Chủ quyền là quyền làm chủ tuyệt đối của mỗi quốc gia. Chủ quyền của mỗi quốc gia ven biển (có biển) là quyền tối cao, tuyệt đối được thực hiện trong phạm vi do luật pháp quốc tế cũng như pháp luật của mỗi quốc gia có biển đã quy định. Trong phạm vi bài viết này, tác gia đi sâu phân tích về quyền tài phán của quốc gia ven biển trên cơ sở quy định của pháp luật Việt Nam.
Những nội dung liên quan:
Mục lục:
- Quyền tài phán là gì?
- Quyền tài phán bao gồm?
- Quyền tài phán của quốc gia ven biển theo quy định của pháp luật Việt Nam
Quyền tài phán là gì?
Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển trong việc đưa ra các quyết định, quy phạm và giám sát việc thực hiện mọi hoạt động trên biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia mình như: cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số hoạt động cụ thể, các đạo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó, điều đó được quy định cụ thể tại Công ước của Liên hợp quốc về luật Biển năm 1982 (Công ước năm 1982).
Quyền tài phán bao gồm?
Theo quy định tại Công ước năm 1982, quyền tài phán của quốc gia trên biển bao gồm:
- Thứ nhất, quyền tài phán của quốc gia trong nội thủy
- Thứ hai, quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng lãnh hải
- Thứ ba, quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng tiếp giáp lãnh hải
- Thứ tư, quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế
- Thư năm, quyền tài phán của quốc gia ven biển trong thềm lục địa
Quyền tài phán của quốc gia ven biển theo quy định của pháp luật Việt Nam
Đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, khoản 2 Điều 33 Công ước năm 1982 xác định: Vùng Tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải. Căn cứ Công ước năm 1982, Luật Biển Việt Nam năm 2012 quy định: “Vùng Tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải (Điều 13). Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và các quyền khác quy định tại Điều 16 (quy định về chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế) của Luật này đối với vùng Tiếp giáp lãnh hải. Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng Tiếp giáp lãnh hải nhằm ngăn ngừa và trừng trị hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam (Điều 14)”.
Điều 16 Luật Biển Việt Nam năm 2012 xác định chế độ pháp lý của vùng Đặc quyền kinh tế như sau: (1) Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế; Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với pháp luật quốc tế; (2) Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Luật này và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam; (3) Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, hợp đồng được ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan; (4) Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển quy định tại Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều 17 (quy định về thềm lục địa) và Điều 18 (quy định về chế độ pháp lý của thềm lục địa) của Luật này.
Điều 17 Luật Biển Việt Nam năm 2012 quy định: Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét.
Điều 18 Luật Biển Việt Nam năm 2012 quy định về chế độ pháp lý như sau: (1) Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai thác tài nguyên; (2) Quyền chủ quyền quy định tại khoản 1 Điều này có tính chất đặc quyền, không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm lục địa hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa nếu không có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam; (3) Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa; (4) Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam theo quy định của Luật này và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam; (5) Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa của Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, hợp đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan.
Bên cạnh đó, kế thừa quy định tại Điều 27 và 28 Công ước năm 1982, Luật Biển Việt Nam năm 2012 đã có những quy định cụ thể về quyền tài phán hình sự và dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài đối với vùng biển thuộc quyền tài phán của Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, quyền tài phán hình sự đối với tàu thuyền nước ngoài
Trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền tiến hành các biện pháp để bắt người, điều tra đối với tội phạm xảy ra trên tàu thuyền nước ngoài sau khi rời khỏi nội thủy và đang đi trong lãnh hải Việt Nam.
Đối với tội phạm xảy ra trên tàu thuyển nước ngoài đang đi trong lãnh hải Việt Nam nhưng không phải ngay sau khi rời khỏi nội thủy Việt Nam, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền tiến hành bắt người, điều tra đối với các trường hợp: (i) Hậu quả của việc phạm tội ảnh hưởng đến Việt Nam; (ii) Việc phạm tội có tính chất phá hoạt hòa bình của Việt Nam hay trật tự trong lãnh hải Việt Nam; (iii) Thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu thuyền mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam; (iv) Để ngăn chặn hành vi mua bán người, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được tiến hành bất kỳ biện pháp nào trên tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh hải Việt Nam để bắt giữ người hay điều tra việc phạm tội đã xảy ra trước khi tàu thuyền đó đi vào lãnh hải Việt Nam nếu như tàu thuyền đó xuất phát từ một cảng nước ngoài và chỉ đi trong lãnh hải mà không đi vào nội thủy Việt Nam, trừ trường hợp cần ngăn ngừa, hạn chế ô nhiễm môi trường biển hoặc để thực hiện quyền tài phán quốc gia theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, quyền tài phán dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được buộc tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh hải phải dừng lại hoặc thay đổi hành trình chỉ vì mục đích thực hiện quyền tài phán dân sự đối với cá nhân đang ở trên tàu thuyền đó.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được tiến hành các biện pháp bắt giữ hay xử lý về mặt dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài đang đi trong vùng biển Việt Nam, trừ nội thủy, trừ trường hợp việc thi hành các biện pháp này liên quan đến nghĩa vụ đã cam kết hay trách nhiệm dân sự mà tàu thuyền phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được đi qua vùng biển Việt Nam.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có thể áp dụng các biện pháp bắt giữ hay xử lý tàu thuyền nước ngoài nhằm mục đích thực hiện quyền tài phán dân sự nếu tàu thuyền đó đang đậu trong lãnh hải hoặc đi qua lãnh hải sau khi rời khỏi nội thủy Việt Nam.
Như vậy, về cơ bản, Luật Biển Việt Nam đã dựa trên cơ sở của Luật Biển quốc tế để đưa ra những cách xác định các vùng biển hợp lý nhất, đảm bảo lợi thế và quyền của Việt Nam là tối đa nhất trong khuôn khổ được cộng đồng quốc tế công nhận, từ đó ta thấy, Luật biển năm 1982 chính là Công ước chung cho tất cả các chủ thể của Luật Quốc tế và là căn cứ, chế định pháp lý cơ bản để các nhà làm luật đưa ra những quy định cụ thể cho tình hình Việt Nam. Sự tương thích về nội thủy và lãnh hải ở đây là rất lớn, bởi các quy định của Luật biển Việt Nam năm 2012 đều căn cứ trên các quy định của Công ước quy định về nội thủy và lãnh hải. Tuy nhiên, hiện nay tình hình Biển Đông có nhiều vấn đề phức tạp, các nước có biểu hiện không thực thi Công ước năm1982, tàu thuyền các nước đi vào các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán…đã có những hành vi vi phạm pháp luật của quốc gia ven biển, trong đó có Việt Nam. Hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí, đánh bắt hải sản trái phép, xâm phạm kinh tế biển Việt Nam. Do vậy, thời gian tới cần phải ban hành Luật Kinh tế biển Việt Nam để xây dựng một khung pháp lý cho các hoạt động trên biển, yêu cầu các quốc gia cần tuân thủ thực thi các chế độ pháp luật của Việt Nam theo đúng quy chế mà các quốc gia đã ký kết.
Các tìm kiếm liên quan đến Quyền tài phán của quốc gia ven biển theo quy định của pháp luật Việt Nam, quyền tài phán hình sự của quốc gia ven biển, quyền tài phán trong vùng nội thủy, luật biển việt nam, các quốc gia khác có quyền gì ở vùng lãnh hải của quốc gia ven biển, theo công ước luật biển năm 1982, vùng biển nào thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển?, quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế, luật biển 1982 vùng biển việt nam, biên giới trên biển của việt nam
Để lại một phản hồi