Khái niệm, yêu cầu và nội dung của chính sách cạnh tranh

Chuyên mụcLuật cạnh tranh Chính sách cạnh tranh

Chính sách cạnh tranh bao gồm tất cả các biện pháp của Nhà  nước nhằm duy trì cạnh tranh, một mặt chủ động tạ  ra các tiền đề cho cạnh tranh, mở cửa thị trường, loại bỏ các barrier cản trở xâm nhập thị trường, mặt khác thực thi các biện pháp chống lại các chiến lược hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp.

Bài 3: Khái niệm chính sách cạnh tranh

Bài này nằm trong Phần I. Tổng quan về cạnh tranh và chính sách cạnh tranh của Chương I – Tổng quan chung về cạnh tranh, chính sách cạnh tranh và luật cạnh tranh.

Các bài khác tại Phần I

Các bài khác tại Phần II


1. Yêu cầu điều tiết của Nhà nước đối với cạnh tranh

Vai trò điều tiết của  Nhà nước đối với cạnh tranh là kết quả  của  sự nhận  thức đối với thị trường  và đối với cạnh tranh.  Mặc dù ngay  từ những ngày  đầu  khai sinh ra mô hình cạnh tranh tự do, nhà kinh tế học lỗi lạc Adam Smith đã đặt vai trò của Nhà nước trong mối quan hệ với cạnh tranh như một con chó canh cửa (watch dog) cho thị trường bằng chức  năng chống ngoại  xâm, đảm  bảo  trật tự xã hội và công bằng trong lợi ích. Nhưng sau  đó,  sự lên ngôi  của  bàn  tay vô hình đã  xoá mờ những cảnh báo  của  ông  đối với những biến  dạng của  thị trường.  Vì thế  vai trò của  Nhà nước  trở nên  mờ nhạt  đối với cạnh tranh.  Cho đến  nay, khi nhận  thức về tính hai mặt của cạnh tranh không còn nằm trong  các  lý thuyết  kinh tế kinh điển  hay hiện đại mà đã được  kiểm chứng bởi thực tế thị trường  thì yêu cầu  điều tiết của  Nhà nước lại càng trở nên  bức thiết.

Dưới góc  độ lý luận luật học,  vai trò điều tiết của  Nhà nước  đối với cạnh tranh  được xác lập dựa trên các  quan điểm cơ bản  sau  đây:

Thứ nhất, quan điểm về giới hạn  của  sự tự do.

Ngay  từ thời cổ  đại,  nhà  triết gia  Hecralit  đã  tuyên  bố  ta sẽ  giải phóng các  người bằng pháp luật. Tư tưởng về sự tự do không đồng nghĩa với tự do vô chính phủ đã được xây dựng  và hoàn thiện cùng với những đấu  tranh  của  loài người cho một xã hội công bằng và tốt đẹp  hơn. Theo đó, mọi sự tự do quá  trớn và không trật tự đều  tạo ra nguy cơ tiêu diệt tự do. Bởi hành  vi tự do quá  trớn của  một người có thể xâm hại tự do của người khác  và cuối cùng cả hai đều  bị mất tự do. Kinh tế thị trường  đòi hỏi phải có sự tồn tại của  tự do, có như thế các  nguồn lực thị trường  mới có thể vận hành  tốt và đem lại hiệu quả  cho sự phát  triển. Nhận thức về sự tự do luôn gắn  liền với nhu cầu phải gạt bỏ các  biểu hiện nhân  danh tự do để hủy hoại sự tự do. Sự xuất hiện của  Nhà nước và pháp luật sẽ  giải phóng mọi sự kiềm toả của  các  biểu  hiện bất chính  đó đối với tự do của  những người đang bị xâm hại.

Thứ hai, khi đứng  ngoài  đời sống thị trường,  các Nhà nước tư sản  đã nhận  thấy được sự bất lực của  bàn tay vô hình trước những thủ đoạn bất tận và bất chính do con người thực hiện để giành  giật lợi ích kinh tế trong  cạnh tranh.

Lý thuyết  về khả năng điều tiết thị trường  của  bàn tay vô hình dường như chỉ đem  lại hiệu quả  tối ưu cho  thị trường  khi các  quan hệ mà quyền lực của bàn tay vô hình điều kiển hoàn toàn lành mạnh, khi các nhà kinh doanh là những chính nhân quân tử thì các quy luật của  thị trường  mới có thể phát  huy tác dụng. Bàn tay vô hình của  thị trường chỉ có thể thưởng  cho  người giỏi giang tước đi lợi ích của  người yếu kém trong  kinh doanh, mà  không thể  trừng phạt những nhà  kinh doanh có các  toan  tính không lành mạnh. Các  cuộc khủng  hoảng kinh tế do những tập  đoàn độc  quyền vào cuối thế kỷ

19, những yêu sách đòi được  bồi thường do bị chơi xấu của  các  doanh nghiệp, v.v đã cảnh tỉnh các  Nhà nước tư sản,  buộc họ phải xuất hiện với bàn tay hữu hình của quyền lực công để duy trì trật tự trong cạnh tranh và bảo vệ những lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.

Thứ ba, thừa nhận  vai trò điều  tiết của  Nhà nước  nhưng không phủ  nhận  giá trị của

bàn tay vô hình mà Adam Smith đã đưa ra cách đây vài thế kỷ.

Vai trò điều  tiết có giới hạn  của  Nhà nước  là sự hỗ trợ từ phía công quyền cho  bàn tay vô hình của  thị trường.  Mọi biểu  hiện không lành mạnh không thể bị loại bỏ bằng quyền lực của bàn tay vô hình sẽ bị điều tiết bởi các thiết chế quyền lực của  bàn tay hữu hình của  Nhà nước.  Nói văn vẻ hơn,  cần  phải có cái bắt tay giữa quyền lực thị trường và công quyền trong việc điều tiết các  quan hệ cạnh tranh trên thị trường.  Có nghĩa  là, sự can thiệp của Nhà nước luôn phải tôn trọng các quy luật chung vốn có của nền kinh tế, tránh  gây nguy  cơ đe dọa  đến  sự tự do kinh doanh của  doanh nghiệp. Vì vậy, trình độ điều tiết của  Nhà nước đối với cạnh tranh phụ thuộc  vào sự khéo  léo trong việc xác định mức độ và sự tinh tế của các  phương pháp điều tiết mà Nhà nước sử dụng để tác động đến  các  quan hệ thị trường.

Cho đến  nay, tất cả các  quốc gia thừa nhận  và thực thi nền kinh tế thị trường đều  đã thừa  nhận  vai trò điều  tiết của  Nhà nước  đối với cạnh tranh.  Trong  các  lý thuyết  kinh tế hiện  đại hay  những nhà  chủ  thuyết  làm mới lại các  lý thuyết  kinh tế cổ  điển  cũng đã khẳng định sự tất yếu và vai trò không thể thiếu của  Nhà nước  trong  đời sống kinh doanh. Sự khác  nhau  chỉ là những nguyên tắc  được  đặt  ra trong  việc cân  nhắc mức độ can  thiệp của  công quyền đối với thị trường  cạnh tranh.  Lịch sử phát  triển của  luật cạnh tranh trong gần  hai thế kỷ qua  đã cho thấy những thay đổi theo  chiều  hướng tích cực của  ý thức pháp lý trong  quan niệm và phương cách điều  tiết thị trường  của  Nhà nước hiện đại. Các biện pháp mà Nhà nước sử dụng để điều tiết cạnh tranh gọi chung là chính sách cạnh tranh.

2. Khái niệm chính sách cạnh tranh

Chính sách cạnh tranh bao gồm  tất cả  các  biện  pháp của Nhà  nước nhằm duy trì cạnh tranh, một mặt chủ động tạ  ra các tiền đề cho cạnh tranh, mở cửa thị trường, loại bỏ các  barrier cản trở xâm nhập thị trường, mặt khác thực thi các biện pháp chống lại các chiến lược hạn chế  cạnh tranh của các doanh nghiệp. Khái niệm chính sách cạnh tranh theo cách hiểu này bao gồm cả pháp luật, cơ chế bảo đảm thực hiện, cũng như những biện pháp kinh tế kích thích cạnh tranh  trên thị trường.

Có một cách hiểu chính  sách cạnh tranh  theo  nghĩa  hẹp,  theo  đó nó bao  gồm  các quy tắc và quy định  nhằm thúc  đẩy  cạnh tranh  trong  một nền  kinh tế quốc dân,  một phần thông  qua  việc phân bổ có hiệu quả  hơn nguồn tài nguyên. Với cách hiểu này, pháp luật cạnh tranh  là nội dung cơ bản  của chính  sách cạnh tranh.  Nó bao  gồm  các quy định chống các  hành  vi cạnh tranh  không lành mạnh và những biện  pháp chống các  hành  vi hạn  chế  cạnh tranh.

Trong phạm vi của  nội dung này, chính  sách cạnh tranh  được  giới thiệu theo  nghĩa rộng, bao gồm tổng hợp các biện pháp xây dựng môi trường cạnh tranh trong đời sống kinh tế, các  biện  pháp duy trì trật tự cạnh tranh  lành mạnh, bảo  vệ lợi ích chính  đáng của  doanh nghiệp và người tiêu dùng. Trong đó,  nội dung quan trọng  của  pháp luật cạnh tranh với hai bộ phận cấu thành  cơ bản là pháp luật chống các hành  vi cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật chống các  hành  vi hạn  chế  cạnh tranh.

Theo nghĩa  rộng,  chính sách cạnh tranh được  xây dựng  dựa trên những cơ sở  khác nhau  sau  đây:

Một, chủ trương  phát  triển kinh tế của  quốc gia;

Hai, tình hình thực  tế của  đời sống kinh tế và tương  quan cạnh tranh  giữa các  thành phần kinh tế chính trên thị trường;

Ba, xu thế kinh tế quốc tế hiện đại;

Bốn, tập quán kinh doanh truyền  thống  của  quốc gia.

Điều đó  làm cho  chính  sách cạnh tranh  của  các  nước  luôn  có  những nết  đặc  thù khác  nhau. Thậm chí  ngay  trong một quốc gia, chính sách cạnh tranh có nhiệm  vụ và nội dung được  thay đổi theo  từng thời kỳ.

Có thể thấy được  những vấn đề nói trên bằng việc khảo  cứu chính  sách cạnh tranh của một số quốc gia điển hình. Chính phủ Hoa Kỳ với chủ trương thừa nhận  tự do cạnh tranh,  ngăn ngừa  sự hình thành  độc  quyền và lạm dụng sức mạnh độc  quyền để xâm hại lợi ích của các  chủ thể khác  nên chính sách cạnh tranh của nước này bao  gồm luật chống độc  quyền, các  chính  sách kinh tế khác  (chính  sách thuế,  chính  sách bảo  hộ và hỗ trợ tài chính,  nghiên cứu, triển khai…) để  thúc đẩy và bảo  vệ cạnh tranh trên thị trường.  Trong khi đó, Việt Nam lại chủ  trương  xây dựng  thị trường  theo  định hướng xã hội chủ nghĩa  trong đó thành  phần kinh tế quốc doanh với sự hiện hữu của  các  doanh nghiệp Nhà nước  đóng vai trò chủ  đạo.  Do đó,  chúng ta đã xác định sự cần  thiết đối với độc  quyền của  doanh nghiệp Nhà nước trong  các  lĩnh vực thiết yếu, duy trì một thị trường  cạnh tranh  có mức độ. Bên cạnh đó, trong  thực thi pháp luật còn  tồn tại nhiều sự bất bình đẳng giữa các  doanh nghiệp thuộc  những thành  phần kinh tế khác  nhau, làm cho chính sách cạnh tranh  của  Việt Nam sẽ có nhiều  nội dung đặc  biệt.

Tại Nhật Bản, yếu tố truyền  thống  trong  tập quán kinh doanh đã có ảnh  hưởng lớn đến  chính  sách cạnh tranh.  Văn hoá  của  người  Nhật ủng  hộ các  doanh nghiệp thỏa thuận  với nhau, thống  nhất hành  động và chấp nhận  hạn chế cạnh tranh cho dù giá thị trường  cao  vì mục  đích  ổn định.  Mặt khác,  sau  chiến  tranh,  thị trường  Nhật bản  chưa thừa nhận  và phổ biến quan niệm cạnh tranh với nghĩa  là sự ganh đua  tự phát.  Họ cho rằng,  cạnh tranh là một hình thức quản lý của Nhà nước, chứ không phải là một nguyên tắc tổ chức  của nền kinh tế. Vì thế chính sách cạnh tranh phải tập trung vào việc Chính phủ  quản lý cho  được  những rủi ro và hạn  chế  cạnh tranh  quá mức,  Chính  phủ  phải kiểm soát  sự gia nhập thị trường của doanh nghiệp để xây dựng  cạnh tranh bằng cách xác định và cân  đối quan hệ cung cầu20.

Về vai trò của chính sách cạnh tranh, tùy thuộc  vào điều kiện kinh tế xã hội, mỗi quốc gia khác  nhau  sẽ trao cho chính sách cạnh tranh những nhiệm  vụ khác  nhau.Với sự ổn định về đầu  tư, về trình độ công nghệ và nhịp độ tăng  trưởng  kinh tế, chính sách cạnh tranh của Hoa Kỳ tập trung vào các nhiệm vụ tăng  phúc lợi cho người tiêu dùng và bảo vệ quá  trình cạnh tranh,  tăng  hiệu quả  kinh tế.

Đối với Việt Nam, công cuộc đổi mới diễn ra xấp xỉ hai mươi năm,  tuổi đời thị trường còn  quá  non  trẻ, các  thiết chế  của  thị trường  chưa  hình thành  đầy  đủ  và chưa  đồng bộ. Do đó, chính sách cạnh tranh còn tập trung vào việc xây dựng  một thị trường  cạnh tranh thực sự và hướng tới việc hình thành  dần  các  thiết chế  cần thiết để duy trì và bảo vệ môi trường  cạnh tranh  lành  mạnh. Các  nhiệm  vụ nổi bật  trong  quá  trình đó là thu hút đầu  tư để hình thành  thị trường  cạnh tranh;  phân bổ các  yếu tố sản  xuất một cách tối ưu, chuyển nguồn lực xã hội từ nơi kém hiệu quả  sang nơi hiệu quả  hơn; xây dựng môi trường kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng; điều chỉnh hành  vi cạnh tranh của các doanh nghiệp; bảo  vệ người tiêu dùng.

3. Nội dung của chính sách cạnh tranh

Với vai trò xây dựng  môi trường  cạnh tranh  sôi động, lành  mạnh để  khuyến khích cạnh tranh  phát  triển và bảo  vệ sự lành  mạnh của  thị trường,  chính  sách cạnh tranh luôn bao  gồm  các  nhóm  nội dung sau  đây:

a. Tạo lập và thúc đẩy các cơ hội bình đẳng và không phân biệt đối xử trong cạnh tranh của các tổ chức, cá nhân kinh doanh

– Xóa bỏ các phân biệt đối xử về mặt pháp lý giữa các doanh nghiệp thuộc  mọi thành phần kinh tế:

– Xóa bỏ cơ chế  hai giá giữa doanh nghiệp trong  nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;

– Xóa bỏ ưu đãi thuế  và tài chính  doanh nghiệp (xây dựng  nghị định chung về thuế thu  nhập doanh nghiệp, xóa  bỏ  mức  hạn  chế  chi phí quảng cáo  của  doanh nghiệp trong  nước);

– Đẩy mạnh công tác cổ phần hóa  doanh nghiệp Nhà nước;

– Đưa cạnh tranh  vào những lĩnh vực thuộc  độc  quyền Nhà nước  (lĩnh vực điện,  lĩnh vực hàng không, lĩnh vực viễn thông);

– Minh bạch hóa hoạt động của cơ quan Nhà nước các  cấp  để ngăn cản các  hành  vi can  thiệp vào môi trường  cạnh tranh  từ các  cơ quan Nhà nước;

– Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.

b. Bảo vệ và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh

– Xóa bỏ các  trợ cấp  của  Nhà nước  với doanh nghiệp, tách  hỗ trợ tín dụng thương mại ra khỏi hỗ trợ mang tính chính sách (thành lập Ngân  hàng chính sách chuyên cho vay xóa đói giảm nghèo);

– Tổ chức  nhiều giải thưởng tôn vinh doanh nghiệp hoạt động tốt (Sao  đỏ, Sao  vàng đất Việt);

– Cải cách hành  chính trong  việc đăng ký bảo  hộ đối tượng  sở hữu công nghiệp;

– Tạo nhiều  kênh  để doanh nghiệp khiếu nại về thủ tục hành  chính;

– Tạo nhiều diễn đàn để doanh nghiệp lên tiếng cải thiện môi trường cạnh tranh (qua

Phòng Thương  mại và Công  nghiệp, qua  hiệp hội ngành nghề);

– Xây dựng  các  thiết chế  mới để bảo  vệ cạnh tranh  trên các  thị trường  đặc  thù.

c. Ngăn chặn các hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường

– Luật hoá  các  nỗ lực chống lại hành  vi hạn  chế  cạnh tranh  và cạnh tranh  không lành mạnh.

– Ban hành  đầy đủ các  chế  tài để xử lý các  hành  vi vi phạm pháp luật;

– Xây dựng  các  thiết chế  mới để xử lý hành  vi hạn  chế  cạnh tranh.

d. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của doanh nghiệp và của người tiêu dùng bao gồm:

– Xây dựng  các  công cụ bảo  hộ mới được  quốc tế chấp nhận  (chống bán  phá  giá, chống trợ cấp,  tự vệ);

– Xây dựng  các  công cụ quản lý mới được  quốc tế chấp nhận  (thuế  tuyệt  đối, hạn ngạch thuế  quan, giấy phép xuất nhập khẩu  tự động);

– Xây dựng  các  tiêu chí miễn trừ trong  Luật Cạnh  tranh.

4. Chính sách cạnh tranh và vấn đề tự do hóa thương mại

Các định chế pháp lý của GATT và WTO sau  này hướng đến việc tập trung xây dựng một hệ thống kinh tế quốc tế trên cơ sở nền tảng  của nguyên lý thương mại tự do. Mục đích của thương mại tự do là giảm thiểu đến  mức thấp  nhất sự can thiệp của Nhà nước vào các  dòng chảy  thương mại xuyên biên  giới nhằm xây dựng  một thị trường  chung lành mạnh và bình đẳng. Xây dựng  và phát triển một thị trường thống  nhất không đồng nghĩa  với việc xoá bỏ những đặc  thù về lợi thế  thương mại của  các quốc gia. Ngược lại, thương mại tự do tạo cơ hội cho sự liên kết kinh tế giữa các  quốc gia bằng việc tập trung phát huy những lợi thế thương mại của mỗi nước. Bởi lẽ, không một quốc gia nào có tất cả các  điều kiện giống  nhau  về thiên nhiên,  khí hậu và thậm chí là tập quán kinh doanh. Những khác biệt ấy khiến cho mỗi quốc gia có được một lợi thế nhất định so với những nước khác.  Thương  mại tự do sẽ chuyển những lợi thế riêng ấy thành  năng suất tối đa  cho  tất cả  các  thị trường.  Điều này  chỉ có thể  có được  khi mọi rào  cản  thương mại được tháo bỏ để hàng hoá và tư bản có thể được lưu thông  tự do. Để xây dựng  một thị trường  tự do trên phạm vi toàn  cầu  hoặc khu vực, các  nghĩa  vụ pháp lý phát  sinh đối với các  quốc gia chủ yếu là xoá bỏ các  rào cản thuế quan cũng như phi thuế quan, nhằm đảm  bảo  cho hàng hoá  và dịch vụ của  thương mại tự do có thể tự do di chuyển qua  biên giới. Việc những rào cản  thuế  quan đang được  xoá bỏ đến  mức không còn sự khác  biệt giữa hàng hoá  nội địa và hàng nhập khẩu  và các  yếu tố liên quan đến  chi phí vận chuyển và thông  tin liên lạc ngày  càng giảm dần  dẫn  đến  sự gia tăng  các  cấp độ thương mại cũng như sự lệ thuộc  lẫn nhau giữa thị trường của các quốc gia21. Ngoài ra, quá  trình tự do hoá  kinh tế diễn ra hiệu quả  và đem  lại cho thị trường  của  các  quốc gia động lực phát  triển mới đòi hỏi sự mở cửa,  làm sạch  thị trường bằng các  công cụ chính  sách và pháp lý phù  hợp.  Chỉ khi nào  các  phần thị trường  ở mỗi nước  thực  sự lành mạnh thì thị trường  chung được  cấu  thành  từ đó mới có thể tránh  được  các  mầm mống đe doạ  đến  sự phát  triển. Về vấn đề này, có hai nội dung cần  làm rõ như sau:

Thứ nhất, sự thúc đẩy của  lợi nhuận và sự bảo  hộ của  chính  sách tự do hoá  thương mại là mầm mống nảy  sinh  các  toan  tính không lành  mạnh trên  thị trường,  bao  gồm những hành  vi phản cạnh tranh  của  các  doanh nghiệp, những tính toán  lạm dụng vị trí độc  quyền của  các  thế lực tài chính lớn và sự liên kết của  các  nhóm  doanh nghiệp hòng  thiết lập một sức mạnh chung chi phối thị trường.

Sự tồn tại và phát  triển của  những hành  vi nói trên sẽ  làm gia tăng  nguy  cơ đe doạ đến  quá  trình hình thành  thị trường  tự do bởi không có bất cứ nhà  đầu  tư tử tế nào  lại muốn  đồng tiền của mình mạo  hiểm trong môi trường kinh doanh bị vẩn đục  và không công bằng. Khi đó, các  lợi ích có thể có được  từ quá  trình tự do hoá  thương mại có thể bị vô hiệu nếu pháp luật và các chính sách cạnh tranh không thể bao trùm toàn bộ nền kinh tế hoặc tính khả thi bị hạn  chế.  Mặt khác,  với vai trò là cơ chế thiết lập, duy trì và bảo  hộ cạnh tranh,  chính  sách cạnh tranh  góp  phần thúc đẩy sự hình thành  các quan hệ thị trường  cho đời sống kinh tế, hình thành  cơ chế  tự điều chỉnh  của  thị trường…  là những thiết chế  cơ bản  của quá  trình tự do hoá  thương mại. Ngoài ra, sự xuất hiện các thế lực kinh tế quốc tế với tiềm lực tài chính  khổng lồ và dày dạn  kinh nghiệm thương trường  luôn là mối lo ngại cho các nước đang phát  triển về nhu cầu  xây dựng  một nền kinh tế tự chủ,  đòi hỏi các  quốc gia này phải thiết kế một chính  sách cạnh tranh  hợp lý, đủ mạnh và khôn  khéo  để  đối phó  với các  thủ đoạn không tử tế lợi dụng sự tự do hoá  để gia nhập hòng  chiếm  lĩnh và chi phối thị trường  của  mình. Nếu các  chính  sách kinh tế nói chung và chính  sách cạnh tranh  nói riêng không đủ mạnh thì quá  trình hội nhập kinh tế sẽ  chỉ là quá  trình một chiều  mà  thôi.   Tòa án tối cao  Hoa Kỳ đánh giá, chính sách cạnh tranh,  các  công cụ điều tiết cạnh tranh như là công cụ để bảo  trợ cho quá  trình tự do hoá  thương mại, và đạo  Luật Sherman như là một điều lệ toàn diện cho thương mại tự do nhằm mục đích bảo đảm  cạnh tranh  tự do và không gây cản  trở.

Thứ hai, khi thực thi chính sách thương mại tự do và chính sách cạnh tranh các  nước luôn phải đảm bảo  sự hỗ trợ hài hoà giữa hai công cụ này, theo đó, với nội dung là một hệ thống  hoàn chỉnh  bao gồm  luật lệ, quy định,  hiệp  định quốc tế và các  quan điểm đàm  phán được  Chính phủ  thông  qua để đạt được  mở cửa thị trường  hợp pháp, chính sách thương mại tự do sẽ là cơ sở để hình thành  một môi trường cạnh tranh sinh động. Ngược  lại, với vai trò duy trì và đảm  bảo  sự lành mạnh của  thị trường,  chính sách cạnh tranh  sẽ bảo  hộ cho quá  trình tự do và bảo  vệ tự do thương mại.


Các tìm kiếm liên quan đến Khái niệm chính sách cạnh tranh, chính sách cạnh tranh của việt nam hiện nay, chính sách cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, chính sách cạnh tranh quốc gia, khái niệm quy luật cạnh tranh, diễn đàn chính sách cạnh tranh quốc gia, vai tro cua canh tranh, cạnh tranh là, chính sách khoan hồng trong luật cạnh tranh

5/5 - (1 bình chọn)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền