Địa vị pháp lý của Đoàn luật sư

Chuyên mụcLuật Luật sư Liên đoàn Luật sư Việt Nam

Phân tích địa vị pháp lý (nhiệm vụ, quyền hạn) của Đoàn luật sư theo quy định của pháp luật hiện hành.

..

Những nội dung liên quan:

..

Địa vị pháp lý của Đoàn luật sư

Ngay từ khi chính quyền cách mạng non trẻ mới thành lập, phải chống chọi với thù trong giặc ngoài, thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng khác, nhưng chỉ sau hơn một tháng công bố Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945, trong đó tạm thời cho duy trì các tổ chức đoàn thể luật sư theo Sắc lệnh ngày 25/5/1930, với những sửa đổi tiêu chuẩn theo hướng: Muốn được liệt danh vào bảng luật sư tại Tòa thượng thẩm Hà Nội hay Sài Gòn phải có đủ những điều kiện sau đây: “1. Có quốc tịch Việt Nam, bất luận nam nữ; 2. Có bằng cử nhân luật; 3. Đã làm luật sư tập sự trong ba năm (kể từ ngày tuyên thệ) ở một Văn phòng luật sư thực thụ trong nước Việt Nam. Những người đã làm luật sư tập sự ở Pháp có thể xin tính thời hạn tập sự ở Pháp nhưng chỉ được trừ nhiều nhất là 12 tháng; 4. Có hạnh kiểm tốt; và 5. Được bằng chứng rằng đã hết hạn tập sự và đủ tư cách làm luật sư thực thụ”.

Có thể nói, Sắc lệnh số 46/SL được ban hành thể hiện nhãn quan và bản lĩnh cực kỳ sắc bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc quán triệt chủ nghĩa Mác – Lênin về tính kế thừa cách mạng, trong đó có sự vận dụng mang tính sách lược các quy định pháp luật cũ, miễn là nội dung không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa. Chính sự vận dụng tài tình nguyên lý này nên cũng trong ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngay Sắc lệnh số 47/SL về việc cho phép áp dụng tạm thời các quy định pháp luật cũ theo nguyên tắc nêu trên.

Trong khi đó, giới luật gia, luật sư trong thời kỳ này cũng còn đang tranh luận về sự tiếp thu các tư tưởng pháp lý tiến bộ đó trên khía cạnh “lý luận pháp lý tự nhiên” (Droit nature)1 , nhất là cuộc tranh luận về “tư pháp độc lập”. Thậm chí, đã có một cuộc tranh luận trong nội bộ Bộ Tư pháp về vấn đề nên hay không nên xóa bỏ chế độ luật sư của Pháp để lại và thay thế bằng chế độ bào chữa viên nhân dân? Theo ghi chép của những người đương thời, cuộc đấu tranh về tư tưởng “giữ hay không giữ Đoàn luật sư” gay cấn đến mức độ chỉ có Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tầm nhìn chiến lược và nhãn quan sắc bén, tinh tường, đã đi đến quyết định vẫn giữ lại tổ chức luật sư.1 Điều này chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh đã phát triển biện chứng ở việc Người luôn phân biệt một cách rành mạch giữa thứ “khai hóa pháp lý” mang tính nô dịch của chế định luật sư thời Pháp thuộc, với việc kế thừa các giá trị tư tưởng văn minh pháp lý của nhân loại.

Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ngay từ khi thành lập chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân đã quan tâm điển chế hóa chế định luật sư thành chế định của Hiến pháp. Bởi lẽ, cùng với quan niệm coi “dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”2 , Người nhận thức luật sư với vai trò là người bảo vệ, giúp đỡ về mặt pháp lý cho người dân, đang thực hiện sứ mệnh thiêng liêng nhằm thực hiện một trong những quyền cơ bản của công dân là quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa cho mình. Suy rộng ra, nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về vai trò của luật sư trong phát triển dân chủ và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chính là nói đến vấn đề quyền con người được bảo đảm bằng pháp luật. Không thể nói đến dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nếu không đề cập đến một trong những chủ thể đóng vai trò quan trọng trong thể chế xã hội và pháp lý – đó là đội ngũ luật sư.

Thật vậy, xuất phát từ quan niệm: “Nghĩ cho cùng vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người”3 , Chủ tịch Hồ Chí Minh là người “khởi xướng nền chính trị và pháp quyền vì con người, cho con người và của con người”.4 Để thực hiện cho được tư tưởng nhân quyền bao la đó, Người đã cùng Đảng ta chỉ đạo việc xây dựng Hiến pháp năm 1946 – bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Đông Nam Á – chứa đựng những tinh hoa cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân của Đảng ta. Điều 67 của Hiến pháp năm 1946 quy định: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. Sau này, Điều 101 Hiến pháp năm 1959 cũng khẳng định nguyên tắc: “Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm”.

Đây là một trong những quyền tự do cơ bản của công dân và từ đây, chế định luật sư đã trở thành chế định Hiến pháp – làm nền tảng cho toàn bộ hoạt động của luật sư trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Xét về phương diện lịch sử, điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh là từ sự tiếp nhận có chọn lọc chế định luật sư dưới thời Pháp thuộc, tạm thời duy trì các yếu tố tích cực của chế định này, tiến tới khẳng định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong Hiến pháp. Chế định luật sư từ nay đã có được sự bảo đảm bởi đạo luật cơ bản của nước nhà và vai trò của luật sư trong cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng đã được khẳng định.

Sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với vai trò của luật sư trong thời kỳ mới giành chính quyền thể hiện thông qua việc chỉ đạo Bộ Tư pháp của Chính phủ liên hiệp lâm thời tiến hành tuyển lựa số Thẩm phán đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong số này có cả các luật sư cũ “tương đối sạch sẽ, không phạm tội ác gì lớn đối với nhân dân” và Hội đồng tuyển chọn có cả Trưởng Đoàn luật sư Hà Nội lúc bấy giờ là ông Nguyễn Huy Mẫn tham gia.1 Không những vậy, luật sư Nguyễn Văn Hưởng còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin cậy và bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Tư pháp và là một trong những người đầu tiên được Chủ tịch Hồ Chí Minh cấp giấy chứng minh “để liên lạc với các cơ quan hành chính, quân sự được dễ dàng”2 . Nhiều luật gia, luật sư tên tuổi khác như các ông Vũ Đình Hoè (Bộ trưởng Bộ Tư pháp), Trần Công Tường, Phan Anh, Vũ Văn Hiền cũng thường xuyên được Chủ tịch Hồ Chí Minh tham khảo ý kiến về các công việc quốc gia đại sự, về “mặt pháp lý của cuộc đấu tranh”, trong đó liên quan đến mặt trận đàm phán ngoại giao khi ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946…1 . Có thể nói, xung quanh Chính phủ liên hiệp lâm thời và Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn có vai trò đóng góp to lớn của đội ngũ luật gia, luật sư tên tuổi thời bấy giờ và đến lượt mình, các giá trị tư tưởng về pháp lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên, góp phần giải quyết các vướng mắc, bất đồng nảy sinh trong quá trình hoạt động tư pháp, nhất là liên quan đến cuộc tranh luận về vấn đề “tư pháp độc lập”.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã đặt ra những thách thức “ngàn cân treo sợi tóc” với chính quyền cách mạng còn non trẻ. Một trong những vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta quan tâm là làm thế nào bảo đảm được các quyền và tự do dân chủ của nhân dân trong điều kiện chiến tranh? Chế định luật sư trong thời chiến sẽ được thực hiện như thế nào?

Ngày 18/6/1949, trong điều kiện cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn hết sức quyết liệt, giữa bộn bề công việc của chính quyền cách mạng, trong khi Tổ chức hành nghề luật sư như quy định trước đây chưa có điều kiện thực tế để hoạt động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 69/SL, quy định “từ nay đến khi nào có thể lệ khác, trước các Tòa án thường và Tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ Tòa án binh tại mặt trận, bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư, bào chữa cho. Công dân do bị can đã tự chọn để bênh vực mình phải được ông Chánh án thừa nhận. Nếu bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án có thể, tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can, cử một người ra bào chữa cho bị can”. Điểm đặc biệt của chế định này là: (a) Bị can có quyền nhờ người bào chữa trước Tòa án; (b) Người bào chữa cho bị can có thể không nhất thiết phải là luật sư; (c) Người bào chữa này không được nhận tiền thù lao của bị can hay của thân nhân bị can. Từ Sắc lệnh số 69/SL nói trên, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 01/NĐ-VY ngày 12/01/19501 , quy định chi tiết chế độ bào chữa viên nhân dân. Khi thiết lập chế độ bào chữa viên nhân dân, do quy định người đứng ra bênh vực không được nhận tiền thù lao của bị can hay của thân nhân bị can, nên việc cấp phí về bào chữa được hướng dẫn chi tiết trong Nghị định số 885-HCTP ngày 04/6/1956 của Liên bộ Tài chính – Tư pháp (sau này được sửa đổi bởi Nghị định số 99-HCTP ngày 28/8/1957 của Liên bộ Tài chính – Nội vụ – Tư pháp).

Có thể nói, đây là thời điểm hình thành nên chế định bào chữa viên nhân dân đầu tiên ở nước ta và còn duy trì cho đến hiện nay. Chế định bào chữa viên nhân dân là một chế định đặc thù của một giai đoạn lịch sử cách mạng của nước ta, không giống với bất kỳ một chế định tương tự nào của các nước trên thế giới. Bộ Tư pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa theo chỉ đạo của Bác Hồ đã tự “kiểm điểm” là chúng ta chưa nhận thấy một cách sâu sắc tầm quan trọng của quyền tự do bào chữa trong chế độ dân chủ nhân dân của ta nói chung và trong nền tư pháp dân chủ nhân dân của ta nói riêng…, ý thức tôn trọng pháp luật của Nhà nước của chúng ta còn thiếu sót nhiều. Từ đó, Bộ Tư pháp khẳng định dưới chế độ dân chủ nhân dân, quyền bào chữa là một quyền tự do dân chủ trọng yếu trong các quyền tự do dân chủ của người công dân.

Đại hội luật gia dân chủ quốc tế họp năm 1956 đã nhận định, quyền tự do bào chữa là “thành trì cần thiết cho các quyền tự do khác”, xâm phạm đến quyền tự do bào chữa thì không thể nào thực hiện được các quyền tự do dân chủ khác, mặc nhiên thủ tiêu các quyền tự do đó.2 Có thể nói, chế định bào chữa viên nhân dân hoạt động trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp đã kịp thời phát huy tác dụng tích cực của nó trong việc tham gia và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trước Tòa án. Đó là nét đặc sắc chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nghề nghiệp luật sư trên thế giới.

Sau khi đất nước thống nhất, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, nghề luật sư ở Việt Nam phát triển chậm, trải qua nhiều thăng trầm. Chế định bào chữa viên nhân dân tiếp tục được duy trì, ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các Đoàn bào chữa viên nhân dân được thành lập đặt bên cạnh Tòa án. Trên cơ sở quyền Hiến định nêu trong Hiến pháp năm 1980, Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý đầu tiên cho việc hình thành chế định luật sư, làm cơ sở cho việc thành lập các Đoàn luật sư trên cả nước vào cuối thập niên 80 thế kỷ trước. Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã kế thừa, lần đầu tiên quy định về các tiêu chuẩn chặt chẽ để trở thành luật sư, khẳng định quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa (gọi chung là “quyền bào chữa”) ở Việt Nam được coi là quyền Hiến định, phù hợp với các Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế mà Việt Nam đã tham gia và ký kết từ năm 1982.

Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động nghề nghiệp luật sư nói chung và bảo đảm quyền bào chữa nói riêng đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm đúng mức. Vị trí, vai trò và chức năng xã hội của đội ngũ luật sư Việt Nam đã tạo được chỗ đứng trong xã hội, có được sự tin cậy nhất định từ phía các thiết chế quyền lực, quản lý nhà nước, các chủ thể xã hội và công dân. Trong một chừng mực nhất định, hoạt động nghề nghiệp luật sư đã góp một phần đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đóng vai trò ngày càng đậm nét trong quá trình dân chủ hóa hoạt động tố tụng, từng bước bảo đảm quyền con người trong đời sống tư pháp. Nhiều Cơ quan tiến hành tố tụng cấp trung ương và địa phương đã có nhận thức, đánh giá đúng đắn vai trò, trách nhiệm và sự tham gia của luật sư trong các vụ án hình sự, nên đã bước đầu tạo điều kiện thuận lợi cho việc luật sư tham gia tố tụng, nhiều kiến nghị của luật sư đã được giải quyết, nhiều bản án đã ghi nhận quan điểm bào chữa của luật sư, làm cơ sở hình thành phán quyết của Tòa án. Hoạt động của luật sư cũng cần được quản lý chặt chẽ, chuyên nghiệp hơn từ cấp trung ương đến địa phương. Do đó, sự ra đời của các Đoàn luật sư ở các địa phương trên toàn quốc trở thành nhu cầu cấp thiết.

• Đoàn luật sư là tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản.

• Tên của Đoàn luật sư bao gồm cụm từ Đoàn luật sư tỉnh (thành phố) và tên tỉnh (thành phố) trực thuộc Trung ương nơi Đoàn luật sư được thành lập.

• Đoàn luật sư được thành lập theo quy định của Luật Luật sư và Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

• Thành viên của Đoàn luật sư là các luật sư đã gia nhập Đoàn luật sư theo quy định của Luật Luật sư và Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

• Đoàn luật sư được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Luật sư, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Đoàn luật sư ban hành Nội quy để điều chỉnh quan hệ nội bộ của Đoàn luật sư.

• Đoàn luật sư là thành viên của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, có các quyền, nghĩa vụ thành viên Liên đoàn, được Liên đoàn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và chịu sự hướng dẫn, giám sát của Liên đoàn theo quy định của Luật Luật sư và Điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam quy định.

Đoàn luật sư giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện các hoạt động sau:

– Tham gia thực hiện Chiến lược truyền thông của Liên đoàn, phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác trong các hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội, khuyến khích việc sử dụng luật sư trong tố tụng, trong giao dịch dân sự và các giao dịch, dự án đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức…

– Tham gia các hoạt động hướng nghiệp nhằm giúp sinh viên luật có sự chuẩn bị tốt hơn cho dự định trở thành luật sư trong tương lai.

– Thực hiện các quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện đăng ký tập sự và gia nhập Đoàn luật sư đáp ứng yêu cầu minh bạch, thuận lợi, đúng pháp luật và Điều lệ.

– Tăng cường giám sát hoạt động tập sự để hoạt động này thực chất hơn, góp phần nâng chất lượng đầu vào của đội ngũ luật sư. – Phối hợp với Liên đoàn, các cơ quan liên quan tổ chức các kỳ thi đánh giá kết quả tập sự luật sư nghiêm túc, chặt chẽ nhằm đánh giá đúng năng lực của người tập sự.

– Phối hợp với Liên đoàn tổ chức thực hiện bồi dưỡng bắt buộc đối với luật sư, trong đó có bồi dưỡng về Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. – Tổ chức bồi dưỡng thường xuyên về nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng hành nghề, các kiến thức pháp luật về hội nhập quốc tế. Mặc dù kinh nghiệm và kỹ năng của luật sư hiện nay được phát triển chủ yếu qua thực tiễn hành nghề, Đoàn luật sư cũng có vai trò tích cực trong việc tổ chức các hoạt động bồi dưỡng chung (khóa học, hội thảo, tọa đàm…), nhờ thế mạnh tập hợp, kết nối được các nguồn lực của các tổ chức hành nghề và các luật sư có kinh nghiệm, uy tín, và kết hợp với các hoạt động hợp tác quốc tế của Đoàn.

– Đoàn luật sư có thể phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện chính sách, pháp luật để tạo hành lang pháp lý, khuyến khích, thúc đẩy và hỗ trợ cho việc mở rộng quy mô, nâng cao tính chuyên nghiệp và chuyên môn hóa trong tổ chức hành nghề, thông qua các hoạt động hội thảo, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm về kỹ năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề. Bên cạnh đó, Đoàn luật sư có thể thực hiện các hoạt động bồi dưỡng thường xuyên về pháp luật liên quan đến hội nhập quốc tế, tập hợp các nhóm luật sư hoạt động chuyên sâu về thương mại quốc tế để giao lưu, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm trong hành nghề và thực hiện các hoạt động khác phục vụ hội nhập.

– Tăng cường phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân thành phố, Sở Tư pháp…) trong hoạt động quản lý luật sư và hành nghề luật sư.

– Phối hợp với Liên đoàn trong các hoạt động thực hiện chế độ tự quản của Liên đoàn trong phạm vi cả nước và Đoàn luật sư tại địa phương. – Xem xét giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo về hoạt động hành nghề luật sư, thực hiện xử lý kỷ luật nghiêm minh theo quy trình chặt chẽ, dân chủ, đúng pháp luật và Quy chế xử lý kỷ luật do Liên đoàn ban hành, đồng thời đề cao trách nhiệm bảo vệ luật sư bị khiếu nại, tố cáo sai hoặc không thuộc các trường hợp vi phạm pháp luật, Điều lệ hoặc Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.

– Tiếp tục sử dụng có trách nhiệm, hiệu quả nguồn ngân sách của Đoàn luật sư (chủ yếu từ thu phí thành viên), tận dụng có hiệu quả các nguồn lực khác như sự hỗ trợ của nhà nước, các nguồn tài trợ đóng góp từ các tổ chức hành nghề, từ hoạt động hợp tác quốc tế… phục vụ lợi ích thiết thực của các luật sư thành viên.

Bên cạnh đó, Đoàn luật sư có vai trò, trách nhiệm phát động, tổ chức thực hiện các hoạt động:

– Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật: Cùng với việc báo cáo tuyên truyền, phổ biến pháp luật do các luật sư của Đoàn thực hiện tại các cơ quan, đoàn thể, địa phương, doanh nghiệp, trên các phương tiện thông tin đại chúng…, Đoàn luật sư trực tiếp tổ chức các hoạt động tuyên truyền về các quy định pháp luật mới ban hành có phạm vi ảnh hưởng rộng đến đời sống xã hội. Bản tin luật sư và website của Đoàn luật sư ngoài việc đưa các thông tin hoạt động của Đoàn, còn đăng tải những bài viết về những vấn đề pháp luật được quan tâm.

– Hoạt động tham gia tố tụng: Đoàn luật sư tập hợp, phản ánh các ý kiến của luật sư về hoạt động tham gia tố tụng, kiến nghị điều chỉnh các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng để tiếp tục tháo gỡ các rào cản, vướng mắc đang hạn chế quyền hành nghề hợp pháp của luật sư trong tố tụng; tiếp tục làm tốt công tác phân công bào chữa theo yêu cầu của Cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần nâng dần tỷ lệ số vụ án hình sự do Tòa án xét xử tại thành phố có luật sư tham gia.

– Hoạt động trợ giúp pháp lý: Cùng với các hoạt động trợ giúp pháp lý do các luật sư của Đoàn thực hiện tại trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, tại các Tổ chức hành nghề luật sư, Đoàn luật sư tiếp tục duy trì hoạt động trợ giúp pháp lý thường xuyên tại trụ sở Đoàn. Hoạt động trợ giúp pháp lý còn được lồng ghép trong các hoạt động phong trào của Đoàn.

– Hoạt động đóng góp xây dựng chính sách, pháp luật về cải cách tư pháp, cải cách hành chính, và hội nhập quốc tế: Tổ chức và tham gia các cuộc hội thảo, tọa đàm, góp ý bằng văn bản, tham gia ý kiến đối với các dự án luật và văn bản dưới luật trong quá trình soạn thảo; phản ánh, kiến nghị về những khó khăn, vướng mắc thực tiễn hoạt động luật sư trong khuôn khổ hoạt động giám sát chấp hành pháp luật của các Đoàn công tác của Quốc hội, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố…

Đoàn luật sư có nhiệm vụ, quyền hạn sau:

• Đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư trong hành nghề.

• Thực hiện rà soát, đánh giá hàng năm chất lượng đội ngũ luật sư; giám sát, phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác giám sát luật sư là thành viên, luật sư hành nghề trong Tổ chức hành nghề luật sư và chi nhánh của Tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam; xử lý kỷ luật đối với luật sư.

• Giám sát, phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác giám sát hoạt động của Tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh, văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư; yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và đề nghị Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý.

• Cấp Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề luật sư và giám sát người tập sự hành nghề luật sư; lập danh sách những người đủ điều kiện tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư gửi Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

• Nhận hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và gửi Sở Tư pháp; đề nghị Bộ Tư pháp thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư.

• Tổ chức đăng ký việc gia nhập Đoàn luật sư, tổ chức việc chuyển, tiếp nhận luật sư; đề nghị Liên đoàn Luật sư Việt Nam cấp, đổi, thu hồi Thẻ luật sư.

• Thực hiện bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng kỹ năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề luật sư.

• Giám sát việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư.

• Hòa giải tranh chấp giữa người tập sự hành nghề luật sư, luật sư với Tổ chức hành nghề luật sư; giữa khách hàng với Tổ chức hành nghề luật sư và luật sư.

• Quy định về mức phí gia nhập Đoàn luật sư, phí tập sự hành nghề luật sư trên cơ sở khung phí do Liên đoàn Luật sư Việt Nam ban hành.

• Báo cáo Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về đề án tổ chức đại hội, phương án xây dựng nhân sự Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật.

• Thực hiện nghị quyết, quyết định, quy định của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

• Tổ chức để các luật sư tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thực hiện trợ giúp pháp lý.

• Báo cáo Liên đoàn Luật sư Việt Nam về tổ chức, hoạt động của Đoàn luật sư, kết quả Đại hội; gửi Liên đoàn Luật sư Việt Nam nghị quyết, quyết định, nội quy, quy định của Đoàn luật sư theo quy định của Điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam hoặc khi được yêu cầu.

• Báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về tổ chức và hoạt động, kết quả Đại hội; báo cáo Cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi được yêu cầu; gửi Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nghị quyết, quyết định, quy định của Đoàn luật sư.

• Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo Điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

4.9/5 - (16883 bình chọn)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền