Khái niệm nghề luật sư? Đặc điểm chung của nghề luật sư? Đặc thù của nghề luật sư? Vị trí độc lập của nghề luật sư? Tính chuyên nghiệp của nghề luật sư?… Tất cả những câu hỏi này đều sẽ được giải đáp trong bài viết dưới đây.
..
Những nội dung liên quan:
- Những thách thức của nghề luật sư
- Thu nhập của nghề luật sư tại Việt Nam?
- Trở thành Luật sư – dễ hay khó?
- Kỹ năng tham gia phần xét hỏi tại phiên tòa của luật sư trong vụ án hành chính
..
Khái niệm nghề luật sư
Theo cách hiểu chung nhất, “nghề” là một lĩnh vực hoạt động lao động, trong đó con người vận dụng các tri thức, kỹ năng qua đào tạo, trau dồi, trải nghiệm và tích lũy kinh nghiệm thực tiễn để tạo ra những sản phẩm, hàng hóa, cung cấp dịch vụ có tính vật chất hay tinh thần phục vụ nhu cầu xã hội. Tương đồng với cách hiểu này, nghề luật là một dạng nghề nghiệp trong xã hội. Nghề luật bao gồm những loại hình nghề nghiệp cụ thể, liên quan đến pháp luật, có mục đích, chức năng, phạm vi, đối tượng, công cụ, phương tiện, chủ thể hoạt động nghề nghiệp cụ thể[1]
• Nghề luật là nghề nghiệp liên quan đến pháp luật, nhằm thực thi sứ mệnh tuân thủ, bảo vệ sự thượng tôn pháp luật, bảo vệ sự độc lập tư pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức, cá nhân (theo nghĩa rộng).
• Nghề luật là nghề nghiệp gắn với chức danh tư pháp theo quy định pháp luật Việt Nam, hoạt động trong lĩnh vực tư pháp, có sứ mệnh thực thi và bảo vệ sự thượng tôn pháp luật, bảo vệ công lý, bảo vệ sự độc lập tư pháp, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức, cá nhân trên cơ sở quy định pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp (theo nghĩa hẹp).
Nghề luật là nghề nghiệp “đặc thù” trong xã hội. Đối tượng tác động của hoạt động nghề luật là con người, tổ chức và nhà nước. Sự tác động này mang tính đa chiều. Mặt tích cực là bảo vệ và bảo đảm cho quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể được thực thi đúng pháp luật, tôn trọng công lý, lẽ công bằng. Do có đặc thù gắn với “số phận” con người nên nghề luật ẩn chứa những nguy cơ gây tổn hại cho lợi ích vật chất, tinh thần của các chủ thể trong quan hệ pháp luật từ các quyết định tố tụng hoặc các dịch vụ pháp lý mà người hành nghề luật mang lại. Chính vì thế, nghề luật đòi hỏi người hành nghề vừa phải có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu sâu rộng về chính trị – kinh tế – xã hội – pháp luật, thành thạo về kỹ năng làm việc, vừa phải có phẩm chất, tố chất phù hợp với nghề và tuân thủ nghiêm ngặt quy tắc đạo đức – ứng xử nghề nghiệp. Trong nghề luật có những nhóm nghề mà người hành nghề phải được nhà nước bổ nhiệm theo những chức danh tư pháp như người hành nghề Thẩm phán, Kiểm sát viên, Chấp hành viên, hoặc phải có chức danh bổ trợ tư pháp, như người hành nghề luật sư, công chứng… phù hợp với vị trí của từng loại hình công việc liên quan đến pháp luật. Pháp luật Việt Nam cũng như nhiều quốc gia đều có quy định không cho phép một người kiêm nhiệm đồng thời hai chức danh tư pháp khác nhau thuộc nghề luật.
Xuất phát từ sứ mệnh, chức năng, nhiệm vụ của từng chức danh tư pháp, nghề luật được phân biệt thành hai nhóm:
(1) Nghề luật thuộc hệ thống cơ quan tư pháp, thực thi quyền lực tư pháp nhà nước;
(2) Nghề luật ngoài hệ thống cơ quan tư pháp nhà nước, hành nghề theo phương thức tự do. Nghề luật sư (NLS) thuộc nhóm ngoài cơ quan tư pháp và hành nghề tự do.
Nghề luật sư trong môi trường nhà nước pháp quyền chịu sự tác động sâu sắc của hệ thống chính trị – kinh tế – xã hội của từng quốc gia ở mỗi thời kỳ. Tại Việt Nam, xã hội biết đến sự tồn tại độc lập của nghề luật sư nhiều hơn từ sau năm 1945. Qua gần tám thập niên, nghề luật sư tại Việt Nam có sự phát triển lớn mạnh toàn diện cả về quy mô, chất lượng và vai trò đóng góp ngày càng quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước; góp phần tạo ra sự thay đổi tích cực của công cuộc cải cách tư pháp; tạo lập niềm tin của người dân vào công lý; thúc đẩy và tạo động lực phát triển thị trường dịch vụ pháp lý tại Việt Nam, đáp ứng nhu cầu xã hội và hội nhập quốc tế.
Nghề luật sư là một trong số nghề luật mà tổ chức hành nghề và luật sư hành nghề cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng một cách độc lập và chuyên nghiệp.
Đặc điểm nghề luật sư
Đặc điểm chung của nghề luật sư
* Mục đích nghề nghiệp luật sư
CÂU HỎI PHÙ HỢP VỚI MỤC ĐÍCH NGHỀ NGHIỆP luật sư? | ||||
Trở thành luật sư để cứu/ bảo vệ con người? | Trở thành luật sư để kiếm tiền/ trở nên giàu có? | Trở thành luật sư để có công danh/ được nổi tiếng? | Trở thành luật sư để trở thành người lãnh đạo? | Trở thành luật sư để được làm một nghề cao quý trong xã hội? |
Câu trả lời trước hết tùy thuộc vào mục tiêu nghề nghiệp riêng của từng cá nhân nhưng vẫn phải tôn trọng mục đích chung của nghề luật sư là bảo đảm thực thi chức năng và sứ mệnh nghề nghiệp theo quy định pháp luật về luật sư, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.[2]
* Chức năng nghề nghiệp luật sư
Chức năng nghề nghiệp luật sư là phạm vi, giới hạn, nội dung công việc phù hợp với vị trí nghề nghiệp luật sư.
Chức năng nghề nghiệp luật sư là tổng thể gắn bó của các phương diện hoạt động giúp cho việc phân biệt nghề luật sư với nhóm nghề luật khác.
CÂU HỎI PHÙ HỢP VỀ CHỨC NĂNG NGHỀ NGHIỆP luật sư? | ||
Chức năng hướng dẫn | Chức năng phản biện | Chức năng trợ giúp |
LS hướng dẫn ai? LS hướng dẫn về điều gì? LS hướng dẫn như thế nào? Hướng dẫn có thuộc nghĩa vụ, trách nhiệm của luật sư? LS có phải chịu trách nhiệm pháp lý về việc hướng dẫn sai, không hướng dẫn? |
LS phản biện ai? LS phản biện về điều gì? Kết quả của LS phản biện như thế nào? Phản biện có phải nghĩa vụ, trách nhiệm |
LS trợ giúp ai? LS trợ giúp những gì cho xã hội? LS trợ giúp như thế nào? Tại sao luật sư lại phải trợ giúp? Kết quả trợ giúp của luật sư là gì? |
Tổng hợp các câu trả lời cho những câu hỏi nêu trên giúp hình dung tổng thể về hoạt động nghề nghiệp luật sư. Đây cũng là một trong số căn cứ mà người lựa chọn nghề luật sư tự soi chiếu để đánh giá khả năng và mức độ thích hợp của cá nhân về sự lựa chọn nghề luật sư làm con đường phát triển sự nghiệp cá nhân.
Với tư cách của chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý trong quan hệ giao dịch giữa cá nhân luật sư với khách hàng thì hoạt động hướng dẫn, phản biện và trợ giúp được xác định là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của bên cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Đó là hoạt động hướng dẫn của luật sư đối với khách hàng về quy định pháp luật cần viện dẫn, sử dụng và tuân thủ; về trình tự, thủ tục, cách thức ứng xử đúng đắn với pháp luật, với cơ quan, tổ chức, nhà nước và các chủ thể liên quan để mang lại hiệu quả tối ưu cho việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân chủ thể pháp luật. Song song với hoạt động hướng dẫn, luật sư cung cấp cho khách hàng ý kiến tư vấn (được hiểu là kết quả của sự nghiên cứu, phân tích, phản biện độc lập của luật sư) để có phương án có lợi/tốt nhất cho khách hàng. Quá trình hướng dẫn, tư vấn này chính là vừa thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng dịch vụ pháp lý, vừa là sự trợ giúp hiệu quả, cần thiết thuộc trách nhiệm nghề nghiệp luật sư.
Với tư cách là một nghề độc lập trong xã hội, chức năng hướng dẫn, phản biện và trợ giúp của nghề luật sư có những tương đồng nhất định với chức năng xã hội của luật sư.[3] Đối với nghề nghiệp, các chức năng này được phản ánh, thể hiện và chứng minh vai trò, hiệu quả hoạt động thực tiễn mà giới luật sư đóng góp cho xã hội. Giá trị thực sự của nghề luật sư một phần chính là ở năng lực phản biện để xây dựng, phát triển hệ thống pháp luật quốc gia thông qua việc cung cấp các góc tiếp cận đa chiều cho những cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động ban hành, thực thi, tuân thủ pháp luật. Vai trò hướng dẫn của nghề luật sư giúp cách hiểu và hành xử của người dân tuân thủ đúng quy định, trình tự, thủ tục pháp lý khi tiếp cận công lý và hệ thống pháp luật quốc gia, để bảo đảm mọi người dân trong xã hội được thụ hưởng quyền con người, quyền công dân trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với hai chức năng hướng dẫn và phản biện, chức năng trợ giúp về pháp lý là sự chia sẻ từ nghề nghiệp và những người làm nghề luật sư đối với phần trách nhiệm của nhà nước phải bảo vệ an toàn, an ninh cho người dân trong vận hành và thực thi quyền lực nhà nước ở các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
* Đối tượng nghề nghiệp luật sư
Nghề luật sư hướng tới cá nhân, tổ chức, kể cả nhà nước để đáp ứng nhu cầu bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật.
* Công cụ hành nghề luật sư
Công cụ chính của nghề luật sư là hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam; công lý; lẽ công bằng; hệ thống quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Ngoài pháp luật và những nguồn điều chỉnh đặc thù của hoạt động tư pháp[4] , hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của luật sư còn cần đến công cụ lý trí là “tư duy pháp lý”[5] , công cụ chuyên môn đặc thù của nghề luật nói chung và nghề luật sư nói riêng.
Tư duy pháp lý là quá trình, phương pháp, kỹ năng tư duy về tri thức chuyên môn, xã hội và pháp luật nhằm tìm ra và xây dựng những giải pháp cụ thể để giải quyết vấn đề/tình huống/vụ việc phát sinh trong các quan hệ của chủ thể pháp luật.
Liên quan đến hoạt động nghề luật sư, tư duy pháp lý vừa có đặc thù của tư duy nghề nghiệp chuyên nghiệp về pháp luật, vừa là kết quả của hoạt động tư duy đỉnh cao trong xử lý, giải quyết các công việc thuộc phạm vi, lĩnh vực nghề nghiệp của luật sư, tuân thủ đầy đủ những quy luật cơ bản của nhận thức luận và tư duy logic hình thức, như quy luật đồng nhất, quy luật không mâu thuẫn, quy luật triệt tam và quy luật lý do đầy đủ.[6]
* Chủ thể hoạt động nghề nghiệp luật sư
Ở Việt Nam, luật sư được quan niệm là một dạng chức danh bổ trợ tư pháp dành cho những người đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề; các tổ chức hành nghề cần đáp ứng đủ điều kiện thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật về Tổ chức hành nghề luật sư tại Việt Nam, quy chế riêng của tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư và quy chế tổ chức, hoạt động của từng tổ chức hành nghề.
Đặc thù của nghề luật sư
* Lĩnh vực và phạm vi của hoạt động nghề nghiệp luật sư
Đáp ứng nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế, phạm vi, loại hình dịch vụ pháp lý luật sư tại Việt Nam hiện nay được mở rộng, bao trùm nhiều lĩnh vực kinh tế – xã hội – pháp luật và với các đối tượng khách hàng đa dạng, phong phú. Dịch vụ pháp lý luật sư là dịch vụ đặc thù so với các loại hình hàng hóa dịch vụ khác. “Hàng hóa” (hay còn gọi là sản phẩm dịch vụ) trong hoạt động giao dịch cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư là “chất xám” – kết quả hoạt động tư duy trí tuệ về pháp lý của luật sư cung cấp cho khách hàng. Đó là các phương án tư vấn/bảo vệ/trợ giúp pháp lý từ luật sư đối với khách hàng theo thỏa thuận hợp đồng hoặc cam kết trợ giúp pháp lý của luật sư. Tính chất đặc thù này được quy ước bởi tính chất dịch vụ; tư cách pháp lý của luật sư với khách hàng trong quan hệ giao dịch dân sự – thương mại theo sự điều chỉnh của pháp luật về luật sư và pháp luật liên quan; chức năng xã hội và sứ mệnh nghề nghiệp luật sư. nghề luật sư tích hợp song hành hai phương diện hoạt động nghề nghiệp: (1) Quan hệ pháp luật dân sự – thương mại giữa bên cung cấp dịch vụ pháp lý và bên sử dụng dịch vụ pháp lý; (2) Chức năng xã hội và sứ mệnh nghề nghiệp trong cung cấp dịch vụ pháp lý. Một mặt, nghề luật sư phải tuân theo sự điều tiết của quy luật thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, sứ mệnh nghề nghiệp ràng buộc người hành nghề luật sư có sự hỗ trợ pháp lý cho cá nhân, tổ chức, pháp nhân khi những chủ thể đó có vấn đề liên quan đến pháp luật. Hiện nay, tại Việt Nam, hoạt động nghề nghiệp luật sư diễn ra ở các phương diện hoạt động cơ bản sau:
Thứ nhất, hoạt động tranh tụng. Với lĩnh vực hoạt động này, nghề luật sư có hai tư cách: (i) Hỗ trợ/trợ giúp/bảo vệ cá nhân, tổ chức trong quá trình thực hiện quyền tiếp cận công lý, một trong số quyền con người cơ bản – quyền công dân trong điều kiện nhà nước pháp quyền; (ii) góp phần bảo vệ lợi ích chung của xã hội, sự thượng tôn của pháp luật, công lý và lẽ công bằng. Trong hoạt động thực thi quyền lực tư pháp của nhà nước, sự tham gia của luật sư là yêu cầu bắt buộc đối với vận hành cơ chế tranh tụng trong hệ thống tố tụng nhà nước. “Vai trò kép” của nghề luật sư được thể hiện ở nghĩa vụ, trách nhiệm góp phần bảo vệ quyền hiến định của công dân trước pháp luật (quyền được xét xử công khai, đúng pháp luật bởi Tòa án có thẩm quyền) và phản biện xã hội để góp phần phòng ngừa việc xâm phạm lợi ích hợp pháp của các chủ thể pháp luật trong hoạt động chức năng của CQNN nói chung, cơ quan tư pháp nói riêng.
Thứ hai, hoạt động cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý, đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ khác. Đây đều là các hoạt động xuất phát từ chức năng và nhiệm vụ thuộc nghề nghiệp luật sư. Các hoạt động này vừa giúp giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp, vướng mắc về pháp luật của cá nhân, tổ chức, pháp nhân, vừa góp phần giữ gìn trật tự, an ninh xã hội. Giá trị xã hội – nghề nghiệp của các hoạt động tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và dịch vụ hợp pháp khác phản ánh những cống hiến mang tính cộng đồng to lớn mà nghề luật sư đã đóng góp cho công cuộc xây dựng đất nước, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
* Vị trí độc lập của nghề luật sư
>>> Xem chi tiết tại bài viết: Phân tích tính độc lập của nghề luật sư
* Tính chuyên nghiệp của nghề luật sư
Thuộc tính chuyên nghiệp của nghề luật sư là sự kết hợp đồng thời của hai cơ chế truyền thống và phi truyền thống. Từ góc nhìn truyền thống thì nghề luật sư là nghề nghiệp độc lập, đặc thù trong xã hội nên người hành nghề và tổ chức hành nghề phải đáp ứng đúng, đủ và đạt yêu cầu chặt chẽ các quy định pháp luật. Cụ thể, người muốn được hành nghề phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện, nguyên tắc và yêu cầu về năng lực, phẩm chất, chuyên môn nghiệp vụ cùng các kỹ năng làm việc phù hợp. Còn các tổ chức hành nghề phải tuân thủ các quy định của pháp luật luật sư và pháp luật liên quan khi tham gia hoạt động ở thị trường dịch vụ pháp lý luật sư. Pháp luật Việt Nam ghi nhận quyền cung cấp dịch vụ pháp lý có thù lao và ràng buộc trách nhiệm pháp lý của luật sư về chất lượng dịch vụ cung cấp cho thị trường và người sử dụng dịch vụ. Đây là một trong số cơ sở về sự chuyên nghiệp của nghề luật sư.
Góc nhìn phi truyền thống (quản trị hiện đại), có thể đánh giá tính chất chuyên nghiệp của cá nhân, Tổ chức hành nghề luật sư ở năng lực, hiệu quả quản trị hoạt động hành nghề, dù theo phương thức hành nghề cá nhân hay trong khuôn khổ tổ chức. Đối với cá nhân, tính chuyên nghiệp của người hành nghề dựa trên tiêu chí đáp ứng khung năng lực của người hành nghề luật sư và kỹ năng làm việc ở thế kỷ XXI.
Khung năng lực luật sư là hệ thống cụ thể hóa các hành vi/hoạt động nghề nghiệp cần thiết đối với năng lực nghề nghiệp ở các cấp bậc khác nhau áp dụng cho vị trí nghề nghiệp luật sư.
Nghề luật sư hiện nay vẫn dựa trên khung năng lực nghề nghiệp của “Mô hình năng lực KSA” theo đó, Knowledge – Kiến thức mà luật sư được đào tạo, tự nghiên cứu hoặc tích lũy từ thực tế; Skills – Kỹ năng, là khả năng xử lý công việc thực tế thông qua các kỹ năng nghề nghiệp và làm việc của luật sư đã được rèn luyện, trải nghiệm, trau dồi và tích lũy thành kinh nghiệm nghề nghiệp quý báu; Attitude – Thái độ, là cách nhìn nhận/tư duy về công việc, nhiệm vụ, đồng nghiệp, cộng đồng và các đối tượng nghề nghiệp khác của nghề luật sư.
Điểm nhấn quan trọng khi đề cập đến tính chuyên nghiệp của nghề luật sư đó là, sau kỷ nguyên của công nghệ thông tin, nhân loại đang bước vào thời đại của tư duy. Trong một thế giới luôn biến động nhanh chóng thì kỹ năng tư duy ứng dụng trong thực tiễn hành nghề hiện đại là công cụ quan trọng của người hành nghề luật. Hàng loạt các kỹ năng làm việc thế kỷ XXI (tư duy phê phán và kỹ năng giải quyết vấn đề; kỹ năng trao đổi và cộng tác; tính sáng tạo và kỹ năng phát kiến; văn hóa công nghệ và thông tin truyền thông; kỹ năng học vấn thông tin và phương tiện…) phải được tích hợp với kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ luật sư để tạo thành tính chuyên nghiệp của nghề trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.
>>> Xem thêm: Sứ mệnh và chức năng xã hội của luật sư
Tính chuyên nghiệp của tổ chức nghề luật sư được đo lường bởi năng lực đổi mới, hoàn thiện hệ thống quản trị tổ chức hành nghề phù hợp với xu thế hội nhập nhanh vào môi trường khoa học công nghệ tiên tiến, kết hợp với khai thác tích cực thương hiệu nghề nghiệp đã xây dựng và phát triển bền vững tại thị trường dịch vụ pháp lý Việt Nam. Các Tổ chức hành nghề luật sư trong những thập niên tiếp theo của thế kỷ XXI hoàn toàn có thể phải đối diện với những thách thức theo một cách chưa từng có tiền lệ. Vì vậy, một trong những tư duy quản trị có ý nghĩa quan trọng cho sự chuyên nghiệp là “tạo dựng một tổ chức hành nghề luôn linh hoạt như bản thân sự thay đổi”[7] và xây dựng môi trường, văn hóa làm việc phát huy tối đa năng lực làm việc, sáng tạo, cống hiến của mỗi thành viên trong Tổ chức hành nghề luật sư.
[1] Học viện Tư pháp, Đạo đức nghề luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2011, tham khảo Chương 1 (Nghề luật), từ tr. 17 đến tr. 26.
[2] Điều 2, 22 LLS năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012). Quy tắc 1 (Sứ mệnh của luật sư) Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam năm 2019.
[3] Điều 3 LLS năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012).
[4] Nguồn điều chỉnh hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý LS là pháp luật theo nghĩa rộng, bao gồm pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia; tập quán pháp; công lý, lẽ công bằng; Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp. Bên cạnh đó, hoạt động nghề nghiệp của LS còn phải tuân thủ nội quy, quy chế của tổ chức xã hội – nghề nghiệp, nơi có chức năng quản lý nội bộ hoạt động hành nghề của LS.
[5] Nguyễn Ngọc Bích, Tư duy pháp lý của luật sư, Nxb. Trẻ, 2015, tr. 15. “Tư duy pháp lý là cách thức suy nghĩ của luật sư để tìm ra giải pháp cho một vụ tranh chấp phù hợp với luật lệ”.
[6] Phạm Đình Nghiệm, Nhập môn Logic học, Nxb. Đại học Quốc gia, Tp. HCM, 2008, tr. 35-42.
[7] Gary Hamel – Bill Breen, The future Management (Tương lai của quản trị), Hoàng Anh, Phương Lan dịch, Nxb. Công Thương, 2011, tr. 83.
Để lại một phản hồi