Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp quy định tại Điều 179 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tương ứng Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước BLHS 1999.
Các nội dung liên quan:
- Tội cưỡng đoạt tài sản
- Tội chiếm giữ trái phép tài sản
- Tội sử dụng trái phép tài sản
- Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
- Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản
>>> Xem thêm: Các tội xâm phạm sở hữu tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
Điều 165. Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây thiệt hại từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác;
Bình luân:
1. Khái niệm
Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước được hiểu là hành vi của người có nhiệm vụ vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước cơ quan tổ chức doanh nghiệp tập đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các biện pháp quản lý tài sản thuộc trách nhiệm quản lý trực tiếp của mình là mất mát hư hỏng ảnh lãng phí gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước Cơ quan tổ chức doanh nghiệp.
2. Các yếu tố cấu thành tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước
2.1. Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau:
a) Về hành vi.
– Có hành vi không thực hiện (không hành động) hoặc thực hiện không đầy đủ các biện pháp quản lý tài sản của Nhà nước thuộc trách nhiệm quản lý trực tiếp của mình.
Ví dụ: thủ kho quên không khóa cửa kho để kẻ trộm vào lấy tài sản của Nhà nước.
Tài sản bị mất mát, hư hỏng, lãng phí phải thu sự quản lý trực tiếp của người phạm tội như thủ kho thủ quỹ hoặc người khác được giao nhiệm vụ quản lý trực tiếp tài sản.
– Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi không thực hiện đầy đủ các biện pháp quản lý tài sản (hay không thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ của mình) với hậu quả là để mất mát, hư hỏng, lãng phí gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước.
Như vậy trường hợp người có nhiệm vụ quản lý trực tiếp tài sản đã thực hiện đầy đủ các biện pháp quản lý tài sản thuộc trách nhiệm quản lý của mình mà vẫn bị mất mát, hư hỏng, lãng phí do những nguyên nhân khách quan thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự vì không có mối quan hệ nhân quả giữa các yếu tố nêu trên (ví dụ: thủ khô đã thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng chống cháy nổ nhưng vì nguyên nhân bị sét đánh kho vẫn bị cháy…)
Việc xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của tội này được xác định là người phạm tội không chiếm đoạt tài sản mà chỉ làm mất, hư hỏng, lãng phí tài sản. Đặc điểm này cũng là để phân biệt với một số tội có cấu thành đặc trưng gần giống với tội này như tội tham ô tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Nếu đối tượng bị thiệt hại cũng là tài sản nhưng là tài sản đặc biệt như vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng.
Nếu người phạm tội có hành vi thiếu trách nhiệm nhưng thiệt hại trực tiếp không phải là tài sản, thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (ví dụ: người có trách nhiệm quản lý người bị giam đã để người bị giam, giữ trốn thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn.
– Để mất mát: được hiểu là để tài sản thoát khỏi sự quản lý của người quản lý tài sản (như bỏ quên bị mất giao nhầm mà không lấy lại được…).
– Để hư hỏng: được hiểu là làm cho tài sản bị mất một phần hoặc giảm giá trị giá trị sử dụng (như để máy móc ngoài trời nhưng không chê dậy dẫn đến hư hỏng…).
– Để lãng phí: được hiểu là sử dụng thiếu tiết kiệm bỏ mặc để rơi vãi thất thoát tài sản của Nhà nước (ví dụ: thủ kho gạo khi cân long không cẩn thận để gạo rơi vãi thất thoát nhiều…)
Lưu ý: đối tượng bị thiệt hại tài sản gồm Nhà nước Cơ quan tổ chức doanh nghiệp theo quy định của Bộ luật hình sự 2009 Điều 114 thì đối tượng thiệt hại chỉ có Nhà nước).
b) Về giá trị tài sản. Giá trị tài sản bị thiệt hại do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra phải từ 100 triệu đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.
2.2. Khách thể
Hành vi phạm tội lưu trên sông phạm đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan tổ chức, doanh nghiệp (gồm các loại hình doanh nghiệp theo quy định của luật doanh nghiệp).
Đối với tài sản của Nhà nước khi Nhà nước không trực tiếp chiếm hữu sử dụng các tài sản mà giao hoặc cấp phát cho các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội trực tiếp quản lý sử dụng theo quy định của pháp luật.
2.3. Mặt chủ quan
Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.
2.4. Chủ thể
Chủ thể của tội phạm này là người được giao nhiệm vụ (tức là người có trách nhiệm) trực tiếp quản lý tài sản có thể là người có chức vụ quyền hạn hoặc chỉ là nhân viên bình thường như thủ kho, thủ quỹ, lái xe…
Người có trách nhiệm quản lý gián tiếp đối với tài sản như kế toán, thủ trưởng đơn vị không phải là chủ thể của tội này.
3. Về hình phạt
Mức hình phạt của tội phạm này được chia thành 03 khung cụ thể như sau:
a) Khung một (khoản 1)
Có mức phạt cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
b) Khung hai (khoản 2)
Có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
c) Khung ba (khoản 3)
Cốm phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
4. Hình phạt bổ sung
Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt chính nêu trên tùy từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Để lại một phản hồi