Tìm hiểu về cơ cấu tổ chức (các cơ quan, đơn vị chuyên môn và trực thuộc) của Đoàn luật sư, nội quy Đoàn luật sư và thủ tục thành lập, giải thể Đoàn luật sư theo quy định của pháp luật hiện hành.
..
Những nội dung liên quan:
- Địa vị pháp lý của Đoàn luật sư
- Địa vị pháp lý của Liên đoàn luật sư Việt Nam
- Các cơ quan của Liên đoàn luật sư Việt Nam
- Thủ tục thành lập & chấm dứt hoạt động văn phòng giao dịch, chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư
- Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam
..
Các cơ quan, đơn vị chuyên môn và trực thuộc của Đoàn luật sư
Đại hội luật sư của Đoàn luật sư
Đại hội luật sư của Đoàn luật sư là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đoàn luật sư. Đại hội luật sư được tổ chức theo nhiệm kỳ năm (05) năm một lần. Đại hội luật sư có thể được triệu tập bất thường theo quyết định của Ban Chủ nhiệm để quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội luật sư; hoặc theo đề nghị của ít nhất một phần hai (1/2) số luật sư của Đoàn luật sư; hoặc theo đề nghị của Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Đại hội luật sư được triệu tập theo hình thức Đại hội toàn thể hoặc Đại hội đại biểu tùy thuộc vào số lượng thành viên của Đoàn luật sư.
Số lượng đại biểu của Đại hội đại biểu luật sư do Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư quyết định trên nguyên tắc bảo đảm đại diện đầy đủ cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của toàn thể luật sư thành viên của Đoàn luật sư.
Đại biểu Đại hội đại biểu Đoàn luật sư phải là các luật sư có phẩm chất đạo đức, có trách nhiệm trong xây dựng và phát triển Đoàn luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, có uy tín trong đội ngũ luật sư của Đoàn luật sư, có trách nhiệm, khả năng đóng góp cho Đại hội; không phải là người đã bị xử lý kỷ luật trong nhiệm kỳ do vi phạm Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, Nội quy Đoàn luật sư hoặc đang bị Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư xem xét xử lý kỷ luật; không phải là người đang bị tạm giữ, tạm giam, truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc phân bổ cụ thể số lượng đại biểu Đại hội đại biểu Đoàn luật sư do Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư quyết định nhưng phải bảo đảm nguyên tắc phân bổ và tiêu chuẩn đại biểu quy định tại Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư triệu tập Đại hội luật sư.
Đại hội luật sư hợp lệ nếu có ít nhất hai phần ba (2/3) số đại biểu được triệu tập tham dự. Trong trường hợp không đủ hai phần ba (2/3) số đại biểu được triệu tập tham dự thì trong thời hạn ba mươi (30) ngày kể từ ngày triệu tập lần thứ nhất phải triệu tập Đại hội lần thứ hai. Đại hội triệu tập lần thứ hai hợp lệ khi có trên một phần hai (1/2) số đại biểu được triệu tập tham dự. Trong trường hợp Đại hội triệu tập lần thứ hai không đủ trên một phần hai (1/2) số đại biểu được triệu tập tham dự thì trong thời hạn ba mươi (30) ngày kể từ ngày triệu tập lần thứ hai phải triệu tập Đại hội lần thứ ba. Đại hội triệu tập lần thứ ba hợp lệ không phụ thuộc vào số lượng đại biểu tham dự.
Đại hội luật sư có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
– Thảo luận, thông qua báo cáo tổng kết hoạt động hành nghề của luật sư, hoạt động của Đoàn luật sư trong nhiệm kỳ và phương hướng, kế hoạch hoạt động của nhiệm kỳ tới;
– Thông qua báo cáo tài chính của Đoàn luật sư trong nhiệm kỳ;
– Thông qua Nội quy Đoàn luật sư hoặc sửa đổi, bổ sung Nội quy;
– Bầu Ban Chủ nhiệm, Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư;
– Bầu đại biểu tham dự Đại hội Đại biểu luật sư toàn quốc. Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư quyết định nội dung, chương trình, thành phần tham dự và thủ tục tiến hành Đại hội luật sư theo quy định của Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam và hướng dẫn của Hội đồng luật sư toàn quốc.
Nghị quyết và các quyết định của Đại hội luật sư được thông qua khi có trên một phần hai (1/2) số đại biểu có mặt tại Đại hội biểu quyết tán thành.
Chậm nhất là ba mươi (30) ngày làm việc trước ngày tổ chức Đại hội luật sư, Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư gửi Liên Đoàn luật sư và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Đoàn luật sư được thành lập Đề án tổ chức Đại hội, phương án xây dựng nhân sự bầu vào Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư (hoặc phương án nhân sự bầu bổ sung Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật, bầu thay thế Chủ nhiệm đối với Đại hội luật sư bất thường).
Ban Thường vụ Liên đoàn hướng dẫn về nội dung Đề án tổ chức Đại hội luật sư và phương án xây dựng nhân sự bầu vào các cơ quan của Đoàn luật sư và chỉ đạo Đại hội của Đoàn luật sư thực hiện đúng quy định của Điều lệ Liên Đoàn luật sư và nghị quyết, quyết định của Hội đồng luật sư toàn quốc.
Trong thời hạn bảy (07) ngày làm việc kể từ ngày kết thúc Đại hội luật sư, Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư báo cáo Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Đoàn luật sư được thành lập về kết quả của Đại hội luật sư kèm theo biên bản bầu cử, danh sách trích ngang của Chủ nhiệm, các thành viên Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư, nghị quyết và các quyết định của Đại hội.
Kết quả Đại hội luật sư được công nhận sau khi Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Đoàn luật sư được thành lập phê chuẩn.
Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư
Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư là cơ quan chấp hành của Đại hội luật sư và là cơ quan điều hành của Đoàn luật sư. Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư có nhiệm vụ tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết, quyết định của Đại hội luật sư và điều hành hoạt động của Đoàn luật sư.
Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư có Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên. Số lượng Phó Chủ nhiệm, Ủy viên của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư do Nội quy Đoàn luật sư quy định. Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư do Đại hội luật sư bầu ra, có nhiệm kỳ năm (05) năm theo nhiệm kỳ của Đại hội nhiệm kỳ Đoàn luật sư. Nhiệm kỳ của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư kết thúc khi Đại hội nhiệm kỳ của Đoàn luật sư bầu ra Ban Chủ nhiệm mới.
Thể thức bầu Ban Chủ nhiệm được áp dụng theo quy định tại khoản 4 Điều 7 của Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư quy định về quy trình đề cử, ứng cử, lập danh sách ứng cử viên và những vấn đề chi tiết khác liên quan đến việc bầu Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư theo hướng dẫn của Hội đồng luật sư toàn quốc. Luật sư tham gia Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư phải có đủ các tiêu chuẩn sau đây:
– Gương mẫu chấp hành quy định của pháp luật, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, Nội quy Đoàn luật sư;
– Có uy tín và khả năng tập hợp, đoàn kết luật sư trong Đoàn luật sư;
– Có năng lực quản lý, điều hành.
Luật sư thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không được ứng cử vào Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư:
– Đã bị Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư hoặc tổ chức khác mà luật sư đó tham gia xử lý kỷ luật trong nhiệm kỳ hoặc đang bị Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư xem xét xử lý kỷ luật;
– Đang bị tạm giữ, tạm giam, truy cứu trách nhiệm hình sự. Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư họp ít nhất một (01) lần trong một (01) tháng và có thể họp bất thường để quyết định những công việc đột xuất thuộc thẩm quyền của Ban Chủ nhiệm theo quyết định của Chủ nhiệm hoặc đề nghị của ít nhất hai phần ba (2/3) số thành viên Ban Chủ nhiệm.
Cuộc họp Ban Chủ nhiệm do Chủ nhiệm Đoàn luật sư triệu tập. Trong trường hợp Chủ nhiệm Đoàn luật sư không triệu tập họp Ban Chủ nhiệm theo định kỳ nhiều lần hoặc theo đề nghị của ít nhất một phần hai (1/2) số thành viên Ban Chủ nhiệm thì Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam có quyền chỉ định một Phó Chủ nhiệm triệu tập và chủ trì cuộc họp của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư.
Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư làm việc theo nguyên tắc tập thể, quyết định theo đa số. Cuộc họp Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư hợp lệ nếu có ít nhất hai phần ba (2/3) số thành viên Ban Chủ nhiệm tham dự. Quyết định của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư được thông qua khi có trên một phần hai (1/2) số thành viên Ban Chủ nhiệm có mặt tại cuộc họp biểu quyết tán thành. Trong trường hợp biểu quyết có số phiếu bằng nhau thì vấn đề được quyết định theo ý kiến của bên có phiếu của Chủ nhiệm hoặc của Phó Chủ nhiệm chủ trì cuộc họp Ban Chủ nhiệm.
Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
– Cấp hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận tập sự hành nghề luật sư và quản lý tập sự hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật; đăng ký gia nhập và tổ chức kết nạp luật sư; chuyển, tiếp nhận luật sư từ Đoàn luật sư khác; nhận hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và gửi Sở Tư pháp; đề nghị Bộ Tư pháp thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư; đề nghị Liên đoàn Luật sư Việt Nam cấp, đổi, thu hồi Thẻ luật sư;
– Giám sát luật sư là thành viên, luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề và chi nhánh của Tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Điều lệ Liên đoàn, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư;
– Giám sát hoạt động của các Tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh, văn phòng giao dịch của Tổ chức hành nghề luật sư; yêu cầu Tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và đề nghị Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý; quyết định hoặc đề nghị khen thưởng đối với Tổ chức hành nghề luật sư;
– Phân công Tổ chức hành nghề luật sư cử luật sư bào chữa trong các vụ án hình sự theo yêu cầu của Cơ quan tiến hành tố tụng;
– Tổ chức bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn nghiệp vụ, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp cho luật sư theo hướng dẫn của Liên đoàn Luật sư Việt Nam; tổ chức bồi dưỡng theo nhu cầu về nghiệp vụ chuyên môn, về kỹ năng quản trị, điều hành Tổ chức hành nghề luật sư;
– Hòa giải tranh chấp có liên quan đến hành nghề giữa luật sư với luật sư, giữa luật sư với Tổ chức hành nghề luật sư; giữa các Tổ chức hành nghề luật sư với nhau; giữa khách hàng với luật sư; giữa khách hàng với Tổ chức hành nghề luật sư;
– Xem xét và quyết định việc khen thưởng, kỷ luật đối với luật sư; – Tổ chức tổng kết, trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và thực hiện các biện pháp khác nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho luật sư;
– Tổ chức lấy ý kiến và tập hợp ý kiến đóng góp của luật sư trong việc xây dựng chính sách, pháp luật;
– Tổ chức, phân công luật sư của Đoàn luật sư tham gia các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý;
– Tổ chức các hoạt động hợp tác quốc tế theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Liên đoàn Luật sư Việt Nam; – Báo cáo Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về tổ chức, hoạt động của Đoàn luật sư và chất lượng đội ngũ luật sư của Đoàn theo quy định của pháp luật và theo hướng dẫn của Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam;
– Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
Hội đồng khen thưởng, kỷ luật
Đây là cơ quan chuyên trách xem xét, xác minh, kết luận và đề xuất khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư.
Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư là cơ quan tham mưu của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư trong công tác khen thưởng, kỷ luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo; do Đại hội luật sư bầu ra theo nhiệm kỳ của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư.
Thành viên Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư phải có các tiêu chuẩn sau đây:
– Có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành quy định của pháp luật, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư;
– Trung thực, khách quan, vô tư;
– Có uy tín trong Đoàn luật sư. Hội đồng khen thưởng, kỷ luật gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Hội đồng khen thưởng, kỷ luật do Hội đồng bầu ra trong số các thành viên của Hội đồng. Số lượng thành viên của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật do Đại hội luật sư quyết định.
Thể thức bầu và quy trình đề cử, ứng cử, lập danh sách ứng cử viên và các vấn đề chi tiết khác liên quan đến bầu Hội đồng khen thưởng, kỷ luật được áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 20 của Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
– Xem xét và đề nghị Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư quyết định các hình thức khen thưởng của Đoàn luật sư đối với luật sư, các đơn vị của Đoàn luật sư, các Tổ chức hành nghề luật sư; hoặc đề nghị Ban Chủ nhiệm trình Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng luật sư, các đơn vị của Đoàn luật sư, Tổ chức hành nghề luật sư;
– Xác minh, xem xét và đề nghị Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư quyết định các hình thức kỷ luật đối với luật sư;
– Thụ lý, xác minh, xem xét đơn, thư khiếu nại, tố cáo đối với luật sư, các cơ quan, đơn vị của Đoàn luật sư và đề xuất với Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư về việc giải quyết các đơn, thư đó.
Cuộc họp của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật hợp lệ khi có ít nhất hai phần ba (2/3) số thành viên của Hội đồng tham dự.
Hội đồng khen thưởng, kỷ luật làm việc theo nguyên tắc tập thể và quyết định theo đa số; trường hợp số phiếu ngang nhau thì phiếu của Chủ tịch Hội đồng là quyết định.
Các trường hợp miễn nhiệm, bãi nhiệm và thủ tục miễn, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật được áp dụng theo quy định tại các khoản 5, 6 và 7 Điều 21 của Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
Ngoài ra, Văn phòng Đoàn luật sư và các đơn vị chuyên môn do Đoàn luật sư thành lập để giúp Ban Chủ nhiệm triển khai thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn luật sư.
Đoàn luật sư có từ một nghìn (1000) luật sư thành viên trở lên có thể thành lập Chi nhánh Đoàn luật sư theo đơn vị quận, huyện hoặc khu vực để giúp Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư quản lý và tổ chức các hoạt động của luật sư trong khu vực. Chi nhánh Đoàn luật sư là đơn vị trực thuộc của Đoàn luật sư, hoạt động theo sự điều hành và chịu trách nhiệm trước Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư. Một thành viên của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư là Trưởng Chi nhánh Đoàn luật sư. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Chi nhánh Đoàn luật sư do Nội quy Đoàn luật sư quy định. Việc thành lập Chi nhánh Đoàn luật sư do Đại hội luật sư quyết định.
Nội quy Đoàn luật sư
Đoàn luật sư có Nội quy để quy định chi tiết những vấn đề thuộc nội bộ Đoàn luật sư. Việc thông qua, sửa đổi, bổ sung Nội quy thuộc thẩm quyền của Đại hội luật sư.
Nội quy Đoàn luật sư bao gồm những nội dung sau đây:
• Quy định cụ thể về cơ cấu thành viên, lề lối làm việc của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư; mối quan hệ giữa Ban Chủ nhiệm và Hội đồng khen thưởng, kỷ luật;
• Quy định về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, lề lối làm việc của Văn phòng và các đơn vị chuyên môn Đoàn luật sư; quy định về cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Đoàn luật sư, việc chỉ đạo, điều hành của Ban Chủ nhiệm đối với Chi nhánh Đoàn luật sư, Văn phòng và các đơn vị chuyên môn;
• Quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của luật sư thành viên đối với Đoàn luật sư; • Quy định chi tiết về thu, chi tài chính, quản lý tài sản của Đoàn luật sư;
• Quy định về quan hệ của Đoàn luật sư với Tổ chức hành nghề luật sư;
• Các quy định doĐiều lệ Liên đoàn Luật sư Việt NamgiaoNội quyĐoàn luật sư quy định.
• Các quy định của Nội quy Đoàn luật sư không được trái với quy định của pháp luật và Điều lệ Liên đoàn.
Trong thời hạn bảy (07) ngày làm việc, kể từ ngày thông qua hoặc sửa đổi, bổ sung Nội quy, Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư gửi Liên đoàn Luật sư Việt Nam toàn văn Nội quy kèm theo Nghị quyết thông qua hoặc sửa đổi, bổ sung Nội quy.
Thành lập, giải thể Đoàn luật sư
Thành lập Đoàn luật sư
Về điều kiện thành lập Đoàn luật sư: Có từ ba người sáng lập trở lên có Chứng chỉ hành nghề luật sư tại mỗi tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương.
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho phép thành lập Đoàn luật sư sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Giải thể Đoàn luật sư
Đoàn luật sư bị giải thể trong các trường hợp sau đây:
– Không còn đủ ba luật sư thành viên của Đoàn luật sư;
– Không tổ chức lại Đại hội theo quy định tại khoản 5 Điều 21 Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 137/2018/NĐ-CP);
– Hoạt động của Đoàn luật sư vi phạm nghiêm trọng pháp luật, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Trong trường hợp Đoàn luật sư bị giải thể thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giải thể Đoàn luật sư sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
Để lại một phản hồi