiết bị, máy móc, dây chuyền công nghệ trong sản xuất kinh doanh.

Ngoài ra, doanh nghiệp có thể được vay vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển để xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp các công trình xây dựng cơ bản trong sản xuất, kinh doanh.

1.3. Chế độ xây dựng và bảo toàn vốn, tài sản doanh nghiệp:

1.3.1. Vốn cố định của doanh nghiệp có thể bổ sung phần vốn cố định của phân loại:

Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của vốn cố định gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là tài sản cố định. Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu, mà đặc điểm của chúng là tham gia vào chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, giá trị của tài sản cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá thành sản phẩm của các chu kỳ sản xuất tiếp theo.

Nếu phân chia theo hình thái vật chất, tài sản cố định có hai loại là tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.

Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhìn chung tài sản cố định không bị thay đổi hình thái hiện vật nhưng năng lực sản xuất và giá trị của chúng bị giảm dần, tức là tài sản cố định bị hao mòn. Có hai loại hao mòn: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.

Những tài sản cố định có hình thái vật chất thường bị cả hai loại hao mòn, còn những tài sản cố định có hình thái vật chất thì chỉ bị hao mòn vô hình.

Bộ phận giá trị đại diện cho phần hao mòn được gọi là khấu hao. Tiền khấu hao là một yếu tố chi phí sản xuất, một bộ phận của giá thành sản phẩm. Khi sản phẩm được tiêu thụ, tiền khấu hao được trích lại để hình thành quỹ khấu hao.

Quỹ khấu hao dùng để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định nên người ta còn gọi là quỹ khấu hao cơ bản.

Trong nền kinh tế có nhiều loại hình doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu khác nhau. Do đó, sự điều chỉnh của pháp luật đối với quá trình tạo lập, quản lý, sử dụng và định đoạt vốn cố định của các loại hình doanh nghiệp có sự khác nhau.

Xuất phát từ quyền sở hữu của Nhà nước nên các quy định của pháp luật về quá trình tạo lập, quản lý, sử dụng và định đoạt vốn cố định của các doanh nghiệp Nhà nước chặt chẽ hơn so với các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

1.3.2. Chế độ sử dụng và bảo toàn vốn lưu động của doanh nghiệp:

Doanh nghiệp phải có kế hoạch sử dụng và những giải pháp bảo toàn, phát triển vốn lưu động. Bảo toàn vốn lưu động là bảo toàn được giá trị thực của vốn, bảo đảm được sức mua của vốn không bị giảm sút so với ban đầu.

1.3.3. Vốn đầu tư ngân sách có thể kết hợp với phần phân loại vốn:

Trong nền kinh tế thị trường, hướng đầu tư của một doanh nghiệp không chỉ khép kín, giới hạn trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp mà còn có thể đầu tư một bộ phận vốn kinh doanh của doanh nghiệp được đầu tư dài hạn bên ngoài nhằm mục đích sinh lời, được gọi là đầu tư ngân sách của doanh nghiệp.

Đầu tư ngân sách của doanh nghiệp ra bên ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận và bảo đảm an toàn về vốn. Có nhiều hình thức đầu tư ngân sách ra bên ngoài như: doanh nghiệp bỏ vốn để mua cổ phiếu, trái phiếu của các doanh nghiệp khác, hùn vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác.

Trong nhiều trường hợp, nhờ đầu tư ngân sách ra bên ngoài mà doanh nghiệp có thể tự tháo gỡ được nguy cơ phá sản, giải tỏa cho hướng đầu tư đang bế tắc. Song điều quan trọng nhất khi đi tới quyết định đầu tư ngân sách ra bên ngoài là doanh nghiệp phải cân nhắc độ an toàn và tin cậy của dự án.

Đầu tư ngân sách của doanh nghiệp ra bên ngoài là một bộ phận của quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Tất cả các loại hình doanh nghiệp đều có quyền này. Tuy vậy, điều kiện để thực hiện quyền đầu tư ngân sách được pháp luật quy định cho mỗi loại hình doanh nghiệp có khác nhau.

2. Chế độ quản lý chi phí và giỏ thành:

2.1. Khái niệm về chi phí:

Chi phí của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các hao phí vật chất và lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.

Chi phí của doanh nghiệp bao gồm chi phí hoạt động kinh doanh và chi phí hoạt động khác.

Chi phí hoạt động kinh doanh bao gồm các chi phí có liên quan đến quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí nguyên, nhiên, vật liệu; khấu hao tài sản cố định, tiền lương, chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác.

Chi phí hoạt động khác bao gồm các chi phí cho việc mua bán trái phiếu, tín phiếu, cổ phiếu, chi phí cho thuê tài sản, chi phí cho hoạt động liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, chi phí cho việc thu hồi các khoản nợ đã xóa, chi phí để thu tiền phạt và các khoản chi phí khác.

2.2. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động quản lý chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:

Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay có nhiều loại hình doanh nghiệp. Tùy thuộc vào tính chất sở hữu và đặc điểm của mỗi loại hình doanh nghiệp mà sự điều chỉnh của pháp luật có sự khác nhau đối với hoạt động quản lý chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, việc quản lý chi phí sản xuất kinh doanh chủ yếu xuất phát từ lợi ích của chính họ theo nguyên tắc tự chủ và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả kinh doanh, pháp luật chỉ quy định chế độ quản lý chi phí kinh doanh liên quan đến việc xác định các khoản phải nộp mà họ có nghĩa vụ thực hiện với Nhà nước như thuế, phí, lệ phí…

Xuất phát từ lợi ích kinh tế trực tiếp của Nhà nước ở các doanh nghiệp mà Nhà nước có sự tham gia, đầu tư góp vốn, Nhà nước quy định chặt chẽ chế độ quản lý chi phí sản xuất kinh doanh được áp dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp này.

Chi phí hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có sự tham gia đầu tư góp vốn của Nhà nước gồm:

– Chi phí nguyên liệu, vật liệu: Là giá trị của toàn bộ nguyên liệu, vật liệu doanh nghiệp sử dụng vào hoạt động kinh doanh.

– Chi phí nhiên liệu, động lực: Là giá trị của toàn bộ nhiên liệu, động lực doanh nghiệp đã sử dụng vào hoạt động kinh doanh.

– Tiền lương: Là toàn bộ tiền lương doanh nghiệp phải trả.

– Các khoản trích nộp theo quy định của Nhà nước như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn.

– Khấu hao tài sản cố định: Là số khấu hao trích theo quy định đối với toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp.

– Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là các chi phí trả cho tổ chức, cá nhân ngoài doanh nghiệp về các dịch vụ được thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiệp như vận chuyển, điện nước, diện thoại, sửa chữa tài sản cố định, tư vấn, kiểm toán, quảng cáo, bảo hiểm tài sản, đại lý, môi giới, ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu và các dịch vụ khác.

– Chi phí khác bằng tiền: bao gồm: Thuế môn bài, thuế sử dụng đất hoặc tiền thuê đất, thuế tài nguyên, thuế nhà đất, chi tiếp dân, giao dịch, chi phí bảo hộ lao động, chi trả tiền vay vốn kinh doanh; khoản trích nộp hình thành nguồn chi phí quản lý cho cấp trên; phí hiệp hội ngành nghề mà doanh nghiệp là thành viên tham gia và các chi phí khác.

– Các khoản chi phí khác doanh nghiệp được phép tính vào chi phí kinh doanh:

+ Chi phí dự phòng.

+ Trợ cấp thôi việc cho người lao quy định của pháp luật lao động.

Các chi phí hoạt động khác của doanh nghiệp Nhà nước bao gồm:

Các khoản chi phí cho việc mua bán trái phiếu, tín phiếu, cổ phiếu, chi phí cho thuê tài sản cố định, chi phí cho hoạt động liên doanh, góp vốn cổ phần; chi phí cho việc thu hồi các khoản nợ đã xóa, chi phí để thu tiền phạt, giá trị còn lại và chi phí thanh lý nhượng, bán tài sản cố định; các khoản chi nộp phạt vi phạm hợp đồng, nộp phạt nợ quá hạn và các khoản chi phí khác.

Các Doanh nghiệp thuộc loại hình trên không được hạch toán vào chi phí hoạt động kinh doanh, chi phí hoạt động khác các khoản chi sau:

– Các khoản lỗ do liên doanh, liên kết, lỗ từ các hoạt động đầu tư khác.

– Các khoản thiệt hại được chính phủ trợ cấp hoặc bên gây thiệt hại, các công ty bảo hiểm bồi thường.

– Chi phí đi công tác nước ngồi vượt định mức chi do Nhà nước quy định.

– Các khoản chi thuộc nội dung chi của kinh phí sự nghiệp, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng.

– Các khoản chi trợ cấp khó khăn thường xuyên, đột xuất.

– Các khoản chi thường trực như: thưởng năng suất, thưởng sáng kiến, thưởng tiết kiệm, thưởng thi đua (các khoản thưởng này lấy trong quỹ tiền thưởng của doanh nghiệp).

– Chi về ăn trưa (nếu có).

– Chi ủng hộ địa phương, đoàn thể, tổ chức xã hội, cơ quan khác.

– Chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi mua sắm tài sản cố định, các khoản chi đầu tư khác.

– Chi cho chuyên gia ohục vụ công trình xây dựng cơ bản hoặc các công trình nghiên cứu khoa học, đào tạo thuộc kinh phí khác đài thọ.

– Các khoản chi thuộc các nguồn kinh phí sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước, xuất phát từ lợi ích của mình mà Nhà nước quy định chặt chẽ chế độ xác định giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ. Nội dung của chế độ này thể hiện trên các mặt:

Thứ nhất, giá thành sản xuất của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ gồm:

a. Chi phí vật tư trực tiếp: là chi phí nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu sử dụng trực tiếp để tạo ra sản phẩm, lao vụ, dịch vụ.

b. Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm: tiền lương, tiền công, các khoản trích nộp doanh nghiệp phải nộp theo quy định của công nhân trực tiếp hoạt động kinh doanh.

c. Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là các chi phí cho bộ máy quản lý của doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: chi phí công cụ lao động nhỏ, khấu hao tài sản cố định phục vụ bộ máy quản lý doanh nghiệp, tiền lương, các khoản trích nộp theo quy định của bố máy quản lý doanh nghiệp, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền phát sinh ở doanh nghiệp như chi phí tiếp dân, giao dịch, các khoản dự phòng, khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định của Bộ luật lao động, khoản trích nộp để hình thành nguồn chi phí quản lý cho cấp trên và các khoản chi phí khác.

3. Chế độ phân phối lợi nhuận doanh nghiệp:

3.1. Khái niệm lợi nhuận của doanh nghiệp.

Kết thúc quá trình sản xuất, sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường, doanh nghiệp thu được một khoản tiền bán hàng. Đó là doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Thông thường doanh thu của một doanh nghiệp bao gồm doanh thu tiêu thụ sản phẩm và doanh thu từ các hoạt động khác.

Đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, doanh thu là cơ sở để xác định thu nhập của doanh nghiệp (thu nhập của doanh nghiệp = doanh thu – chi phí). Còn trong một số trường hợp thu nhập của doanh nghiệp là các khoản tiền mà doanh nghiệp thụ hưởng theo quy định của pháp luật.

Phần chênh lệch giữa thu nhập và toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra tương ứng được gọi là lợi nhuận của doanh nghiệp.

Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.

3.2. Chế độ phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp:

Tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế Nhà nước quy định chế độ phân phối lợi nhuận sao cho phù hợp với tính chất sở hữu của doanh nghiệp.

Trong số các loại hình doanh nghiệp, hoạt động phân phối lợi nhuận của các doanh nghiệp Nhà nước chịu sự điều chỉnh chi tiết và chặt chẽ của pháp luật.

Theo quy định của bản quy chế quản lý ngân sách và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo nghị định số 59/CP ngày 03 tháng 10 năm 1996 của Chính phủ, lợi nhuận thực hiện trong năm của doanh nghiệp Nhà nước được phân phối theo thứ tự sau:

1. Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

2. Nộp tiền thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước.

3. Trừ các khoản tiền nộp vi phạm hợp đồng, vi phạm hành chỉnh, kỷ luật ngân sách, các khoản chi phí hợp lệ chưa được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế phải nộp.

4. Trừ các khoản lỗ chưa được trừ vào lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp.

5. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh trong một số ngành đặc thù mà pháp luật quy định phải được trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi nhuận sau khi trích nộp các khoản 1, 2, 3, 4 trên đây, doanh nghiệp trích lập các quỹ theo tỷ lệ quy định.

Phần lợi nhuận của doanh nghiệp Nhà nước sau khi trừ các khoản trên đây, doanh nghiệp Nhà nước được trích lập các quỹ theo tỷ lệ:

– Quỹ đầu tư phát triển: mức trích tối thiểu 50%.

– Quỹ dự phòng tài chính: trích 10% số dư của quỹ này tối đa không vượt quá 25% vốn điều lệ.

– Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm: trích 5%, mức tối đa không vượt quá 6 tháng lương thực hiện.

– Phần lợi nhuận còn lại sau khi trích đủ các quỹ trên doanh nghiệp Nhà nước được trích quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng theo quy định.

Ngoài ra các quy định về trật tự phân phối và tỷ lệ phân phối để lập các quỹ. Nhà nước còn quy định cụ thể mục đích sử dụng các loại quỹ của doanh nghiệp Nhà nước.

4. Nghĩa vụ ngân sách của doanh nghiệp đối với Nhà nước:

Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có nghĩa vụ nộp thuế và các khoản nộp bắt buộc khác cho Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Hiện nay, theo quy định của pháp luật, các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ ngân sách đối với Nhà nước chủ yếu dưới hình thức thuế.

Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, ngoài thuế là khoản nộp bắt buộc còn có nghĩa vụ nộp các khoản nộp bắt buộc khác theo quy định của pháp luật.

đánh giá bài viết

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền