Quan niệm nguyên tắc giới hạn quyền (quyền con người, quyền cơ bản của công dân) trong Hiến pháp theo nghĩa rộng gồm nguyên tắc chung về sự giới hạn đối với các quyền và nguyên tắc về sự giới hạn đối với mỗi quyền cụ thể được xác lập khi ghi nhận quyền, tác giả đã khảo cứu, so sánh sự thể hiện nguyên tắc giới hạn quyền trong 5 bản Hiến pháp từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013, đưa ra nhận xét và kiến nghị về nguyên tắc giới hạn quyền trong Hiến pháp Việt Nam.
Các nội dung liên quan:
- So sánh quyền con người và quyền công dân
- Điểm mới của hiến pháp 2013 về quyền con người, quyền công dân
- So sánh các bản hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ
- Quyền con người trong cách mạng công nghiệp lần thứ bốn
Đề mục: (Nhấn vào từng mục để di chuyển nhanh tới phần nội dung)
1. Quan niệm về nguyên tắc giới hạn quyền trong Hiến pháp
2. Sự thể hiện nguyên tắc giới hạn quyền trong các bản Hiến pháp
- 2.1 Hiến pháp năm 1946
- 2.2 Hiến pháp năm 1959
- 2.3 Hiến pháp năm 1980
- 2.4 Hiến pháp năm 1992
- 2.5 Hiến pháp năm 2013
3. Nhận xét và kiến nghị về nguyên tắc giới hạn quyền trong Hiến pháp
Tải về máy: Nguyên tắc giới hạn quyền trong các bản Hiến pháp Việt Nam
Abstract: The principle of the limitation of rights (human rights – the fundamental rights of citizens) in the Constitution, in the broaden meaning, includes the general principle of the limitation of the rights and the principle of limitation for each particular right once being established, the author has studied, compared the representation of the principle of right limitation in the five Constitutions, from the Constitution of 1946 to the Constitution of 2013, provided comments and recommendations to the principle of right limitations in the Constitution of Vietnam
Keywords: right limitation; Constitution; principle; Vietnam
1. Quan niệm về nguyên tắc giới hạn quyền trong Hiến pháp
Về mặt ngữ nghĩa, có thể hiểu: giới hạn (danh từ) là “phạm vi, mức độ nhất định, không thể hoặc không được phép vượt qua” hoặc (động từ) là “quy định một giới hạn”, chẳng hạn giới hạn vấn đề nghiên cứu; hạn chế (động từ) là “giữ lại, ngăn lại trong một giới hạn nhất định, không để cho vượt qua”; nguyên tắc (danh từ) là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”([1]). Qua đây cho thấy, tuy có những điểm khác nhau về sắc thái nghĩa nhưng giữa giới hạn với hạn chế lại có những nét gần gũi, giao thoa hay lồng ghép vào nhau, trong giới hạn có sự hạn chế với một phạm vi, mức độ nhất định và khi hạn chế điều gì đó thì bao giờ cũng chỉ có ý nghĩa trong một giới hạn nhất định, tức là phải vạch ra được ranh giới của nó([2]) . Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “giới hạn quyền” với ý nghĩa là sự giới hạn đối với quyền con người, quyền công dân.
Nguyên tắc giới hạn hay hạn chế quyền là một cách nói tắt. Thật ra phải gọi đầy đủ lời văn theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 mới đúng tên của nguyên tắc: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ cộng đồng”. Hơn nữa, ở đây “nguyên tắc” là cách gọi của khoa học Luật Hiến pháp, trong chừng mực nhất định có thể nói các nhà Hiến pháp học gán cho quy định đó cái tên gọi là “nguyên tắc”. Nhưng với tính cách là luật cơ bản, các quy định của Hiến pháp nói chung thường mang tính khái quát rất cao và đó cũng chính là tư tưởng, định hướng hay chính là những nguyên tắc cho cả hệ thống pháp luật. Nhìn nhận như vậy thì mới có thể thấy được một cách đầy đủ bức tranh về nguyên tắc giới hạn quyền trong các bản Hiến pháp Việt Nam.
Đến nay, trong giới nghiên cứu luật học đã có nhiều tác giả khẳng định rằng, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam quy định nguyên tắc giới hạn quyền([3]). Nếu thế thì phải chăng đến Hiến pháp năm 2013 ở Việt Nam mới có nguyên tắc về giới hạn đối với quyền? Không hoàn toàn đồng tình với nhận định trên, chúng tôi quan niệm nguyên tắc giới hạn quyền trong các bản Hiến pháp Việt Nam theo nghĩa rộng hơn, không phải chỉ có điều khoản định hướng chung cho chế định quyền cơ bản trong Hiến pháp mà còn là sự thể hiện ngay trong chính điều khoản ghi nhận các quyền cụ thể. Mặt khác, chúng ta đều biết quyền không chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp mà còn có cả sự cụ thể hoá và sự ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật dưới Hiến pháp. Do vậy, có thể coi giới hạn được thiết lập trong quy định về mỗi quyền ở Hiến pháp cũng chính là những nguyên tắc về sự giới hạn đối với quyền đó. Với cách thức xác lập nguyên tắc giới hạn quyền như vậy nên trong 4 bản Hiến pháp từ năm 1946 đến năm 1992, cho dù chưa có một nguyên tắc chung về giới hạn quyền thì tư tưởng về giới hạn quyền vẫn được thể hiện trong Hiến pháp và toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam dưới những mô thức khác nhau([4]). Thậm chí đến Hiến pháp năm 2013, tuy đã có sự ghi nhận một nguyên tắc chung về giới hạn đối với quyền tại khoản 2 Điều 14 và dù được coi là bước tiến bộ vượt bậc trong chế định quyền con người, quyền công dân nhưng quy định này vẫn cần phải có sự hỗ trợ của các quy định có tính nguyên tắc chung khác cũng như những quy định về giới hạn đối với các quyền cụ thể.
2. Sự thể hiện nguyên tắc giới hạn quyền trong các bản Hiến pháp
2.1 Hiến pháp năm 1946
Hiến pháp năm 1946 chưa xác lập nguyên tắc chung về giới hạn quyền và ở hầu hết các quyền cụ thể đều không xác định giới hạn quyền, tuy vậy cũng có một số quy định về quyền đã thể hiện tư tưởng về giới hạn quyền. Chẳng hạn, đối với quyền bất khả xâm phạm thân thể, nhà ở, thư tín của công dân, Điều thứ 11 quy định: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật”. Đối với quyền bầu cử, Điều thứ 18 quy định: “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và người mất công quyền. Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”. Hay quy định về quyền học tập của công dân: “Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình của Nhà nước” (Điều thứ 15)([5]). Như vậy, giới hạn đối với các quyền nêu trên, theo quan điểm của nhà lập hiến lúc này được thể hiện bởi quyết định của cơ quan tư pháp, quy định pháp luật hoặc những yếu tố khác như sự mất trí, mất công quyền hay điều kiện về độ tuổi, trình độ văn hoá của công dân, theo chương trình giáo dục của Nhà nước…
2.2 Hiến pháp năm 1959
Tuy Hiến pháp năm 1959 chưa xác lập nguyên tắc chung về giới hạn đối với các quyền công dân nhưng đối với quyền sở hữu ruộng đất và tư liệu sản xuất, của cải khác của nông dân, những người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác, của nhà tư sản dân tộc (được quy định tại các Điều 14, 15, 16) thì Hiến pháp đã xác định một nguyên tắc của việc Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng, trưng thu đối với một trong các đối tượng đó. Hiến pháp quy định: “Chỉ khi nào cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước mới trưng mua, hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn, trong phạm vi và điều kiện do pháp luật quy định” (Điều 20).
Như vậy, ở giai đoạn này, quyền sở hữu đối với ruộng đất, tư liệu sản xuất (một trong những đối tượng quan trọng nhất của quyền tư hữu) của công dân là quyền có thể bị giới hạn bởi việc Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng, trưng thu khi cần thiết vì lợi ích chung. Pháp luật phải quy định phạm vi, điều kiện của việc Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng, trưng thu các đối tượng nêu trên. Hay diễn đạt một cách khác, việc trưng mua hoặc trưng dụng, trưng thu của Nhà nước đối với các đối tượng nêu trên chỉ được coi là chính đáng, hợp pháp khi tuân theo phạm vi, điều kiện do pháp luật quy định. Có thể nói, đây chính là trường hợp giới hạn quyền một cách cụ thể, sự giới hạn được xác định rõ ràng, đồng thời với việc Hiến pháp ghi nhận một quyền nhất định. Hiến pháp năm 1959 lần đầu tiên xác lập cách thức giới hạn có tính “truyền thống”([6]) đối với việc trưng mua, trưng dụng, trưng thu các tư liệu sản xuất có bồi thường ở Việt Nam.
Cùng với quyền sở hữu, đối với một số quyền khác, Hiến pháp năm 1959 cũng thể hiện tư tưởng về sự giới hạn quyền. Đó là các quyền:
– Quyền bầu cử và ứng cử: Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, từ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử, trừ những người mất trí và người bị toà án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử, ứng cử. Công dân đang ở trong quân đội có quyền bầu cử, ứng cử (Điều 23).
– Quyền bất khả xâm phạm về thân thể: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được bảo đảm. Không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Toà án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 27).
– Quyền được xét xử công khai, quyền bào chữa của bị cáo (thuộc phạm vi nội dung của quyền được xét xử công bằng): Việc xét xử tại các Toà án nhân dân đều công khai, trừ những trường hợp đặc biệt do luật định. Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm (Điều 101).
2.3 Hiến pháp năm 1980
Trong Hiến pháp năm 1980, nguyên tắc giới hạn quyền cũng chưa được quy định với tính cách là nguyên tắc chung của chế định này. Nhưng cũng tương tự như Hiến pháp năm 1959, đối với quyền sở hữu tài sản của cá nhân (hoặc của tập thể), Hiến pháp xác định giới hạn của quyền là: “Khi thật cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước có thể trưng mua, trưng dụng hoặc trưng thu có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc của tập thể. Thể thức trưng mua, trưng dụng, trưng thu do pháp luật quy định” (Điều 28).
Nếu Hiến pháp năm 1959 xác định giới hạn của việc Nhà nước trưng mua, trưng dụng hoặc trưng thu có bồi thường thích đáng đối với ruộng đất, tư liệu sản xuất nói chung thì Hiến pháp năm 1980 quy định giới hạn của việc Nhà nước trưng mua, trưng dụng, trưng thu có bồi thường đối với tài sản của cá nhân (hoặc của tập thể). Phải chăng nguyên tắc giới hạn quyền sở hữu đã được mở rộng hơn (đối với tất cả các loại tài sản của cá nhân)? Thật ra không phải như vậy. Tuy tài sản là khái niệm rộng hơn, bao hàm trong đó cả tư liệu sản xuất nhưng Hiến pháp năm 1980 không còn quy định quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác, bởi vì chế độ kinh tế của Nhà nước đã có sự thay đổi.
Hiến pháp năm 1980 nhấn mạnh hơn về lý do hạn chế quyền: “khi thật cần thiết vì lợi ích chung”. Khác với quy định của Hiến pháp năm 1959 – việc Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường thích đáng… “trong phạm vi và điều kiện do pháp luật quy định”, Hiến pháp năm 1980 nêu rõ: “Thể thức trưng mua, trưng dụng, trưng thu do pháp luật quy định”. Ngoài quyền sở hữu, Hiến pháp năm 1980 cũng thể hiện sự giới hạn đối với một số quyền khác. Đó là các quyền:
– Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình: Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân (Điều 67).
– Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước (Điều 68).
– Quyền bất khả xâm phạm về thân thể: Không ai có thể bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân. Việc bắt và giam giữ người phải theo đúng pháp luật (Điều 69).
– Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở: Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Việc khám xét chỗ ở phải do đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành, theo quy định của pháp luật (Điều 71).
– Quyền được xét xử công khai, quyền được bào chữa (của bị cáo) – thuộc phạm vi nội dung của quyền được xét xử công bằng: Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định. Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm (Điều 133).
2.4 Hiến pháp năm 1992
Trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), nguyên tắc giới hạn quyền chưa được ghi nhận một cách trực diện. Mặc dù vậy, quy định giới hạn quyền trong các bản Hiến pháp trước tiếp tục được thể hiện trên tinh thần kế thừa, phát triển cho phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 tuyên bố tôn trọng quyền con người, nhấn mạnh vai trò của những văn bản có hiệu lực và giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp và luật trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, nhà lập hiến lúc này lại quan niệm (1) quyền con người được hoà chung với quyền công dân, thể hiện ở quyền công dân và (2) quyền được quy định trong Hiến pháp và luật. Chúng tôi cho rằng, đây cũng là sự thể hiện tư tưởng giới hạn quyền ở tầm nguyên tắc chung cho chế định quyền cơ bản trong Hiến pháp.
Bên cạnh đó Hiến pháp còn thể hiện sự giới hạn quyền cụ thể như sau:
– Quyền sở hữu (Điều 23): Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định. So với Hiến pháp năm 1980, quyền sở hữu của công dân theo Hiến pháp năm 1992 đã được mở rộng phạm vi nội dung. Diện các loại tài sản thuộc sở hữu của công dân không còn bị giới hạn như trước mà được mở rộng hơn để phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần tham gia (Điều 58).
Tuy nhiên, sự giới hạn quyền sở hữu tài sản của công dân (cá nhân, tổ chức) được hiến định bằng việc Nhà nước có thể trưng mua, trưng dụng vì lý do chính đáng là quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia. Ở đây, tuy cũng có điểm giống như tinh thần trong 2 bản Hiến pháp trước là việc trưng mua, trưng dụng phải có sự bồi thường nhưng là sự bồi thường phải theo giá thị trường. Mặt khác, nếu trong các bản Hiến pháp trước có 3 hình thức trưng mua, trưng dụng và trưng thu thì nay chỉ còn 2 hình thức là trưng mua và trưng dụng. Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định rõ thể thức trưng mua, trưng dụng tài sản do luật quy định, chứ không phải do pháp luật quy định như trong Hiến pháp năm 1980. Như vậy, đối với quyền sở hữu tài sản của công dân, Hiến pháp năm 1992 đã thiết lập nguyên tắc giới hạn quyền một cách chặt chẽ hơn nhằm tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền sở hữu cá nhân của công dân phù hợp với những đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền XHCN.
– Quyền tự do kinh doanh (Điều 57): Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật. Quyền này là quyền phái sinh từ quyền sở hữu tư nhân. Bản chất của nền kinh tế thị trường đòi hỏi ghi nhận quyền tự do kinh doanh của công dân, quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường. Tuy nhiên, cách quy định của Hiến pháp như vậy làm quyền tự do kinh doanh bị hạn chế, không đúng với nghĩa của “tự do”.
– Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 70): Không ai được… lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
– Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm (Điều 71): Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.
– Quyền được suy đoán vô tội (Điều 72): Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Đây là quyền mới, lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp.
– Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền được bảo đảm an toàn, bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín (Điều 73): Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.
– Quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 74): Nghiêm cấm việc… lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác. Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 chưa ghi nhận sự giới hạn đối với quyền này.
– Quyền được xét xử công khai, quyền bào chữa của bị cáo (thuộc nội dung quyền được xét xử công bằng): Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định (Điều 131); Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình (Điều 132).
2.5 Hiến pháp năm 2013
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, một nguyên tắc chung về giới hạn quyền với tính cách là tư tưởng chủ đạo, định hướng cho việc xác định giới hạn đối với tất cả các quyền (cần thiết và có thể) đã được quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ của cộng đồng”.
Nguyên tắc giới hạn quyền được quy định như vậy, cho dù đã hoàn toàn phù hợp với luật nhân quyền quốc tế hay chưa thì đây vẫn được coi là điểm sáng rực rỡ nhất, thể hiện sự tiến bộ, phát triển vượt bậc trong chế định quyền cơ bản của Hiến pháp năm 2013.
Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên tắc về giới hạn quyền trước hết thể hiện quan niệm của các nhà lập hiến Việt Nam về bản chất của quyền con người, quyền công dân. Theo đó, quyền con người tuy mang tính tự nhiên, vốn có và không phải có ai ban phát cho chủ thể các quyền đó nhưng cũng không phải mọi quyền đều có ý nghĩa tuyệt đối và không phải trong mọi trường hợp đều có thể thực hiện (hưởng thụ) quyền một cách tuyệt đối. Bởi lẽ, con người hoặc công dân sinh ra và sống, hưởng thụ các quyền trong một cộng đồng xã hội. Các quyền tuy là của cá nhân mỗi con người hoặc công dân nhưng không thể đối lập, loại trừ, hay xâm hại cho quyền của cá nhân khác hay những lợi ích của cộng đồng. Nói cách khác, vì lợi ích chung, trong những trường hợp cần thiết, quyền con người, quyền công dân có thể bị giới hạn. Với tính cách là luật cơ bản, Hiến pháp phải vạch rõ, hiến định nguyên tắc của việc giới hạn này. Việc quy định một nguyên tắc cho việc giới hạn quyền trong Hiến pháp mang hai ý nghĩa sau: (1) xác lập tiêu chí để sự giới hạn quyền được chính đáng, tránh sự tuỳ tiện trong hoạt động của bộ máy nhà nước làm triệt tiêu, vô hiệu hoá hay giảm ý nghĩa của quyền; (2) bảo đảm tính hiện thực của quyền vì sự giới hạn đối với quyền con người, quyền công dân là một giải pháp được lựa chọn cuối cùng khi không có giải pháp nào khác phù hợp hơn. Trên tinh thần đó, suy cho cùng, nguyên tắc giới hạn quyền cũng nhằm mục đích tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Vì thế, liền ngay trước khi ghi nhận nguyên tắc giới hạn quyền, khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã long trọng tuyên bố: “Ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và luật”.
Nguyên tắc giới hạn quyền trong Hiến pháp năm 2013 không chỉ là nguyên tắc cho chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp (Chương II) mà còn là nguyên tắc cho cả bản Hiến pháp và cũng là nguyên tắc chung cho cả hệ thống pháp luật.
Có thể khẳng định nguyên tắc giới hạn quyền không tồn tại một cách biệt lập mà trong mối liên hệ thống nhất với các nguyên tắc khác được quy định tại Điều 15: Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân (khoản 1); Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác (khoản 2); Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội (khoản 3); Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (khoản 4). Ở chừng mực nhất định và từng khía cạnh cụ thể, các nguyên tắc trên cũng thể hiện tư tưởng giới hạn quyền. Tuy nhiên, những nguyên tắc này hướng đến điều chỉnh hành vi của các chủ thể có quyền, còn nguyên tắc giới hạn quyền lại hướng đến chủ thể có nghĩa vụ, trách nhiệm công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền, chính là Nhà nước.
Trong việc ghi nhận các quyền cụ thể, Hiến pháp năm 2013 cũng kế thừa, phát triển cách thức ghi nhận quyền và kèm theo đó là giới hạn của quyền trong các bản Hiến pháp trước. Bên cạnh những quyền đã từng được ghi nhận, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận thêm một số quyền mới. Nhìn chung, cách thức thể hiện tư tưởng giới hạn các quyền cụ thể như sau:
– Quyền sống: Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật (Điều 19). Đây là quyền mới được ghi nhận lần đầu trong Hiến pháp Việt Nam, phù hợp với luật nhân quyền quốc tế. Tuy là quyền có ý nghĩa tuyệt đối nhưng tính có giới hạn của quyền sống được thể hiện ở chỗ không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật. Trong điều kiện Việt Nam còn phải duy trì án tử hình đối với một số tội phạm đặc biệt nguy hiểm, luật xác định rõ các loại tội phạm này. Việc thi hành án tử hình cũng được luật quy định hết sức nghiêm ngặt, chặt chẽ. Tuy nhiên, trên tinh thần tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, luật hình sự Việt Nam thời gian gần đây đã thu hẹp số lượng các tội danh có khung hình phạt với mức cao nhất là tử hình. Luật hình sự cũng quy định không áp dụng hình phạt tử hình, không thi hành án tử hình đối với người bị kết án đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội hoặc đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử, phụ nữ đang có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi([7])
– Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khoẻ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm: Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định (khoản 2 Điều 20). Những giới hạn của quyền này được Hiến pháp năm 2013 kế thừa, phát triển về cách thức quy định của các bản Hiến pháp trước đây. Nếu Hiến pháp năm 1992 quy định “việc bắt, giam, giữ người được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật” thì nay Hiến pháp năm 2013 quy định việc bắt, giam, giữ người do luật định. Như vậy, giới hạn quyền được quy định một chặt chặt chẽ hơn, phạm vi giới hạn được thu hẹp lại. Tuy nhiên, đây là quyền con người, không phải quyền riêng của công dân (chủ thể quyền được mở rộng). Hơn nữa phạm vi quyền này cũng được mở rộng hơn ở chỗ mọi người có quyền không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm. Thân thể của con người không chỉ là đối tượng vật chất (cơ thể) mà còn có cả các giá trị tinh thần như danh dự, nhân phẩm.
– Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác (khoản 3 Điều 20): Đây là quyền mới được ghi nhận lần đầu trong Hiến pháp Việt Nam. Tính bị giới hạn của quyền này thể hiện ở chỗ theo quy định của luật. Nếu được diễn đạt: “Việc thực hiện quyền này theo quy định của luật” thì phù hợp hơn, như vậy quyền này mới không bị giới hạn bởi luật.
– Quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác: Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác (đoạn 2 khoản 2 Điều 21). Điểm mới trong việc giới hạn đối với quyền này là sự giới hạn bằng luật chứ không phải giới hạn bởi pháp luật như Hiến pháp năm 1992 (Điều 73). Mặt khác, phạm vi quyền được mở rộng hơn, không chỉ bất khả xâm phạm quyền riêng tư qua các đối tượng như thư tín, điện thoại, điện tín mà là bất kỳ hình thức trao đổi thông tin riêng tư nào.
– Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở: Việc khám xét chỗ ở do luật định (khoản 3 Điều 22). Trong khi đó, Hiến pháp năm 1992, 1980 quy định việc khám xét chỗ ở do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật (Điều 73); Hiến pháp năm 1959 quy định pháp luật bảo đảm nhà ở của công dân không bị xâm phạm.
– Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: Không ai được… lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật (khoản 3 Điều 24). Giới hạn này cũng tương tự như giới hạn được quy định trong các bản Hiến pháp trước: Hiến pháp năm 1992 – … làm trái pháp luật, chính sách của Nhà nước (Điều 70); Hiến pháp năm 1980 (Điều 68), Hiến pháp năm 1959 không quy định giới hạn đối với quyền này (Điều 26). Hiến pháp năm 1946 ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng và không xác định giới hạn đối với quyền này.
– Quyền khiếu nại, tố cáo: Nghiêm cấm… lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác (khoản 3 Điều 30). Cách thức giới hạn quyền cũng kế thừa cách thức giới hạn quyền trong Hiến pháp năm 1992 (Điều 74). Hiến pháp năm 1959 không quy định giới hạn với quyền này. Hiến pháp năm 1946 chưa ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo.
– Quyền được suy đoán vô tội: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật (khoản 1 Điều 31). Giới hạn đối với quyền này có sự kế thừa và phát triển cách quy định trong Hiến pháp năm 1992 (Điều 72)([8]). Bên cạnh việc xác định chính xác, đầy đủ hơn chủ thể có quyền là người bị buộc tội([9]) Hiến pháp năm 2013 còn ghi nhận chặt chẽ hơn với đồng thời 2 điều kiện cho sự giới hạn đối với quyền được suy đoán vô tội. Đó là: (1) đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và (2) đến khi có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Các Hiến pháp năm 1980, 1959, 1946 chưa ghi nhận quyền được suy đoán vô tội.
– Quyền sở hữu tài sản: Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường (khoản 3 Điều 32) – đó là quan điểm giới hạn đối với quyền này của nhà lập hiến. So với Hiến pháp năm 1992, quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền sở hữu tài sản, quyền sở hữu tư nhân là sự kế thừa và phát triển. Bên cạnh quyền thừa kế tài sản, quyền sở hữu tư nhân được pháp luật bảo hộ. Tuy nhiên, chủ thể của quyền được mở rộng thành “mọi người” đồng thời cách thức giới hạn quyền này cũng đã thay đổi. Trong Hiến pháp năm 1992, tư tưởng giới hạn quyền này nằm ở chương chế độ kinh tế (Điều 23), không phải là giới hạn quyền được xác định đồng thời với việc ghi nhận quyền (Điều 58). Để khẳng định tài sản thuộc sở hữu cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá, Điều 23 Hiến pháp năm 1992 đã ghi rõ: “Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định”.
Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng hơn các lý do của việc trưng mua hoặc trưng dụng tài sản của cá nhân, tổ chức. Khả năng bị giới hạn tăng lên đồng nghĩa với phạm vi quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức bị thu hẹp hơn so với quy định trong Hiến pháp năm 1992. Tuy nguyên tắc giới hạn này cũng phải được nhận thức trong mối liên hệ với nguyên tắc hạn chế quyền được quy định tại khoản 2 Điều 14 nhưng về mặt kỹ thuật lập hiến, chúng tôi cho rằng, Hiến pháp vẫn cần có sự diễn đạt rõ ràng hơn, ở đây là ghi rõ việc trưng mua, trưng dụng do luật định như cách quy định của Hiến pháp năm 1992.
– Quyền tự do kinh doanh: Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm (Điều 33). Quyền này đã được mở rộng về chủ thể, thành quyền của mọi người (quyền con người). Giới hạn quyền này có một chuyển biến mang tính cách mạng so với các quy định trong Hiến pháp năm 1992. Trừ khoảng cấm của pháp luật, còn lại là tự do kinh doanh. Đây là điều kiện cần thiết để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, tăng khả năng thu hút đầu tư, kinh doanh, cạnh tranh kinh tế ở Việt Nam. So với cách quy định trong Hiến pháp năm 1992 thì đây là một bước tiến vượt bậc về ghi nhận quyền tự do kinh doanh trong Hiến pháp Việt Nam. Tuy vậy, chúng tôi cho rằng, trong mối liên hệ với nguyên tắc giới hạn quyền ở khoản 2 Điều 14 thì cách thức quy định về giới hạn quyền tự do kinh doanh ở Điều 33 vẫn có những hạn chế. Thứ nhất, việc quy định những ngành nghề bị cấm kinh doanh phải được thực hiện bởi luật chứ không phải là pháp luật. Thứ hai, hiện nay bên cạnh ngành nghề bị cấm kinh doanh còn có những ngành nghề kinh doanh có điều kiện và các quy định cụ thể về từng điều kiện kinh doanh. Đây cũng là một trong những giới hạn của quyền tự do kinh doanh nhưng Hiến pháp năm 2013 lại chưa có quy định gì về điều kiện kinh doanh. Trên thực tế, danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện và các điều kiện kinh doanh đang được quy định bởi Luật Đầu tư (Phụ lục IV). Riêng đối với điều kiện kinh doanh, nhìn từ góc độ xác định giới hạn quyền tự do kinh doanh có thể được quy định bởi văn bản dưới luật, như vậy mới bảo đảm được tính hiện thực. Tuy thế, trong luật phải chỉ rõ thẩm quyền và hình thức văn bản quy phạm pháp luật được phép quy định điều kiện kinh doanh (chẳng hạn nghị định của Chính phủ) và phải thống nhất với các lý do giới hạn quyền như nguyên tắc đã được quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013.
3. Nhận xét và kiến nghị về nguyên tắc giới hạn quyền trong Hiến pháp
3.1 Nhận xét về nguyên tắc giới hạn quyền
Nghiên cứu sự thể hiện nguyên tắc giới hạn quyền qua 5 bản Hiến pháp Việt Nam, có thể rút ra được một số điểm có tính khái quát sau:
Một là: Nhìn chung, tư tưởng giới hạn quyền được thể hiện phù hợp với yêu cầu lập hiến ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước và ngày càng hoàn thiện, tiến bộ hơn trong quá trình phát triển chung của nền lập hiến Việt Nam. Sự giới hạn quyền ngày càng hướng đến mục tiêu bảo vệ các quyền một cách tốt hơn, theo bản chất của quyền đồng thời cũng bảo đảm cho tính hiện thực của quyền.
Hai là: Tuy đến Hiến pháp năm 2013 mới có một quy định xác định nguyên tắc chung về giới hạn quyền cho chế định quyền cơ bản trong Hiến pháp nhưng ở các bản Hiến pháp trước đây, tư tưởng về giới hạn quyền vẫn được xác lập tương ứng với mỗi quyền cụ thể được ghi nhận.
Ba là: Cho dù đã xác lập nguyên tắc chung về giới hạn quyền nhưng Hiến pháp vẫn cần phải có giới hạn riêng đối với mỗi quyền cụ thể (nếu cần thiết và có thể). Bên cạnh đó, nguyên tắc giới hạn quyền cũng cần có sự hỗ trợ của những nguyên tắc chung khác của chế định trong một thể thống nhất.
Bốn là: Giới hạn quyền không chỉ được thể hiện ở việc vạch định phạm vi nội dung quyền mà còn được thể hiện ở cách thức ghi nhận quyền (kỹ thuật lập hiến). Theo đó, giới hạn quyền thường được thể hiện ở sự ghi nhận, xác định phạm vi chủ thể có quyền, chủ thể có nghĩa vụ hoặc ở cách thức xác định phạm vi các hình thức pháp lý ghi nhận quyền hay cụ thể hoá việc thực hiện quyền (văn bản luật hay pháp luật).
Năm là: Hiến pháp Việt Nam khi xác định giới hạn quyền vẫn chưa thể hiện rõ ràng về quyền tuyệt đối (không được giới hạn) và quyền có thể bị giới hạn; chưa phân biệt giới hạn quyền với tạm đình chỉ việc thực hiện quyền (trong một số trường hợp).
3.2 Kiến nghị về nguyên tắc giới hạn quyền
Thứ nhất, cần hoàn thiện nguyên tắc giới hạn quyền đồng thời trên hai khía cạnh: giới hạn bởi nguyên tắc chung và giới hạn cụ thể trong sự ghi nhận đối với mỗi quyền (cần thiết). Nguyên tắc chung cần được thể hiện theo hướng thiết lập hệ tiêu chí giới hạn quyền có tính bao trùm cho tất cả mọi trường hợp cần thiết phải giới hạn hoặc tạm đình chỉ thực hiện quyền. Trên tinh thần bảo đảm tính chất tương xứng([10]), hệ tiêu chí ở nguyên tắc chung phải hội đủ 3 tiêu chí thống nhất: (1) giới hạn bởi luật hoặc văn bản dưới luật và (2) trong trường hợp thật sự cần thiết và (3) vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ cộng đồng. Nguyên tắc chung này là một bộ phận không thể tách rời trong các nguyên tắc của chế định quyền cơ bản trong Hiến pháp. Bên cạnh nguyên tắc chung, đối với mỗi quyền được ghi nhận trong Hiến pháp phải thể hiện rõ có thể bị giới hạn bởi luật hay bởi văn bản dưới luật. Đồng thời, Hiến pháp cũng phải phân biệt quyền có thể bị giới hạn với quyền có thể bị tạm đình chỉ thực hiện trong những trường hợp cần thiết và vì lý do đã nêu trong nguyên tắc chung.
Thứ hai, Nguyên tắc giới hạn quyền trong Hiến pháp dù sao cũng luôn ở tầm khái quát, mang tính trừu tượng cao([11]) nên rất cần được luật và các văn bản dưới luật quy định chi tiết, thống nhất.
Thứ ba, việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam nên chú trọng giải pháp bảo vệ Hiến pháp, giám sát tuân thủ Hiến pháp bằng cơ chế tư pháp. Theo đó, cần trao cho cơ quan tư pháp (Toà án) thẩm quyền giải thích pháp luật (trong đó có Hiến pháp). Tính khái quát, trừu tượng của Hiến pháp không chỉ được giải quyết bởi lập pháp mà còn phải thông qua cả hoạt động xét xử các tranh chấp, giải quyết các vụ việc cụ thể, thông qua giải thích pháp luật của Toà án.
Thứ tư, các giải pháp lập hiến, lập pháp, áp dụng Hiến pháp và pháp luật về nguyên tắc giới hạn quyền đều phải được xây dựng, triển khai trên tinh thần phù hợp với luật nhân quyền quốc tế cũng như xu hướng chung của nền lập hiến tiên tiến ở các nước trên thế giới../.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bùi Tiến Đạt, Hiến pháp hoá nguyên tắc giới hạn quyền con người: Cần nhưng chưa đủ,Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 6/2015, tr.3.
- Bùi Tiến Đạt,Nguyên tắc giới hạn quyền con người: Ý nghĩa, nhu cầu giải thích và định hướng áp dụng,Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, kỳ 1 tháng 10/2017, tr.13.
- Bùi Tiến Đạt,Nhận diện các mô thức giới hạn quyền con người trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 2, kỳ 2 tháng 01/2018, tr.3.
- Phạm Hữu Nghị,Vấn đề hạn chế quyền con người theo pháp luật quốc tế, Hiến pháp một số nước và Hiến pháp Việt Nam năm 2013,Tạp chí Pháp luật về quyền con người, số 1/2018, tr.40.
- Lưu Đức Quang,Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người quyền công dân(sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
- Trương Hồng Quang,Nhu cầu giải thích quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp năm 2013,Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 3/2018, tr.3.
- Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên),Giới hạn chính đáng đối với quyền con người, quyền công dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam(sách chuyên khảo), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2015.
- Viện Nghiên cứu Lập pháp,Quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dân – Thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp bộ năm 2016 – 2017.
- Viện Ngôn ngữ học,Từ điển tiếng Việt; Nxb. Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, 2002.
([1]).Xem: Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt; Nxb. Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, 2002, các trang: 405, 420, 694.
([2]). Có tác giả đặt vấn đề cần phân biệt giới hạn quyền với hạn chế quyền vì “luật nhân quyền quốc tế đưa ra hai khái niệm gồm: giới hạn quyền (limitations of rights) và hạn chế hay tạm đình chỉ việc thực hiện quyền (derogation of rights)”. Xem: Lưu Đức Quang, Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người quyền công dân (sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.75-76. Tuy vậy, quan điểm khác cho rằng: Giới hạn/sự hạn chế quyền con người (limitation on human rights) được hiểu là việc nhà nước không cho phép các chủ thể có thể thực hiện quyền ở mức độ tuyệt đối (cao nhất). Xem: Aharon Barak, Proportionality: Constitutional Rights and Their Limitations, Cambridge University Press, 2012, tr.102 (Dẫn theo: Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Giới hạn chính đáng đối với quyền con người, quyền công dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam; Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2015, tr. 178).
([3]) Xem:
– Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Giới hạn chính đáng đối với quyền con người, quyền công dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam (sđd);
– Viện Nghiên cứu Lập pháp, Quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dân – Thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp bộ năm 2016 – 2017;
– Lưu Đức Quang, Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người quyền công dân (sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
– Phạm Hữu Nghị, Vấn đề hạn chế quyền con người theo pháp luật quốc tế, Hiến pháp một số nước và Hiến pháp Việt Nam năm 2013, Tạp chí Pháp luật về quyền con người, số 1/2018, tr.40.
([4]).Xem: Bùi Tiến Đạt, Nhận diện các mô thức giới hạn quyền con người trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 2, kỳ 2 tháng 01/2018, tr.3.
([5]).Xem: Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Giới hạn chính đáng đối với quyền con người, quyền công dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, sđd, tr.134.
([6]).Xem: Lưu Đức Quang, Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người quyền công dân; sđd, tr.116.
([7]).Xem: Các khoản 2, 3 Điều 40 BLHS năm 2015.
([8]). Đoạn 1 Điều 72 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.”
([9]). Trước đó, Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.” Điều luật này được quy định với tên là: “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” mà chưa khẳng định rõ là “Suy đoán vô tội” (một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS) như quy định tại Điều 13 Bộ luật TTHS năm 2015.
([10]).Xem thêm:
– Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Giới hạn chính đáng đối với quyền con người, quyền công dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam (sđd).
– Bùi Tiến Đạt, Hiến pháp hoá nguyên tắc giới hạn quyền con người: cần nhưng chưa đủ, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 6/2015, tr.3.
– Bùi Tiến Đạt, Nguyên tắc giới hạn quyền con người: Ý nghĩa, nhu cầu giải thích và định hướng áp dụng, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, kỳ 1 tháng 10/2017, tr.13.
([11]).Xem: Trương Hồng Quang, Nhu cầu giải thích quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2018, tr.3.
Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 13/2018.
TS. Trần Thái Dương – Trường Đại học Luật Hà Nội
Các tìm kiếm liên quan đến Nguyên tắc giới hạn quyền trong các bản Hiến pháp Việt Nam, hạn chế quyền con người trong hiến pháp 2013, nguyên tắc hiến pháp về quyền con người quyền công dân, giới hạn quyền con người, nguyên tắc hạn chế quyền con người, hạn chế quyền công dân, hiểu biết của sinh viên về quyền con người trong hiến pháp 2013, giới hạn quyền con người trong hiến pháp, so sánh quy định về quyền con người qua các bản hiến pháp việt nam
Để lại một phản hồi