Luật pháp là ý chí giai cấp thống trị hay lương tri chung?

Chuyên mụcCafe Dân Luật Luật

Đào tạo luật: Hai triết lý, hai hướng đi, hai mô hình, hai hệ quả khác nhau: Luật pháp là ý chí giai cấp thống trị hay lương tri chung?

 

Các nội dung liên quan:

 

“Luật pháp là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận”, người ta có thể dễ dàng đồng ý với nhau như vậy. Nhưng khi đi tiếp tục đào sâu: Các quy tắc xử sự này phản ánh ý chí của ai? thói quen của ai? thì hai triết lý khác nhau sẽ có hai câu trả lời khác nhau.

Triết lý thứ nhất1, cho rằng luật pháp phản ánh ý chí của giai cấp thống trị. Bởi vậy việc xây dựng dự thảo, ban hành pháp luật không cần tham vấn ý kiến nhân dân. Bởi không tham vấn nhân dân, nên pháp luật trở thành thứ “đường đột” với dân chúng, nên cần thành lập cơ quan phổ biến, tuyên truyền pháp luật để dân chúng biết, hiểu và làm quen với “ý chí của giai cấp thống trị”. Theo triết lý này, quá trình học luật chính là quá trình tìm hiểu ý chí của giai cấp thống trị; nếu pháp luật có điều gì chưa rõ thì hỏi lại “giai cấp thống trị” họ muốn gì khi ban hành quy tắc đó; nếu cần làm rõ nữa thì đề nghị cơ quan ban hành pháp luật giải thích pháp luật hay nói cách khác cơ quan giải thích pháp luật, theo triết lý này, không phải là tòa án mà chính là cơ quan lập pháp; cơ quan lập pháp nếu vì quá bận bịu việc kiêm nhiệm thì có thể ủy cho cơ quan hành pháp ban hành văn bản giải thích hướng dẫn. Bởi vậy, thay vì nghiên cứu các án lệ đằng sau mỗi điều luật – với các lý lẽ của thẩm phán, thì sinh viên trong hệ thống này sẽ nghiên cứu hàng chục văn bản hướng dẫn đằng sau một điều luật.

Phương pháp diễn dịch dùng để diễn giải “ý chí giai cấp thống trị” sẽ được sử dụng trong các hệ thống giáo trình; người học sẽ phải chấp nhận và thuộc lòng các khái niệm, định nghĩa, nguyên tắc mà ít khi trải qua quá trình lập luận, so sánh, dẫn dắt để thấy được một cách giải quyết đúng bên cạnh những cách giải quyết sai hoặc không sai nhưng không tối ưu. Sản phẩm của mô hình đào tạo này là các sinh viên ra trường học thuộc lòng rất giỏi, biết, nhớ các quy định của luật viết – được hiểu là hiện thân của ý chí giai cấp thống trị và sẽ lúng túng nếu luật thực định không cầm tay chỉ việc; sẽ không quen với việc áp dụng tương tự pháp luật; hay bất lực khi phải tìm kiếm giải pháp pháp lý để bảo đảm công lý trong một tình huống, vụ việc cụ thể. Sản phẩm đầu cuối là một số bản án “phù hợp pháp chế” nhưng chưa chắc đã phù hợp với “lẽ công bằng”.

Triết lý thứ hai2, cho rằng luật pháp phải phản ánh mong muốn, ý chí của nhân dân. Các quy tắc xử sự giữa con người với con người được hình thành và chọn lọc một cách tự nhiên cùng với quá trình tiến hoá của loài người; quy tắc nào không phù hợp làm cho cộng đồng đó tàn lụi thì hoặc cộng đồng đó tự điều chỉnh quy tắc hoặc bị cưỡng bức từ bên ngoài bởi một cuộc xâm lược, thôn tính, thậm chí là rơi vào diệt vong; chứ không phải đơn giản là phép cộng đại số, chia trung bình các mong muốn của hàng chục triệu thành viên trong một quốc gia. Để cho giản dị, triết lý này gọi các mong muốn, chuẩn mực chung này là lương tri chung, nhận thức chung (common sense). Bởi luật pháp được coi là ý chí nhân dân, những quy tắc xa lạ với cuộc sống dân chúng sẽ không được chấp nhận trở thành quy tắc luật pháp; quá trình xây dựng pháp luật phải công khai, tham vấn ý kiến nhân dân; dự thảo đưa ra không phù hợp với ý chí, lợi ích của nhân dân thì phải điều chỉnh. Và ngay cả sau khi ban hành, nếu điều luật có nhiều cách hiểu khác nhau thì thẩm phán phải lựa chọn cách hiểu nào phù hợp với lợi ích nhân dân, phù hợp với cách hiểu, cách xử sự của người bình dân.

Bởi vậy, quá trình học luật, đào tạo luật, áp dụng pháp luật là quá trình phát hiện, quy nạp, khái quát để xác định ý chí nhân dân, lựa chọn cách giải thích luật sao cho tối ưu hóa lợi ích của nhân dân – vốn là một tập hợp số đông. Đào tạo luật trong mô hình theo triết lý này sẽ chú trọng các môn logic pháp lý, luận lý pháp luật (legal resonning) và chú trọng tư duy quy nạp, giảng dạy bằng phương pháp socratic để người học tự đúc rút ra quy luật, tự khái quát nên khái niệm, tự đặt ngược vấn đề, tự phản biện, để tìm ra phương án điều chỉnh pháp luật tối ưu, bên cạnh tư duy diễn dịch; cho người học hiểu về các quy luật kinh tế, tâm lý, lịch sử trước khi dẫn dắt người học đến các khái niệm trừu tượng. Triết lý này không cho phép làm luật một cách tuỳ tiện và rồi chính chủ thể làm luật đứng ra giải thích luật một cách tuỳ tiện, nên đã trao cho thẩm phán quyền giải thích pháp luật – vốn là chủ thể được thiết kế lựa chọn một cách độc lập, khách quan; đòi hỏi có chuyên môn cao3. Triết lý này coi án lệ là nguồn luật bổ sung khắc phục những khiếm khuyết của luật viết. Bởi vậy, triết lý này sẽ dẫn tới mô hình đào tạo luật  chú trọng giảng dạy về án lệ, chú trọng về khả năng tư duy, lập luận; không nặng về học thuộc lòng.

(Trích bài viết Đào tạo luật: Hai triết lý, hai hướng đi, hai mô hình, hai hệ quả khác nhau đăng tải trên Tạp chí Tia sáng ngày 21/02/2019)

5/5 - (1 bình chọn)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền