Các câu hỏi, tình huống pháp luật trong lĩnh vực dân sự và tố tụng hình sự

Bộ luật Tố tụng hình sự

Tổng hợp các câu hỏi, tình huống pháp luật trong lĩnh vực dân sự và tố tụng hình sự – sử dụng Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự (BTTHS) năm 2015 được biên soạn bởi Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật – Bộ Tư pháp.

 

Những nội dung liên quan:

 

Các câu hỏi, tình huống pháp luật trong lĩnh vực dân sự và tố tụng hình sự

84. Vừa rồi, chị Q có góp vốn với một người bạn để mua một căn nhà. Khi làm thủ tục chuyển nhượng, vì không muốn nhanh gọn, chị Q đồng ý cho bạn đứng tên căn nhà. Sau khi mua xong, chị Q muốn cho thuê ngôi nhà đó để kiếm lời, nhưng người bạn không nhất trí mà muốn để cho đứa em sử dụng, đến khi nào có lãi thì bán chia theo tỷ lệ góp vốn. Hai bên đã nảy sinh tranh chấp. Vì không am hiểu pháp luật nên chị Q muốn thông qua cơ quan có chức năng để bảo vệ quyền dân sự của mình. Đề nghị cho biết, trường hợp của chị Q được giải quyết theo quy định nào?

Trả lời:

Cá nhân, pháp nhân là chủ thể của quan hệ dân sự có thể tự bảo vệ quyền dân sự hoặc thông qua có quan có thẩm quyền.

Theo đó, cá nhân, pháp luật có thể bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền, như: Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân.

Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng.

85. Quyền dân sự là một quyền cơ bản của công dân do luật định. Đề nghị cho biết để xác lập quyền dân sự thì phải có những căn cứ nào ?

Trả lời:

Điều 1 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định những căn cứ để xác lập quyền dân sự bao gồm:

– Hợp đồng;

– Hành vi pháp lý đơn phương;

– Quyết định của Toà án, cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của luật;

– Kết quả của hoạt động sáng tạo ra các đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ;

– Chiếm hữu tài sản;

– Sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật;

– Bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật;

– Thực hiện công việc không có uỷ quyền;

– Căn cứ khác do pháp luật quy định.

86. Có những nguyên tắc nào bảo đảm cho việc thực hiện quyền dân sự của công dân?

Trả lời:

Cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình, không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự hoặc không thuộc các trường hợp mà pháp luật quy định bị giới hạn quyền dân sự.

Theo đó, cá nhân, pháp nhân khi thực hiện quyền dân sự phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau đây:

– Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.

– Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện quyền dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.

– Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của mình một cách thiện chí, trung thực.

– Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

– Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.

Bên cạnh đó, cá nhân, pháp nhân còn phải tuân thủ quy định của pháp luật về giới hạn việc thực hiện quyền dân sự. Đó là không được lạm dụng quyền dân sự của mình để gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc để thực hiện mục đích khác trái pháp luật. Trường hợp cá nhân, pháp nhân không tuân thủ quy định nêu trên thì Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác căn cứ vào tính chất, hậu quả của hành vi vi phạm mà có thể không bảo vệ một phần hoặc toàn bộ quyền của họ, đồng thời có thể áp dụng chế tài do luật định; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

87. Đề nghị cho biết năng lực pháp luật dân sự là gì và bao gồm những nội dung gì?

Trả lời:

* Năng lực pháp luật dân sự là gì:

Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.

Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.

Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.

* Những nội dung của năng lực pháp luật dân sự của cá nhân:

– Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.

– Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản.

– Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.

Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

88. Xin hỏi để xác định một cá nhân là người đã thành niên hay chưa thành niên thì dựa vào những căn cứ nào?

Trả lời:

Tuổi của cá nhân là tiêu chí xác định cá nhân đó là người đã thành niên hay chưa thành niên. Trong đó:

– Người thành niên là người đủ mười tám tuổi trở lên; người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

– Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. Theo đó, giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.

Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

Người chưa thành niên phạm tội

89. Xin hỏi các phương thức để bảo vệ quyền dân sự được thực hiện theo quy định nào?

Trả lời:

Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của pháp luật dân sự, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Theo đó, có các phương thức sau đây để bảo vệ quyền dân sự:

– Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình;

– Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;

– Buộc xin lỗi, cải chính công khai;

– Buộc thực hiện nghĩa vụ;

– Buộc bồi thường thiệt hại;

– Hủy bỏ quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức.

– Các yêu cầu khác theo quy định của luật.

90. Trường hợp nào thì một cá nhân sẽ được coi là mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Việc thực hiện quyền dân sự của họ như thế nào?

Trả lời:

Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật thực hiện.

Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

91. Anh K là đối tượng nghiện ma túy lâu năm, mỗi khi lên cơn nghiện, K thường trộm đồ của nhà, của hàng xóm đem bán lấy tiền, rồi mua ma túy về hút hít. Một số người đã khuyên gia đình đến xin Tòa án tuyên bố K bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với mục đích xác định người đại diện theo pháp luật cho K, nhằm bảo vệ các tài sản của gia đình và của K. Vậy trường hợp này có đủ điều kiện xác định bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hay không?

Trả lời:

Theo quy định của Bộ luật dân sự thì một cá nhân bị coi là hạn chế năng lực hành vi dân sự phải đáp ứng các điều kiện do luật định. Cụ thể là người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Toà án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.

92. Lấy chồng đã hơn 08 năm nay nhưng chị G chưa có con. Nhiều lúc buồn, chị G định bàn với chồng xin một đứa con nuôi về nuôi. Rồi cứ nấn ná mãi, cũng có nơi giới thiệu cho chị nhưng cứ nghĩ khác máu tanh lòng, chị G lại thôi. Hôm nọ, nhân nhà có giỗ, được nghỉ việc nên chị nói mẹ chồng để chị đi chợ sớm. Trên đường, chợt chị nghe có tiếng khóc, nhìn quanh bên lề ruộng, chị thấy một đứa bé còn đỏ hỏn. Chị đem về nhà, một tuần sau đó chị có ý muốn đi khai sinh cho bé. Xin hỏi trong trường hợp này, chị G có thể khai sinh cho bé theo họ của mình hay của chồng được không?

Trả lời:

Quyền có họ, tên là một trong những quyền dân sự cơ bản của con người. Theo quy định của Bộ luật dân sự cá nhân có quyền có họ, tên (bao gồm cả chữ đệm, nếu có). Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó.

Việc khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi được thực hiện như sau:

– Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo họ của cha nuôi hoặc họ của mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo họ của người đó.

– Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghị của người có yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em, nếu trẻ em đang được người đó tạm thời chăm sóc.

– Việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.

– Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ.

– Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình.

93. Sau khi ly hôn chồng và được Tòa án xử cho quyền nuôi hai con, chị M muốn đổi họ của các con từ họ bố sang họ mẹ (họ của chị M). Đề nghị cho biết pháp luật quy định như thế nào về quyền thay đổi họ của cá nhân?

Trả lời:

Pháp luật quy định cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ trong trường hợp sau đây:

– Thay đổi họ cho con đẻ từ họ của cha đẻ sang họ của mẹ đẻ hoặc ngược lại;

– Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi họ cho con nuôi từ họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ sang họ của cha nuôi hoặc họ của mẹ nuôi;

– Khi người con nuôi thôi làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ cho người đó theo họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ;

– Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc của con khi xác định cha, mẹ cho con;

– Thay đổi họ của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình;

– Thay đổi họ theo họ của vợ, họ của chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại họ trước khi thay đổi họ theo họ của vợ, họ của chồng là người nước ngoài;

– Thay đổi họ của con khi cha, mẹ thay đổi họ;

– Các trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.
Đối với trường hợp thay đổi họ cho người từ đủ chín tuổi trở lên thì phải có sự đồng ý của người đó.

94. Quyền nhân thân là những quyền gì?

Trả lời:

Bộ luật dân sự quy định quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.

Việc xác lập, thực hiện, bảo vệ các quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải được người đại diện theo pháp luật của người này đồng ý theo quy định của pháp luật hoặc theo quyết định của Tòa án.

Việc xác lập, thực hiện các quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người vắng mặt có thông báo tìm kiếm, người bị tuyên bố mất tích, người đã chết phải được sự đồng ý của vợ, chồng hoặc con thành niên của người đó; trường hợp không có những người này thì phải được sự đồng ý của cha, mẹ của người vắng mặt có thông báo tìm kiếm, người bị tuyên bố mất tích, người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

95. Thời gian gần đây rộ lên hiện tượng sau khi đi xem bói về, một số người muốn thay đổi tên để mong được “đổi căn”. Xin hỏi pháp luật quy định cá nhân có quyền thay đổi tên như thế nào?

Trả lời:

Việc thay đổi tên của cá nhân được thực hiện theo quy định theo quy định cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi tên trong trường hợp sau đây:
– Theo yêu cầu của người có tên mà việc sử dụng tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó;;
– Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt;
– Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con;
– Thay đổi tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình;
– Thay đổi tên trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại tên trước khi thay đổi;
– Thay đổi tên của người được xác định lại giới tính;
– Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Việc thay đổi tên cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó.

96. Cha đẻ tôi dân tộc Kinh còn mẹ tôi dân tộc Nùng. Khi sinh tôi, được sự đồng ý của cha và họ hàng bên nội, mẹ tôi đã đi khai sinh cho tôi theo dân tộc của mẹ. Nay cha mẹ tôi đã ly hôn, tôi ở với cha, nên cha tôi và họ hàng muốn tôi làm thủ tục sửa dân tộc. Xin hỏi pháp luật có quy định cho phép tôi làm được không?

Trả lời:

Quyền xác định, xác định lại dân tộc được thực hiện theo quy định sau đây:

– Cá nhân có quyền xác định, xác định lại dân tộc của mình.

– Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thoả thuận của cha đẻ, mẹ đẻ; trường hợp không có thỏa thuận thì dân tộc của con được xác định theo tập quán; trường hợp tập quán khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn.

– Người đã thành niên; cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong các trường hợp sau đây:

+ Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ, nếu cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau;
+ Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp thôi không làm con nuôi của người thuộc dân tộc khác với dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ.

– Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên yêu cầu xác định lại dân tộc cho người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi trở lên thì phải được sự đồng ý của người chưa thành niên đó.

– Cấm lợi dụng việc xác định lại dân tộc nhằm mục đích trục lợi hoặc gây chia rẽ, phương hại đến sự đoàn kết của các dân tộc Việt Nam.

97. Với sự phát triển, bùng nổ như vũ bão của các phương tiện công nghệ thông tin hiện đại, nhất là mạng internet, facebook… đã làm nảy sinh hiện tượng sử dụng hình ảnh, thậm chí là những hình ảnh “sex”, ăn mặc mát mẻ mà không cần biết người trong tấm hình đó có đồng ý hay không! Đề nghị cho biết pháp luật đã quy định như thế nào về vấn đề này?

Trả lời:

Pháp luật quy định cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.

Việc sử dụng hình ảnh của người chưa thành niên, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị mất năng lực hành vi dân sự phải được sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

Việc sử dụng hình ảnh của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết phải được sự đồng ý của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những người này thì phải có sự đồng ý của cha, mẹ của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

Bên cạnh đó, cũng có trường hợp mà biệc sử dụng hình ảnh không cần có sự đồng ý của những người được quy định trên đây, đó là:

– Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng;

– Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng như hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và các hình thức sinh hoạt cộng đồng khác mà không tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.

Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại Điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh và bồi thường thiệt hại, nếu có.

98. Hiện nay, có một số báo lá cải vì muốn giật tít để hút khách đã đăng tải những hình ảnh, tiêu đề thái quá. Xin hỏi để ngăn chặn hiện tượng này, pháp luật quy định như thế nào về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân?

Trả lời:

Bộ luật dân sự quy định cá nhân có quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Theo đó, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ những thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.

Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu các thông tin này được cơ quan, tổ chức,cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.

Trong trường hợp không xác định được người đã tung tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị tung tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.

Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại, nếu có.

99. Một trong những quyền mới được Bộ luật sự ghi nhận ở nước ta là quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người. Đề nghị cho biết rõ hơn pháp luật đã quy định như thế nào về quyền này?

Trả lời:

Pháp luật quy định cá nhân có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc hiến mô, bộ phận cơ thể hoặc hiến xác của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác.

Cá nhân có quyền nhận mô, bộ phận cơ thể của người khác để chữa bệnh cho mình. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, pháp nhân có thẩm quyền về nghiên cứu khoa học có quyền nhận bộ phận cơ thể người, lấy xác để chữa bệnh, thử nghiệm y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác.

Nghiêm cấm việc nhận, sử dụng bộ phận cơ thể của người khác vì mục đích thương mại.

Việc hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể người, hiến, lấy xác phải tuân thủ theo các điều kiện và được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác và luật khác có liên quan.

100. Công dân có quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể. Xin hỏi pháp luật quy định nội dung, các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền này như thế nào?

Trả lời:

Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.

Khi phát hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì người phát hiện có trách nhiệm hoặc yêu cầu cá nhân, tổ chức khác có những điều kiện cần thiết để đưa ngay đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi gần nhất; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có trách nhiệm thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh theo đúng quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh.

Việc thực hiện kỹ thuật, phương pháp khám, chữa bệnh mới trên cơ thể người; việc gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép mô, bộ phận cơ thể người; việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất cứ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải được sự đồng ý của người đó và phải được tổ chức có thẩm quyền thực hiện.

Trường hợp người đó chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc là bệnh nhân bất tỉnh thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người giám hộ của người đó đồng ý; trường hợp có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân mà không chờ được ý kiến của những người nêu trên thì phải có quyết định của người có thẩm quyền của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

101. Xác định giới tính, chuyển đổi giới tính cũng là một quyền mới của cá nhân. Đề nghị cho biết, những trường hợp nào thì pháp luật bảo vệ, tôn trọng và đảm bảo cho thực hiện các quyền này?

Trả lời:

Cá nhân có quyền xác định lại giới tính, chuyển đổi giới tính. Việc thực hiện quyền này phải tuân theo quy định như sau:

– Về xác định lại giới tính: Cá nhân có quyền xác định lại giới tính. Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính. Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có trách nhiệm đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tich; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.

– Về chuyển đổi giới tính: Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.

102. Chiều nay, N có thư chuyển phát nhưng N lại nghỉ ốm. Cô giáo chủ nhiệm đã nhờ Q mang thư về cho bạn. Từ trước đến nay, N và Q chơi rất thân với nhau. Hai đứa có gì cũng tâm sự, chia sẻ với nhau, từ việc học, việc ăn, mặc rồi cả chuyện tình cảm tuổi học trò nữa. N không suy nghĩ gì nữa, nên về tới nhà, N vội quẳng cặp sách vào bàn rồi lôi thư của Q ra bóc xem. Xin cho viết pháp luật quy định N có được xem thư của Q hay không?

Trả lời:

Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình phải được người đó, các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp việc thu thập, lưu giữ, sử dụng hoặc công bố công khai thông tin này vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.

Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật định. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

103. Xin hỏi pháp luật quy định như thế nào về quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình của cá nhân?

Trả lời:

Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình.

Quyền sinh con của phụ nữ được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình.

Cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình hoặc luật khác có liên quan.

104. Để được làm người giám hộ của pháp luật thì cá nhân phải đáứng điều kiện và pháp luật quy định việc giám sát việc giám hộ như thế nào?

Trả lời:

Để được làm người giám hộc thì cá nhân phả có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám hộ; có điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

Ngoài ra, việc giám hộ phải thực hiện giám sát theo quy định sau:

– Người thân thích của người được giám hộ thỏa thuận cử người giám sát việc giám hộ để theo dõi, kiểm tra người giám hộ trong việc thực hiện giám hộ, xem xét, giải quyết những đề nghị của người giám hộ liên quan đến việc giám hộ.

Người thân thích của người được giám hộ là vợ, chồng, cha, mẹ, con của người được giám hộ; nếu không có ai trong số những người này thì người thân thích của người được giám hộ là ông, bà, anh ruột, chị ruột, em ruột của người được giám hộ; nếu cũng không có ai trong số những người này thì người thân thích của người được giám hộ là bác, chú, cậu, cô, dì của người được giám hộ.

– Trong trường hợp không có người thân thích của người được giám hộ hoặc những người thân thích không cử được người giám sát việc giám hộ thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi cư trú của người giám hộ cử người giám sát việc giám hộ.

– Người giám sát việc giám hộ phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

– Trường hợp cử người giám sát việc giám hộ liên quan đến quản lý tài sản của người được giám hộ thì người được cử làm người giám sát phải đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã.

105. Pháp luật quy định như thế nào về nơi cư trú của cá nhân? Trường hợp, một cá nhân cư trú ở nhiều nơi trong khoảng thời gian khác nhau thì xác định nơi cư trú của họ như thế nào?

Trả lời:

Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống.

Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân thì nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó đang sinh sống.
Trường hợp một bên trong quan hệ dân sự thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thì phải thông báo cho bên kia biết về nơi cư trú mới.

Đối với người chưa thành niên, nơi cư trú được thực hiện như sau:

– Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống.

– Người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định.

106. Giám hộ theo quy định của pháp luật hiện hành là gì? Những ai được coi là người được giám hộ?

Trả lời:

Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi là người giám hộ) được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử hoặc được Tòa án chỉ định để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi là người được giám hộ).

Trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu.
Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ.
Người được giám hộ bao gồm:

– Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ;
– Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con;
– Người mất năng lực hành vi dân sự;
– Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu.

107. Điều kiện để được làm người giám hộ và người giám hộ có những quyền, nghĩa vụ gì?

Trả lời:

Cá nhân, pháp nhân có đủ điều kiện được quy định tại Bộ luật này được làm giám hộ.

Trường hợp người thành niên lựa chọn người giám hộ cho mình bằng văn bản có công chứng, chứng thực thì khi họ ở tình trạng cần được giám hộ, người được lựa chọn là người giám hộ nếu người này đồng ý.

Một người có thể giám hộ cho nhiều người.

Điều kiện của cá nhân làm người giám hộ gồm có:

– Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

– Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ;

– Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác; người bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.

108. Em trai tôi bị mất năng lực hành vi dân sự, giờ nhà tôi chỉ có mình tôi là chị đã trưởng thành nhưng lại làm ăn ở xa. Để yên tâm, tối muốn có người giám hộ cho em tôi. Xin hỏi pháp luật quy định như thế nào về người giám hộ cho người chưa thành niên?

Trả lời:

Pháp luật quy định người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên mà không còn cả cha và mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu, được xác định như sau:

– Trong trường hợp anh ruột, chị ruột không có thoả thuận khác thì anh cả hoặc chị cả là người giám hộ của em chưa thành niên; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh, chị tiếp theo là người giám hộ;
– Trong trường hợp không có anh ruột, chị ruột hoặc anh ruột, chị ruột không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ; nếu không có ai trong số những người thân thích này có đủ điều kiện làm người giám hộ thì bác, chú, cậu, cô, dì là người giám hộ.

109. Người giám hộ có những quyền gì?

Trả lời:

Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có các quyền như sau:

– Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu cần thiết của người được giám hộ;
– Được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ;
– Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Đối với người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có quyền theo quyết định của Tòa án trong số các quyền quy định tại khoản 1 Điều này.

110. Trường hợp nào người mất năng lực hành vi dân sự có người giám hộ và khi nào thì phải cử hoặc chỉ định người giám hộ?

Trả lời:

Trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.

Trong trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ.

Trong trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.
Việc cử, chỉ định người giám hộ được thực hiện như sau:

– Trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương nhiên theo quy định tại Điều 52 và Điều 53 của Bộ luật này thì Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ hoặc đề nghị một pháp nhân thực hiện việc giám hộ.
Việc cử người giám hộ phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền, nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ.
Việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người được cử làm người giám hộ.

111. Người giám hộ có nghĩa vụ như thế nào trong trường hợp người được giám hộ chưa đủ mười lăm tuổi hoặc từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi?

Trả lời:

Pháp luật quy định nghĩa vụ của người giám hộ như sau:

– Đối với trường hợp người được giám hộ chưa đủ mười lăm tuổi:

+ Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ;
+ Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự;
+ Quản lý tài sản của người được giám hộ;
+ Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

– Đối với trường hợp người được giám hộ từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi:

+ Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự;
+ Quản lý tài sản của người được giám hộ;
+ Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

112. Pháp luật quy định như thế nào về việc quản lý tài sản của người được giám hộ?

Trả lời:

Theo quy định hiện hành thì việc quản lý tài sản của người được giám hộ thực hiện như sau:

– Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình; được thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản của người được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ.

Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và các giao dịch khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.

Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.

– Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được quản lý tài sản của người được giám hộ theo quyết định của Tòa án trong phạm vi được quy định tại khoản 1 Điều này.

113. Những trường hợp nào thì thay đổi người giám hộ để bảo vệ, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người được giám hộ?

Trả lời:

Người giám hộ được thay đổi trong các trường hợp như sau:

– Người giám hộ không còn đủ các điều kiện quy định tại Điều 48 của Bộ luật này;
– Người giám hộ là cá nhân chết hoặc bị Toà án tuyên bố mất tích, tổ chức làm giám hộ chấm dứt hoạt động;
– Người giám hộ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ;
– Người giám hộ đề nghị được thay đổi và có người khác nhận làm giám hộ.

Trong trường hợp thay đổi người giám hộ đương nhiên thì những người được quy định tại Điều 52 và Điều 53 của Bộ luật là người giám hộ đương nhiên; nếu không có người giám hộ đương nhiên thì việc cử, chỉ định người giám hộ được thực hiện theo quy định tại Điều 54 của Bộ luật.

114. Để đảm bảo tính khách quan, công bằng trong xét xử các vụ án hình sự, một số người cho rằng nếu đương sự, bị can, bị cáo có mối quan hệ máu mủ, huyết thống với những người có thẩm quyền điều tra, xét xử vụ án thì không được tham gia tố tụng. Xin hỏi pháp luật quy định những ai là người thân thích của người tham gia tôt tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì người thân thích của người tham gia tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là người có quan hệ sau đây với người tham gia tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng:

– Là vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, bố nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi;
– Là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột;
– Là cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột.
Ví dụ: anh K là thẩm phán của Tòa án nhân dân huyện; N là cháu gọi anh K là chú ruột, theo đó, N được xác định là người thân thích theo quy định nêu trên.

115. Đề nghị cho biết một người bị buộc tội thì có quyền bào chữa hay không? Nếu có thì quyền bào chữa được thực hiện theo quy định nào?

Trả lời:

Pháp luật quy định người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này.

Trường hợp người bị buộc tội thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích cho họ quyền được trợ giúp pháp lý; nếu họ đề nghị được trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.

116. Đấu tranh phòng, chống tội phạm là nhiệm vụ rất quan trọng, nhất là trong tình hình đất nước đang trong công nghiệp đổi mới theo hướng hội nhập quốc tế sâu rộng. Đề nghị cho biết pháp luật quy định như thế nào về trách nhiệm trong đấu tranh phòng, chống tội phạm?

Trả lời:

Trách nhiệm trong đấu tranh phòng, chống tội phạm được thực hiện theo quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Cụ thể như sau:

– Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ quan nhà nước phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm; phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Các cơ quan nhà nước phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật để xử lý và phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mọi hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực quản lý của mình; có quyền kiến nghị và gửi các tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội.

Thủ trưởng các cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm về việc không thông báo hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực quản lý của mình cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.

– Các tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng và chống tội phạm.
– Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân tham gia đấu tranh phòng và chống tội phạm.
– Các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ.
– Cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước có trách nhiệm phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì phải chuyển ngay các tài liệu, đồ vật có liên quan và kiến nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét, khởi tố vụ án hình sự.
– Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ.

117. Có người nói rằng do đặc thù Việt Nam có 54 dân tộc khác nhau nên khi một công dân phạm tội, trở thành bị can, bị cáo thì trong quá trình tham gia tố tụng, công dân đó có quyền sử dụng tiếng dân tộc của mình (nói hoặc viết). Xin hỏi có đúng như vậy không hay pháp luật chỉ quy định sử dụng tiếng Việt?

Trả lời:

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt. Đây là ngôn ngữ phổ thông của nước Việt Nam, do vậy về nguyên tắc khi một công dân nào đó tham gia tố tụng thì họ phải dùng tiếng nói hoặc chữ viết là tiếng Việt.

Tuy nhiên, hiện nay, trên thực tế không phải tất cả công dân Việt Nam đều sử dụng thành thạo Tiếng Việt, 54 dân tộc anh em đều có tiếng nói, thậm chí chữ viết của dân tộc mình. Do vậy, để đảm bảo quyền con người, quyền công dân, đảm bảo cho quá trình tố tụng không bị cản trở, khó khăn do gặp vấn đề về việc sử dụng ngôn ngữ, Bộ luật tố tụng hình sự mới ban hành năm 2015 đã quy định người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này phải có phiên dịch.

118. Đối với người bị oan sai thì được bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, oan sai trên thực tế hiện nay chủ yếu là đã thi hành án phạt tù một thời gian. Xin hỏi đối với trường hợp bị bắt, bị tạm giữ oan, trái pháp luật hoặc ngay từ giai đoạn khởi tố, điều tra đã có căn cứ cho rằng bị oan thì có được bồi thường hay không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 31 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì việc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện như sau:

– Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự.

– Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan, gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật

– Người khác bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại.

119. Pháp luật quy định rõ công dân có quyền khiếu nại, tố cáo và việc thực hiện quyền đó phải đảm bảo tuân thủ theo Luật Khiếu nại năm 2012, Luật Tố cáo năm 2012. Đề nghị cho biết nếu một cá nhân hay một pháp nhân đã bị khởi tố hình sự thì trong quá trình cơ quan có thẩm quyền đang tiến hành điều tra, xét xử, họ có quyền được khiếu nại, tố cáo hay không?

Trả lời:

Theo Điều 32 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì pháp luật phải bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định. Cụ thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó.

Cơ quan, người có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; gửi văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.

Trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo phải thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự. Pháp luật nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống người khác.

120. Gần đây, Tòa án nhân dân các địa phương thường hay tổ chức xét xử vụ án theo hình thức lưu động. Trước khi đi vào nội dung chính, có một đồng chí cán bộ Tòa án thường kiểm tra, điểm danh, công bố thành phần xét xử với nhiệm vụ của thư ký Tòa án. Xin hỏi pháp luật quy định Thư ký Tòa án có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm gì?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì Thư ký Tòa án được phân công tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn như sau:

– Phổ biến nội quy phiên toà;
– Kiểm tra sự có mặt của những người được Tòa án triệu tập; nếu có người vắng mặt thì phải làm rõ lý do;
– Báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được triệu tập đến phiên tòa và những người vắng mặt;
– Ổn định trật tự trong phòng xử án;
– Yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án;
– Ghi biên bản phiên toà;
– Tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh án Tòa án.
– Thư ký Tòa án phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Chánh án Tòa án về những hành vi của mình.

121. Ngày mai, vụ án ông K ở làng Đông bị đưa ra xét xử, nhưng đi đâu trong làng đều nghe mọi người kháo nhau ông K có họ hàng ở Tòa án, nên thế nào cũng bị xử nhẹ hơn. Cũng có một số người đã thắc mắc đáng lẽ phải quy định rõ người có mối quan hệ gia đình đến mức nào thì không nên tham gia vào quá trình xét xử, phải ngay từ giai đoạn khởi tố, điều tra. Vậy trong trường hợp này, pháp luật quy định giải quyết như thế nào?

Trả lời:

Để đảm bảo cho quá trình khởi tố, điều tra, xét xử được khách quan, công bằng, pháp luật đã quy định trong những trường hợp nào, giữa bị can, bị cáo với người tiến hành tố tụng có mối quan hệ gia đình đến phạm vi nào thì phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Theo đó, Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự năm 015 quy định người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu thuộc một trong những trường hợp:

– Đồng thời là bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện, người thân thích của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc của bị can, bị cáo.

– Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó.

– Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.

Như vậy, trong trường hợp trên nếu giữa ông K và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (thẩm phán được phân công xét xử vụ án, thư ký phiên tòa, điều tra viên, kiểm sát viên…) có mối quan hệ họ hàng thân thích thì họ phải từ chối tham gia quá trình tố tụng. Trường hợp không từ chối thì sẽ bị thay đổi.

122. Khi phát hiện hoặc có căn cứ để cho rằng có thể sẽ xảy ra tội phạm hoặc biết một người có khả năng sẽ vi phạm pháp luật thì cá nhân đó có quyền tố giác, báo tin về tội phạm hay không? Quyền của họ được thực hiện như thế nào?

Trả lời:

Tố giác hoặc báo tin về tội phạm vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của bất cứ cá nhân công dân nào nhằm góp phần giữ gìn an ninh trật tự xã hội, phòng ngừa vi phạm pháp luật và đấu tranh phòng chống tội phạm. Theo đó, việc tố giác, báo tin về tội phạm phải thực hiện theo quy định của Điều 55 Bộ luật tố tụng hình sự. Quyền, nghĩa vụ của họ được thực hiện theo quy định sau:

a) Về quyền:

– Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giữ bí mật việc tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ và người thân thích của họ;
– Được thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
– Khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

b) Về nghĩa vụ: Phải có mặt theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trình bày trung thực những tình tiết mà mình biết về sự việc.

123. Chiều tối nay, khi anh K đang ở nhà chuẩn bị cho đàn lợn ăn thì anh nhận được thông tin bị tố giác. Anh K chưa hiểu để phản bác lại việc bị tố giác thì mình có quyền và nghĩa vụ gì? Đề nghị cho biết rõ pháp luật quy định người bị tố giác có quyền hay không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì người bị tố giác có quyền như sau:

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến;
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
– Được thông báo về kết quả giải quyết tố giác, kiến nghị khởi tố;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

124. Đề nghị cho biết một người sẽ bị bắt trong trường hợp nào? Người bị bắt có những quyền gì?

Trả lời:

Pháp luật hiện hành quy định người bị bắt là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quy định truy nã.

Quyền của người bị bắt thực hiện theo quy định của Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự. Cụ thể như sau:

– Được nghe, nhận lệnh bắt khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp, quyết định truy nã;
– Được biết lý do mình bị bắt;
– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc bắt.

Đồng thời với quyền, người bị bắt có nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người theo quy định của luật.

125. Vậy những ai, người nào có quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong những trường hợp nêu trên? Liệu người thân thích của bị can, bị cáo có quyền đó hay không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì người có quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm:

– Kiểm sát viên.
– Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện của họ.
– Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự.

126. Sau khi bị bắt thì người đó có những quyền và nghĩa vụ như thế nào?

Trả lời:

Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.

Người bị tạm giữ có các quyền như sau:

– Được biết lý do mình bị tạm giữ; nhận quyết định tạm giữ, quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
– Tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa;
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc tạm giữ.
Người bị tạm giữ có nghĩa vụ chấp hành các quy định của luật về tạm giữ.

127. Bị can có gì khác so với người bị tạm giữ hay gọi như vậy để chỉ một người sắp được Tòa án đưa ra xét xử? Nếu khác thì họ có những quyền và nghĩa vụ như thế nào?

Trả lời:

Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.

Bị can có quyền:

– Được biết lý do mình bị khởi tố;
– Được thông báo, được giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
– Được nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định;
– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật, người định giá tài sản theo quy định;
– Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
– Được đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Bị can có nghĩa vụ:
– Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã;
– Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

128. Tôi nghe nói bộ luật hình sự mới quy định pháp nhân là doanh nghiệp kinh tế có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vậy đề nghị cho biết quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện theo quy định nào?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 60 Bộ luật tố tụng hình sự thì bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.

Theo đó, bị cáo có các quyền sau đây:

– Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định;
– Tham gia phiên toà;
– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
– Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, Điều tra viên tham gia phiên tòa;
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
– Đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi những người tham gia phiên tòa nếu được Chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;
– Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
– Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa;
– Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Bên cạnh quyền, bị cáo cũng có các nghĩa vụ như sau:
– Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã;
– Chấp hành quyết định, yêu cầu của Tòa án.

129. Đề nghị cho biết pháp luật quy định bị hại trong vụ án hình sự có những quyền và nghĩa vụ như thế nào?

Trả lời:

Điều 61 Bộ luật tố tụng hình sự quy định bị hại là cá nhân bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.

Theo đó, bị hại hoặc người đại diện của họ có các quyền và nghĩa vụ như sau:

a) Về quyền:

– Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
– Được thông báo về kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
– Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật, người định giá tài sản;
– Đề nghị hình phạt, mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường;
– Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và những người tham gia phiên tòa, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;
– Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền lợi cho mình;
– Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này;
– Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích khi bị đe dọa;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án.

b) Về nghĩa vụ:

– Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;
– Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Trường hợp bị hại chết, mất tích, mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thực hiện những quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định của pháp luật.
Cơ quan, tổ chức có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều này.

130. Hôm trước tôi có rủ bạn đi xem phiên tòa xét xử vụ án giết người đặc biệt nghiêm trọng. Tại phiên tòa đó, không chỉ có bị cáo mà hội đồng xét xử cũng có thông báo về việc tham dự của nguyên đơn dân sự? Tôi không hiểu rõ như thế nào được gọi là nguyên đơn dân sự và họ có những quyền và nghĩa vụ gì?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật tố tụng hình sự thì nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện của họ có quyền:

– Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Được thông báo về kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
– Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
– Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật, người định giá tài sản;
– Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường;
– Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi những người tham gia phiên tòa, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn; xem biên bản phiên tòa;
– Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường thiệt hại;
– Các quyền khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn dân sự có nghĩa vụ:

– Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại;
– Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

131. Ngày mai, chị M được triệu tập tới phiên tòa xét xử với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Xin cho biết pháp luật quy định như thế nào về quyền và nghĩa vụ của đương sự?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền và nghĩa vụ như sau:

* Về quyền:

– Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
– Tham gia phiên toà; phát biểu ý kiến, đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi những người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;
– Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
– Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Các quyền khác theo quy định của pháp luật.

* Về nghĩa vụ:

– Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình;
– Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

132. Đề nghị cho biết pháp luật quy định bị đơn dân sự trong vụ án hình sự có quyền và nghĩa vụ như thế nào?

Trả lời:

Quyền và nghĩa vụ của bị đơn dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự. Cụ thể như sau:

a) Về quyền:

– Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
– Chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn dân sự;
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
– Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án có liên quan đến việc đòi bồi thường;
– Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật, người định giá tài sản;
– Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi những người tham gia phiên tòa, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn; xem biên bản phiên tòa;
– Tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường thiệt hại;
– Các quyền khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

b) Về nghĩa vụ:

– Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại;
– Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

133. Đề nghị cho biết pháp luật quy định người làm chứng có những quyền và nghĩa vụ như thế nào?

Trả lời:

Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.

Do người làm chứng có vị trí, vai trò quan trọng đối với vụ án hình sự, nên pháp luật quy định trong một số trường hợp, có những không không được làm chứng. Cụ thể là:

– Người bào chữa của người bị buộc tội;
– Người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn.

Theo đó, người làm chứng có quyền:
– Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này.
– Yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình hoặc của người thân thích của mình;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc mình tham gia làm chứng;
– Được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh quyền, người làm chứng có nghĩa vụ:
– Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải;
– Khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, đến vụ án và lý do biết được các tình tiết đó.

Người làm chứng khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định Điều 381 hoặc Điều 382 của Bộ luật hình sự.

Cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc hoặc học tập có trách nhiệm tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng.

134. Lâu nay tôi thường nghe nhiều đến người làm chứng, nhưng hôm trước gặp anh bạn làm nhà báo cho biết anh đang đi tìm tư liệu để viết một bài tựa đề về người chứng kiến trong tố tụng hình sự. Nghe thấy rất lạ, vậy pháp luật đã quy định như thế nào về người chứng kiến?

Trả lời:

Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định người chứng kiến là cá nhân được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này.

Tương tự như người làm chứng, trong một số trường hợp cá nhân cũng không được làm người làm chứng, đó là:
– Người thân thích của người bị buộc tội và người tiến hành tố tụng;
– Người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức đúng sự việc;
– Người chưa thành niên;
– Có lý do khác cho thấy người đó không khách quan.
Người chứng kiến có các quyền như sau:
– Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này.
– Yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tuân thủ đúng quy định của pháp luật, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình hoặc của người thân thích của mình;
– Xem biên bản tố tụng, đưa ra nhận xét về hoạt động tố tụng mà mình chứng kiến;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc mình tham gia chứng kiến;
– Được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí theo quy định của pháp luật.
Đồng thời với quyền, người chứng kiến có các nghĩa vụ:
– Có mặt theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Chứng kiến đầy đủ hoạt động tố tụng được yêu cầu;
– Ký các biên bản về hoạt động mà mình chứng kiến;
– Giữ bí mật về hoạt động điều tra mà mình chứng kiến;
– Trình bày trung thực tất cả những tình tiết mà mình chứng kiến theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

135. Cứ nói đến người bào chữa thì mọi người lại nghĩ rằng đó là luật sư. Liệu như vậy đã đúng với quy định hay pháp luật có quy định khác đối với người bào chữa. Xin cho biết người bào chữa có những quyền và nghĩa vụ gì?

Trả lời:

Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cấp Giấy đăng ký người bào chữa.

Theo đó, người bào chữa có thể là: Luật sư; người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân; trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.

Để đảm bảo cho vụ án được xét xử khách quan, công bằng, pháp luật đã quy định rõ những người sau đây không được bào chữa:

– Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó;
– Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
– Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xoá án tích; đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng một vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau.

Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị buộc tội.

Người bào chữa có quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 119 của Bộ luật này.

136. Đối với người bị hại, họ là người bị thiệt thòi do bị thiệt hại về vật chất, tinh thần, thân thể, sức khỏe. Do vậy việc có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là cần thiết. Đề nghị cho biết người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại có quyền gì, nghĩa vụ gì?

Trả lời:

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người được bị hại, đương sự nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

Điều 69 Bộ luật tố tụng hình sự quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể là: Luật sư; người đại diện; bào chữa viên nhân dân; trợ giúp viên pháp lý.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có quyền:

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Yêu cầu giám định; yêu cầu định giá tài sản;
– Đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của bị hại và đương sự sau khi kết thúc điều tra;
– Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà; xem biên bản phiên tòa;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
– Có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại và đương sự có nghĩa vụ:
– Sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật vụ án;
– Giúp bị hại, đương sự về pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

137. Người bị tố giác mặc dù không phải là bị can, bị cáo nhưng khi tham gia tố tụng, họ cũng phải được bảo vệ. Xin cho biết người bị tố giác có được mời luật sư bào chữa cho mình hay không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 68 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố là người được người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố có thể là: Luật sư; bào chữa viên nhân dân; người đại diện; trợ giúp viên pháp lý.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, kiến nghị khởi tố có quyền:
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; có mặt khi đối chất, nhận dạng người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố có nghĩa vụ:
– Sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật vụ án;
– Giúp người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố về pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

138. Pháp luật quy định điều kiện của người giám định trong tố tụng hình sự như thế nào? Người giám định có quyền gì, nghĩa vụ gì?

Trả lời:

Người giám định là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực cần giám định, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu, người tham gia tố tụng yêu cầu theo quy định của pháp luật.

Người giám định có các quyền như sau:

– Tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến đối tượng phải giám định;
– Yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc kết luận;
– Tham dự vào việc hỏi cung, lấy lời khai và đặt câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định;
– Từ chối việc thực hiện giám định trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành giám định, các tài liệu cung cấp không đủ hoặc không có giá trị để kết luận, nội dung yêu cầu giám định vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình;
– Ghi riêng ý kiến của mình vào bản kết luận chung nếu không thống nhất với kết luận chung trong trường hợp giám định do một nhóm người giám định tiến hành;
– Các quyền khác theo quy định của Luật giám định tư pháp.
Người giám định có nghĩa vụ:
– Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Giữ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện giám định;
– Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật giám định tư pháp.

Người giám định kết luận gian dối hoặc từ chối kết luận giám định mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 381 hoặc Điều 382 của Bộ luật hình sự.

Người giám định phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:

– Đồng thời là bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện, người thân thích của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc của bị can, bị cáo;
– Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người phiên dịch, người dịch thuật, người định giá tài sản trong vụ án đó;
– Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó.

Việc thay đổi người giám định do cơ quan trưng cầu quyết định.

139. Đề nghị cho biết người định giá tài sản trong vụ án hình sự có quyền và nghĩa vụ gì trong quá trình tham gia tố tụng? Họ có thể bị thay đổi trong những trường hợp nào?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 71 Bộ luật tố tụng hình sự thì người định giá tài sản là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực giá, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng yêu cầu theo quy định của pháp luật.

Người định giá tài sản có các quyền sau đây:

– Tìm hiểu tài liệu của vụ án liên quan đến đối tượng phải định giá;
– Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc định giá;
– Từ chối việc thực hiện định giá trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành định giá, các tài liệu cung cấp không đủ hoặc không có giá trị để định giá, nội dung yêu cầu định giá vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình;
– Ghi riêng ý kiến kết luận của mình vào bản kết luận chung nếu không thống nhất với kết luận của Hội đồng;
– Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Người định giá tài sản có nghĩa vụ:
– Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Giữ bí mật điều tra mà mình biết được;
– Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Người định giá tài sản kết luận gian dối hoặc từ chối tham gia định giá mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 381 hoặc Điều 382 của Bộ luật hình sự.

Người định giá tài sản phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:

– Đồng thời là bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện, người thân thích của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc của bị can, bị cáo;
– Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó;
– Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó.

140. Một số vụ án có bị can, bị cáo hoặc đương sự khác có liên quan là người dân tộc thiểu số mà không biết nói hoặc nói chưa thành thạo tiếng việt, người nước ngoài thì cần phải có người phiên dịch, người dịch thuật. Xin hỏi pháp luật quy định như thế nào về người phiên dịch, người dịch thuật?

Trả lời:

Người phiên dịch, người dịch thuật là người có khả năng phiên dịch, dịch thuật và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt hoặc có tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt.

Người phiên dịch, người dịch thuật có quyền:

– Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
– Đề nghị cơ quan yêu cầu họ bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng hoặc của người thân thích của mình;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc phiên dịch, dịch thuật;
– Được cơ quan yêu cầu chi trả thù lao phiên dịch, dịch thuật và các chế độ khác theo quy định của pháp luật.
Người phiên dịch, người dịch thuật có nghĩa vụ:
– Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Phiên dịch, dịch thuật trung thực. Nếu phiên dịch, dịch thuật gian dối thì người phiên dịch, người dịch thuật phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 381 của Bộ luật hình sự;
– Giữ bí mật điều tra mà mình biết được khi phiên dịch, dịch thuật;
– Phải cam đoan trước cơ quan đã yêu cầu về việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Người phiên dịch, người dịch thuật phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
– Đồng thời là bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện, người thân thích của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc của bị can, bị cáo;
– Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản trong vụ án đó;
– Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó.

Việc thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật do cơ quan yêu cầu quyết định.

Những quy định của Điều này cũng được áp dụng đối với người biết dấu hiệu của người câm, người điếc, chữ của người mù.

141. Để đảm bảo xét xử một vụ án được công bằng, minh bạch, khách quan, đúng người, đúng tội thì cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm chứng minh. Vậy pháp luật có quy định rõ những vấn đề phải chứng minh hay không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh những vấn đề sau đây:

– Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội.
– Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội.
– Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo.
– Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
– Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
– Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.

142. Pháp luật quy định như thế nào về chứng cứ. Chứng cứ có thể được xác định từ nguồn nào và thu thập như thế nào?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự thì chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án.

Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn sau:

– Vật chứng;
– Lời khai, lời trình bày;
– Dữ liệu điện tử;
– Kết luận giám định, định giá tài sản;
– Biên bản về hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
– Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;
– Các tài liệu, đồ vật khác.

Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự.

143. Việc thu thập chứng cứ được thực hiện như thế nào và thông qua những biện pháp nào để bảo vệ được chứng cứ?

Trả lời:

Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.

Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.

Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.

Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này cung cấp, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này.

Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định của Bộ luật này thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Sau khi nghiên cứu, đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát thì Viện kiểm sát phải chuyển lại ngay cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

144. Bên cạnh chứng cứ, trong vụ án hình sự và điều tra vụ án hình sự, vật chứng cũng là nguồn, cơ sở quan trọng giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng xác minh, nhận định tội phạm. Xin hỏi vật chứng được pháp luật quy định như thế nào? Việc bảo quản vật chứng được thực hiện ra sao?

Trả lời:

Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền, vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.

Việc bảo quản vật chứng được thực hiện theo quy định sau đây:

a) Vật chứng phải được niêm phong, bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn và hư hỏng. Việc niêm phong, bảo quản vật chứng được thực hiện như sau:

– Đối với vật chứng cần được niêm phong thì phải niêm phong ngay sau khi thu thập. Việc niêm phong, mở niêm phong phải được tiến hành theo quy định của pháp luật và phải lập biên bản để đưa vào hồ sơ vụ án;
– Vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, vũ khí quân dụng phải được giám định ngay sau khi thu thập và phải chuyển ngay để bảo quản tại kho bạc nhà nước hoặc cơ quan chuyên trách khác. Nếu vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ lưu dấu vết của tội phạm thì tiến hành niêm phong theo quy định tại điểm a khoản này;
– Đối với vật chứng không thể đưa về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giao vật chứng đó cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đồ vật, tài sản hoặc người thân thích của họ hoặc chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản;
– Đối với vật chứng là hàng hoá mau hỏng hoặc khó bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 93 của Bộ luật này trong phạm vi quyền hạn của mình quyết định bán theo quy định của pháp luật và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền tại kho bạc nhà nước để quản lý;
– Đối với vật chứng đưa về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo quản thì cơ quan Công an bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan Thi hành án dân sự bảo quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án.

b) Người có trách nhiệm bảo quản vật chứng mà để mất mát, hư hỏng, phá huỷ niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc hủy hoại vật chứng của vụ án, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng vật chứng của vụ án nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ án thì phải chịu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

145. Trên thực tế theo dõi tôi thấy rằng có những trường hợp đối tượng bị bắt, tạm giữ ngay tức khắc, nhưng cũng có trường hợp lại không tiến hành bắt, bắt giữ. Đó là biện pháp ngăn chặn do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng.

Xin hỏi pháp luật quy định có những biện pháp ngăn chặn nào?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 96 Bộ luật tố tụng hình sự thì để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội cũng như cần bảo đảm thi hành án, cơ quan và người có thẩm quyền tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn sau: bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.

Các trường hợp bắt người gồm có: bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.

146. Sau khi bị bắt, nếu Viện kiểm sát không ra quyết định phê chuẩn thì đối tượng bị bắt khẩn cấp có được trả tự do trở lại hay không?

Trả lời

Điều 97 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp quy định tại khoản 1 Điều này. Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Biên bản ghi lời khai của người bị bắt do Kiểm sát viên lập phải được đưa vào hồ sơ vụ việc, vụ án.

Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra đã nhận người bị bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.

147. Đề nghị cho biết trong trường hợp nào phải tiến hành bắt khẩn cấp và pháp luật quy định những ai có thẩm quyền bắt khẩn cấp?

Trả lời:

Những trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được bắt khẩn cấp bao gồm:

– Khi có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
– Khi người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
– Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
Những người có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp gồm:
– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
– Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy biên phòng cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng Cảnh sát biển; Cục trưởng Cục nghiệp vụ và pháp luật; Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy Cảnh sát biển; Chi cục trưởng chi Cục Kiểm ngư vùng;
– Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 100 của Bộ luật này.

Việc bắt khẩn cấp của những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều này phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn.

Việc bắt khẩn cấp của những người quy định tại điểm b khoản 2 Điều này phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát có thẩm quyền bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn.

Những người có quyền bắt khẩn cấp quy định tại điểm c khoản 2 Điều này phải giải ngay người bị bắt kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về. Cơ quan điều tra tiếp nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn.

148. Đề nghị cho biết những ai có quyền bắt người phạm tội quả tang?

Trả lời:

Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

Khi bắt người phạm tội quả tang thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.

149. Khi thực hiện bắt tạm giam bị can, bị cáo cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện những thủ tục gì? Việc bắt đó có cần người chứng kiến hay ai khác không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự thì khi tiến hành bắt bị can, bị cáo, người thi hành lệnh, quyết định phải đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh, quyết định, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt; giao lệnh, quyết định cho người bị bắt.

Lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh, quyết định bắt phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị bắt; lý do bắt và những nội dung quy định tại khoản 2 Điều 129 của Bộ luật này.

Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người khác chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc, học tập phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.

Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.

150. Biên bản bắt người phải được lập khi tiến hành bắt nhưng biên bản đó phải có những nội dung gì?

Trả lời:

Điều 102 Bộ luật tố tụng hình sự quy định người thi hành lệnh, quyết định bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản.

Biên bản phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh, quyết định bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, tình trạng sức khỏe và những ý kiến, khiếu nại của người bị bắt.

Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh, quyết định bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên.

Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên giao và nhận phải lập biên bản.

Ngoài những điểm đã quy định tại khoản 1 Điều này, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật, tài liệu đã thu thập được, tình trạng sức khoẻ của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận.

151. Sau khi tiến hành bắt người thì cơ quan tiến hành tố tụng cần phải tiến hành ngay những gì hay không?

Trả lời:

Pháp luật quy định những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt như sau:

1. Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.

2. Sau khi lấy lời khai người bị bắt theo quyết định truy nã thì Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho Cơ quan đã ra quyết định truy nã để đến nhận người bị bắt.

Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định đình nã. Trong trường hợp cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết; nếu đã hết hạn tạm giữ mà cơ quan ra quyết định truy nã vẫn chưa đến nhận thì Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có quyền gia hạn tạm giữ và gửi ngay quyết định gia hạn tạm giữ và tài liệu liên quan cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn.

Nếu không thể đến nhận ngay người bị bắt thì cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất.

3. Trong trường hợp nhận người bị bắt có nhiều quyết định truy nã thì Cơ quan điều tra nhận người bị bắt chuyển giao người bị bắt cho Cơ quan đã ra quyết định truy nã nơi gần nhất.

152. Sau thời gian bắt người, cơ quan điều tra phải có trách nhiệm thông báo về việc bắt người. Nhưng thời gian thông báo được pháp luật quy định là bao lâu kể từ khi bắt?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận người bị bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết; trường hợp người bị bắt là công dân nước ngoài thì phải thông báo cho cơ quan ngoại giao của Việt Nam để thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước có công dân bị bắt.

Nếu việc thông báo cản trở việc truy bắt đối tượng khác hoặc cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh, quyết định bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay.

153. Anh V vừa bị bắt từ 03 ngày trước và bị tạm giữ. Có người nói đến nay đã bước sang ngày thứ 4 rồi mà V chưa được trả tự do. Xin hỏi pháp luật quy định thời hạn tạm giữ tối đa như thế nào?

Trả lời:

Thời hạn tạm giữ không được quá 03 ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị bắt hoặc dẫn giải người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.

Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày.

Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị gia hạn, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.

Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

154. Những trường hợp nào thì bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam?

Trả lời:

Việc tạm giam được thực hiện theo quy định sau đây:

1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, về tội rất nghiêm trọng.

2. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp sau:

– Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
– Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lai lịch của bị can;
– Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
– Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
– Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

3. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

155. Pháp luật có quy định trường hợp nào sẽ không áp dụng tạm giam mà áp dụng biện pháp khác hay không?

Trả lời:

Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lai lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau:

– Bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
– Tiếp tục phạm tội;
– Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
– Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

156. Thực tế, khi một người bị tam giữ hoặc tạm giam thì người thân thích của họ, trước hết là vợ/chồng, bố/mẹ/con sẽ là người được coi như đương nhiên sẽ đại diện cho họ trông nom, quản lý tài sản, nhà nước. Vậy pháp luật quy định như thế nào về việc bảo vệ tài sản của người bị tam giữ, tạm giam?

Trả lời:

Trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em là con của người bị tạm giữ, tạm giam thực hiện theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.

Trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam phải áp dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng.

Cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam thông báo cho người bị tạm giữ, tạm giam biết những biện pháp đã được áp dụng. Việc thông báo phải được lập thành văn bản và đưa vào hồ sơ vụ án.

157. Tôi nghe nói pháp luật có quy định trong một số trường hợp bị can, bị cáo có thể được áp dụng biện pháp bảo lĩnh thay vì tạm giam. Xin hỏi pháp luật quy định có những trường hợp nào?

Trả lời:

Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.

Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.

Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên, có nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh, có thu nhập ổn định thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền xã phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.

Khi nhận bảo lĩnh, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều này. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.

3. Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

– Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
– Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
– Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam.

5. Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp án phạt tù.

6. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

158. Một số trường hợp tôi thấy bị can, bị cáo có thể đặt tiền để bảo đảm mà không bị tạm giam, tạm giữ. Xin hỏi những trường hợp nào thì áp dụng biện pháp đặt tiền bảo đảm? Pháp luật có quy định nghĩa vụ của người được áp dụng biện pháp này hay không?

Trả lời:

Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn để thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm.

Bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:

a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam và số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Thời hạn đặt tiền không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định tại Bộ luật này. Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp án phạt tù. Bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền đã đặt.

159. Cách đây 05 tháng, K bị bắt và bị cấm đi khỏi nơi cư trú. Xin hỏi trong trường hợp nào thì áp dụng biện pháp bị cấm đi khỏi nơi cư trú?

Trả lời:

Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lai lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án.

Bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:

a) Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh áp dụng cho phép;
b) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
c) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
d) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam.

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp án phạt tù.

Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ.

Trường hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy cho phép của cơ quan đã áp dụng biện pháp ngăn chặn đó.

Nếu bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú biết để xử lý theo thẩm quyền.

160. Pháp luật quy định như thế nào về việc áp giải, dẫn giải người bị tam giữ, bị can, bị cáo?

Trả lời:

Dẫn giải, áp giải là một trong những biện pháp cưỡng chế để bảo đảm hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trong phạm vi trách nhiệm của mình cơ quan.

Điều 114 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định áp giải có thể được áp dụng đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Còn dẫn giải có thể được áp dụng đối với những người sau:

– Người làm chứng trong trường hợp họ không có mặt theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan.

– Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan;

– Người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố mà đã kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan.

Không được bắt đầu việc áp giải, dẫn giải người vào ban đêm, người già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ quan y tế.

161. Tháng trước, em trai tôi đã vô ý phạm tội và bị xử phạt bằng hình thức phạt tiền. Vừa rồi, Tòa án có thông báo để thi hành án, Tòa sẽ tiến hành kê biên tài sản. Đề nghị cho biết thủ tục kê biên được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:

Kê biên tài sản chỉ áp dụng đối với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tiền hoặc có thể tịch thu tài sản hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại.

Chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị tịch thu, phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại. Tài sản bị kê biên được giao cho chủ tài sản hoặc người quản lý hợp pháp hoặc người thân thích của họ bảo quản. Người được giao bảo quản mà có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, hủy hoại tài sản bị kê biên thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 384 của Bộ luật hình sự.

Khi tiến hành kê biên tài sản, phải có mặt những người sau:

– Bị can, bị cáo hoặc người đã thành niên trong gia đình hoặc người đại diện của bị can, bị cáo;
– Đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn;
– Người chứng kiến.

Người tiến hành kê biên phải lập biên bản, ghi rõ tên và tình trạng từng tài sản bị kê biên. Biên bản phải lập theo quy định tại Điều 130 và Điều 174, đọc cho những người có mặt nghe và cùng ký tên. Khiếu nại của những người quy định tại điểm a khoản này liên quan đến việc kê biên được ghi vào biên bản, có chữ ký xác nhận của người khiếu nại và của người tiến hành kê biên.

Biên bản kê biên được lập thành 04 bản: một bản được giao ngay cho người được quy định tại điểm a khoản này

sau khi kê biên xong; một bản giao ngay cho chính quyền xã, phường, thị trấn; một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản đưa vào hồ sơ vụ án.

162. Đề nghị cho biết, từ thời điểm nào thì xác định là thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng? Họ có quyền và nghĩa vụ gì?

Trả lời:

Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Người bào chữa có quyền:

– Gặp, hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
– Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can;
– Có mặt trong những hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;
– Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này;
– Xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
– Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;
– Đề nghị tiến hành một số hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này, đề nghị triệu tập người làm chứng, Điều tra viên và người tham gia tố tụng khác;
– Thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa;
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật; yêu cầu;
– Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại;
– Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra;
– Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này.

163. Trong trường hợp nào thì pháp luật áp dụng bị tạm giữ?

Trả lời:

Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.

Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ cho việc tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

164. Do nghiện ma túy không có tiền hút chích, A đã rủ B đi trộm cắp xe máy. Trong một lần đang thực hiện trộm cắp xe máy tại quận X thành phố H, A và B đã bị bắt quả tang. Cơ quan điều tra Công an tỉnh T đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với A và B về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Xin hỏi, thẩm quyền xét xử của Tòa án trong vụ án này?

Trả lời:

Theo Điều 264 Bộ luật Tố tụng hình sự thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy định như sau:

– Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau:

+ Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
+ Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
+ Các tội quy định tại các Điều 123, 125, 126, 228, 277, 278, 279, 280, 282, 283, 284, 286, 287, 288, 336, 367, 368, 369, 370, 398 và 399 của Bộ luật hình sự;
+ Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

– Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án sau:

+ Vụ án hình sự về các tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực;
+ Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài;
+ Những vụ án tuy thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; những vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.

– Khoản 1 Điều 265 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ như sau: Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa án nơi tội phạm được thực hiện. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc việc điều tra.

Như vậy, vụ án của A và B thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân quận X, thành phố H.

165. Trong quá trình thụ lý và chuẩn bị xét xử vụ án của Nguyễn Văn C về tội cướp tài sản theo Điều 168 Bộ luật Hình sự, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa thấy có căn cứ cho rằng còn có một người giúp sức cho Nguyễn Văn C thực hiện hành vi cướp tài sản. Xin hỏi trong trường hợp này, Thẩm phán phải ra quyết định như thế nào?

Trả lời:

Theo Điều 267 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong những trường hợp sau:

– Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 74 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;
– Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm;
– Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can;
– Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng;
– Viện kiểm sát có văn bản đề nghị trả hồ sơ để bổ sung chứng cứ; thay đổi, bổ sung cáo trạng; khắc phục vi phạm thủ tục tố tụng.

Như vậy, trong trường hợp này, trong thời hạn 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự).

Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải nêu rõ những vấn đề cần điều tra bổ sung và gửi cho Viện kiểm sát kèm theo hồ sơ vụ án trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra quyết định.

Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định.

Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới phải thay đổi quyết định truy tố thì Viện kiểm sát ban hành cáo trạng mới thay thế cáo trạng trước đó.

Trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

166. Xin cho biết, trong những trường hợp nào thì Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ Vụ án?

Trả lời:

Theo Điều 277 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi thuộc một trong những trường hợp sau:

– Có căn cứ về việc trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả
– Không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử; trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can, bị cáo trước khi tạm đình chỉ vụ án;
– Chờ kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật mà Tòa án kiến nghị.

Trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà căn cứ để tạm đình chỉ không liên quan đến tất cả các bị can, bị cáo thì có thể tạm đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo.

Quyết định tạm đình chỉ vụ án phải ghi rõ lý do tạm đình chỉ và những nội dung sau:

– Số, ngày, tháng, năm, địa điểm ra lệnh, quyết định, yêu cầu;
– Căn cứ ra lệnh, quyết định, yêu cầu;
– Nội dung của lệnh, quyết định, yêu cầu;
– Họ tên, chức vụ, chữ ký của người ra lệnh, quyết định, yêu cầu và có đóng dấu.

167. Trong quá trình chuẩn bị xét xử vụ án của Hoàng Văn D về tội vô ý gây thương tích theo Điều 138 Bộ luật Hình sự, người bị hại đã rút đơn yêu cầu. Xin hỏi, trường hợp này, Tòa án sẽ giải quyết như thế nào?

Trả lời:

Theo Điều 278 Bộ luật Tố tụng hình sự , thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau:

Thứ nhất, có một trong những căn cứ:

– Người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, trừ trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
– Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật.
– Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
– Tội phạm đã được đại xá
– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác

Thứ hai, Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên toà.

Trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà căn cứ để đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả các bị can, bị cáo thì có thể đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo.

Quyết định đình chỉ vụ án phải ghi rõ lý do đình chỉ và các nội dung sau:

+ Số, ngày, tháng, năm, địa điểm ra lệnh, quyết định, yêu cầu;
+ Căn cứ ra lệnh, quyết định, yêu cầu;
+ Nội dung của lệnh, quyết định, yêu cầu;
+ Họ tên, chức vụ, chữ ký của người ra lệnh, quyết định, yêu cầu và có đóng dấu.

Như vậy, trong trường hợp này thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án đối với Hoàng Văn D.

168. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, thẩm phán chủ tọa phiên tòa bị nhồi máu cơ tim. Xin hỏi, trong trường hợp này có tiếp tục phiên tòa không?

Trả lời:

Theo Điều 284 Bộ luật Tố tụng hình sự, phiên toà chỉ được tiến hành khi có đủ thành viên Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc.

Trường hợp có Thẩm phán, Hội thẩm không tiếp tục tham gia xét xử vụ án nhưng có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết tham gia phiên tòa từ đầu thì những người này được thay thế làm thành viên Hội đồng xét xử. Trường hợp Hội đồng xét xử có hai Thẩm phán mà Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không tiếp tục tham gia xét xử được thì Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử làm chủ toạ phiên toà và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên Hội đồng xét xử.

Trường hợp không có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết để thay thế hoặc phải thay đổi chủ tọa phiên toà mà không có Thẩm phán để thay thế theo quy định tại khoản 2 Điều này thì phải hoãn phiên toà.
Trường hợp Thư ký Tòa án bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa thì Tòa án vẫn có thể xét xử vụ án nếu có Thư ký Tòa án dự khuyết; nếu không có người thay thế thì tạm ngừng phiên tòa.

169. Sau khi có quyết định đưa vụ án về tội giết người đối với bị cáo Trần Văn C của Tòa án nhân dân huyện E, bị cáo C đã bỏ trốn. Xin hỏi, trong trường hợp này có thể xét xử vắng mặt bị cáo C được không?

Trả lời:

Theo Điều 286 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án trong suốt thời gian xét xử vụ án; nếu vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan thì bị áp giải; nếu bị cáo vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa.

Nếu bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh nặng khác thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh.

Nếu bị cáo trốn thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo.

Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau:

– Bị cáo trốn và việc truy nã không có kết quả;
– Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa;
– Bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử chấp nhận.
– Nếu sự vắng mặt của bị cáo không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan và sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử.

Như vậy, trong trường hợp này, Hội đồng xét xử phải tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị cáo C. Nếu việc truy nã không có kết quả, tòa án mới có thể xử vắng mặt bị cáo.

170. Nguyễn Văn C năm nay 17 tuổi bị truy tố về tội giết người theo quy định tại Khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, luật sư bào chữa cho C vắng mặt do bị tai nạn giao thông. Xin hỏi, trường hợp này có phải hoãn phiên tòa không?

Trả lời:

Theo Điều 287 Bộ luật Tố tụng Hình sự, người bào chữa phải có mặt tại phiên tòa để bào chữa cho người mà mình đã nhận bào chữa. Người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Nếu người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử.

Trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại Điều 121 của Bộ luật này mà người bào chữa vắng mặt, thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà, trừ trường hợp bị cáo, người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.

C mới 17 tuổi – chưa thành niên, đồng thời bị truy tố về tội giết người theo quy đinh theo quy định tại Khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự có hình phạt cao nhất là tử hình nên thuộc trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa tại Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử phải tạm hoãn phiên tòa, trừ trường hợp C hoặc người đại diện của C đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.

171. A, B, C bị xét xử về tội cố ý gây thương tích theo Điều 134 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, chị H là người bị hại không đến tham dự. Xin hỏi, trường hợp này có phỉa tạm hoãn phiên tòa không?

Trả lời:

Theo Điều 288, Bộ luật Tố tụng Hình sự , nếu bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện của họ vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.

Nếu thấy sự vắng mặt của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chỉ trở ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thì Hội đồng xét xử có thể tách việc bồi thường để xét xử sau theo thủ tục tố tụng dân sự.

Như vậy, trong trường hợp này, Hội đồng xét xử có thể vẫn tiến hành xét xử.

172. Trong phiên tòa xét xử vụ án về trộm cắp tài sản, người làm chứng không thể tham dự nhưng trước đó đã có lời khai ở cơ quan điều tra thì có phải hoãn phiên tòa không?

Trả lời:

Theo Điều 289, Bộ luật Tổ tụng hình sự , người làm chứng tham gia phiên tòa để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Nếu người làm chứng vắng mặt nhưng trước đó đã có lời khai ở Cơ quan điều tra thì chủ tọa phiên tòa công bố những lời khai đó. Nếu người làm chứng về những vấn đề quan trọng vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.

Trường hợp người làm chứng được Toà án triệu tập nhưng cố ý không đến mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc xét xử thì Hội đồng xét xử có thể quyết định dẫn giải theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

173. Xin cho biết, Bộ luật Tố tụng hình sự các trường hợp nào phải hoãn phiên tòa? Thời gian hoãn phiên tòa sơ thẩm là bao nhiêu lâu?

Trả lời:

Theo Điều 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tòa án hoãn phiên tòa khi thuộc một trong các trường hợp sau:

– Có căn cứ quy định tại các điều 52, 53, 54, 284, 285, 286, 287, 288, 289, 290 và 291 của Bộ luật này;
– Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa;
– Cần tiến hành giám định bổ sung hoặc giám định lại;
– Cần định giá tài sản, định giá lại tài sản.

Trường hợp hoãn phiên tòa thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu.

Thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không được quá 30 ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.

Quyết định hoãn phiên toà phải có các nội dung chính sau:

– Ngày, tháng, năm ra quyết định;
– Tên Toà án và họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án;
– Họ tên Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa;
– Vụ án được đưa ra xét xử;
– Lý do của việc hoãn phiên toà;
– Thời gian, địa điểm mở lại phiên toà.

Quyết định hoãn phiên toà phải được Chủ tọa phiên toà thay mặt Hội đồng xét xử ký tên. Trường hợp Chủ tọa phiên toà vắng mặt hoặc bị thay đổi thì Chánh án Toà án ra quyết định hoãn phiên toà.

Quyết định hoãn phiên toà phải được thông báo ngay cho những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa; gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên tòa trong thời hạn 02 ngày, kể từ ngày ra quyết định.

174. Hoàng Trung T bị Viện kiểm sát nhân dân quận X truy tố về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Điều 135 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình xét xử, Tòa án thấy có căn cứ để xử bị cáo về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo Điều 134 Bộ luật Hình sự. Xin hỏi, trong trường hợp này Tòa án có được xét xử bị cáo T với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác không?

Trả lời:

Điều 294 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định giới hạn của việc xét xử như sau:

-Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.

– Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.

– Trong trường hợp thấy cần xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để

Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo Điều 134 Bộ luật Hình sự là tội danh nặng hơn so với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Vì vậy, Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo Điều 134 Bộ luật Hình sự .

175. Xin hỏi, trình tự xét hỏi trong phiên tòa sơ thẩm được quy định như thế nào?

Trả lời:

Điều 303 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định trình tự xét hỏi như sau:

– Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội trong vụ án, từng người theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Chủ tọa phiên tòa điều khiển việc hỏi.
– Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến Thẩm phán, các Hội thẩm sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản.
– Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét những vật chứng có liên quan trong vụ án.

176. Xin cho biết những trường hợp cụ thể được công bố và không được công bố lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố tại phiên tòa xét xử sơ thẩm?

Trả lời:

Theo Điều 304 Bộ luật Tố tụng hình sự, nếu người được xét hỏi có mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên không được công bố lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố.

Chỉ được công bố những lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố khi thuộc một trong những trường hợp sau:

– Lời khai của người được xét hỏi tại phiên tòa có mâu thuẫn với lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố;
– Người được xét hỏi không khai tại phiên tòa hoặc không nhớ những lời khai của mình trong giai đoạn điều tra, truy tố;
– Người được xét hỏi đề nghị công bố lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố;
– Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết.

Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu của người tham gia tố tụng hoặc tự xét thấy cần thiết thì Hội đồng xét xử không công bố các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

177. Nguyễn Văn S bị TAND huyện Y xử phạt hai năm tù về tội cố ý gây thương tích. Tại phiên tòa, vị đại diện Viện Kiểm sát đề nghị với Hội đồng xử án xử phạt cháu tôi từ 2 – 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo. Trong phần tranh luận trước Tòa, vị luật sư bào chữa của S cũng đã nêu lên hoàn cảnh, nguyên nhân phạm tội của cháu (cháu mồ côi cả cha lẫn mẹ) và nêu các tình tiết giảm nhẹ cũng như đề nghị Tòa án xử phạt án treo. Cuối cùng, Tòa án vẫn xét xử 2 năm tù giam (cháu tôi lúc phạm tội chỉ mới 16 năm 2 tháng tuổi, lúc xét xử vừa đúng 16 tuổi rưỡi). Bà B là người giám hộ của S, muốn kháng cáo lên Tòa án cấp trên xét xử lại nhẹ hơn. Xin hỏi, bà B có quyền kháng cáo bản án Tòa án huyện Y nêu trên không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 327 Bộ luật Tố tụng hình sự, người có quyền kháng cáo bao gồm:
– Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
– Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa.
– Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
– Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
– Người được Toà án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.

Bà B là người giám hộ của S nên theo quy định nêu trên, bà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Y đối với cháu của S.

178. Xin hỏi, trong trường hợp trên, bà B phải làm các thủ tục kháng cáo như thế nào?

Trả lời:

Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thủ tục kháng cáo như sau:

– Người kháng cáo phải gửi đơn kháng cáo đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc thẩm.

Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam, Ban giám thị Trại tạm giam phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo, nhận đơn kháng cáo và chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định bị kháng cáo.

Người kháng cáo cũng có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm về việc kháng cáo. Tòa án phải lập biên bản về việc kháng cáo theo quy định tại Điều 130 của Bộ luật này.

Tòa án cấp phúc thẩm đã lập biên bản về việc kháng cáo hoặc nhận được đơn kháng cáo thì phải gửi biên bản hoặc đơn kháng cáo cho Tòa án cấp sơ thẩm để thực hiện theo quy định chung.

– Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau:
+ Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo;
+ Họ tên, địa chỉ của người kháng cáo;
+ Lý do và yêu cầu của người kháng cáo;
+ Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo.

– Kèm theo đơn kháng cáo hoặc cùng với việc trình bày trực tiếp là chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) để chứng minh tính có căn cứ của kháng cáo.

179. Do không đồng ý với bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện S, B là người bị hại muốn là đơn kháng cáo nhưng không rõ thời hạn kháng cáo được quy định như thế nào? Xin hãy cho B biết về thời hạn kháng cáo?

Trả lời:

Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định về thời hạn kháng cáo như sau:

– Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tiếp theo của ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày tiếp theo của ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
– Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày tiếp theo của ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.
– Ngày kháng cáo được xác định như sau:
+ Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo là ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì;
+ Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị Trại tạm giam, Trại giam thì ngày kháng cáo là ngày Ban giám thị nhận được đơn. Ban giám thị phải ghi rõ ngày nhận đơn và ký xác nhận;
+ Trường hợp người kháng cáo nộp đơn kháng cáo tại Toà án thì ngày kháng cáo là ngày Toà án nhận đơn. Trường hợp người kháng cáo trình bày trực tiếp với Toà án thì ngày kháng cáo là ngày Toà án lập biên bản về việc kháng cáo.

180. Sau khi nhận được quyết định sơ thẩm về giải quyết bồi thường thiệt hại trong vụ án cướp tài sản của Tòa án nhân dân huyện T, chị E là nguyên đơn dân sự muốn làm thủ tục kháng cáo. Tuy nhiên, chị bị tai nạn giao thông nên không thể nộp đơn kháng cáo đúng thời hạn. Xin hỏi, trường hợp của chị E giải quyết như thế nào?

Trả lời:

Theo Điều 331, Bộ luật Tố tụng Hình sự, việc kháng cáo quá hạn được chấp nhận nếu có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác mà người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định.

– Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm.
– Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và chứng cứ, tài liệu, đồ vật kèm theo (nếu có), Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm 03 Thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn. Hội đồng xét kháng cáo quá hạn có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định.
– Phiên họp xét kháng cáo quá hạn phải có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp. Kiểm sát viên phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc xét kháng cáo quá hạn.
– Quyết định của Hội đồng xét kháng cáo quá hạn phải được gửi cho người kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án cấp phúc thẩm.
Trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận việc kháng cáo quá hạn thì Tòa án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục do Bộ luật này quy định và gửi hồ sơ vụ án cho Tòa án.

181. Xin cho biết thẩm quyền và thời hạn kháng nghị bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân?

Trả lời:

Về thẩm quyền kháng nghị: Theo Điều 332 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát phải có các nội dung chính sau:

+ Ngày, tháng, năm ra quyết định kháng nghị và số của quyết định kháng nghị;
+ Tên của Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị;
+ Kháng nghị đối với toàn bộ hay một phần bản án, quyết định sơ thẩm;
+ Lý do, căn cứ kháng nghị và yêu cầu của Viện kiểm sát;
+ Họ, tên, chức vụ của người ký quyết định kháng nghị và đóng dấu của Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị.

– Trong thời hạn 02 ngày, kể từ ngày ra quyết định kháng nghị, Viện kiểm sát phải gửi quyết định kháng nghị kèm theo chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm.
Về thời hạn kháng nghị được quy định tại Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự như sau:

– Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày tiếp theo của ngày Tòa án tuyên án.

– Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày, kể từ ngày tiếp theo của ngày Tòa án ra quyết định.

182. Xin hỏi, thẩm quyền và thời hạn xét xử phúc thẩm được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:

Về thẩm quyền xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 340 Bộ luật Tố tụng Hình sự như sau:

– Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Toà án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị.
– Toà án nhân dân cấp cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng cáo, kháng nghị.
– Toà án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Toà án quân sự khu vực bị kháng cáo, kháng nghị.
– Toà án quân sự trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Toà án quân sự cấp quân khu bị kháng cáo, kháng nghị.

Về phạm vi xét xử phúc thẩm: Tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết, có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị. (Điều 341 Bộ luật tố tụng Hình sự).

183. Xin cho biết, các trường hợp đình chỉ xét xử phúc thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự?

Trả lời:

Điều 344 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định về đình chỉ xét xử phúc thẩm như sau:

– Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với vụ án mà người kháng cáo đã rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát đã rút toàn bộ kháng nghị. Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm trước khi mở phiên tòa do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định, tại phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.

– Trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị trước khi mở phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo, kháng nghị đã rút.

– Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm phải ghi rõ lý do đình chỉ và những nội dung theo quy định tại Điều 129 của Bộ luật này.

Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm cho Viện kiểm sát cùng cấp, Tòa án đã xét xử sơ thẩm, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.

184. Đề nghị cho biết Nngười bào chữa có những nghĩa vụ gì?

Trả lời

Người bào chữa có nghĩa vụ:

– Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo;
– Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
– Không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
– Tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
– Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại Điều 121 của Bộ luật này thì phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát;
– Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân;
– Không được tiết lộ thông tin về người bị buộc tội mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản; không được sử dụng thông tin về người bị buộc tội mà mình biết được trong khi thực hiện việc bào chữa vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy đăng ký bào chữa, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

185. Việc lựa chọn người bào chữa được thực hiện theo yêu cầu của những ai?

Trả lời

Người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn.
Trường hợp người bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam có yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam phải lập biên bản ghi lại yêu cầu nhờ người bào chữa của họ và chuyển ngay biên bản đó cho người bào chữa mà họ nhờ; nếu họ không nêu đích danh người bào chữa thì biên bản này được chuyển cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào chữa.
Trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền có trách thông báo ngay cho người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ người bào chữa.

Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận từ cấp huyện trở lên có quyền cử Bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.

186. Trong những trường hợp thì phải chỉ định người bào chữa?

Trả lời

Theo quy định tại Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì trong những trường hợp sau đây nếu người bị tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:

– Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù cao nhất đến 15 năm, tù chung thân, tử hình;

– Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người chưa thành niên.

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức sau đây cử người bào chữa cho các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này:

– Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử người bào chữa;

– Trung tâm trợ giúp pháp lý cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư để bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý;

– Đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên để bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.

187. Liệu đương sự có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa hay không?

Trả lời

Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định những người có quyền từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa:

a) Người bị buộc tội;
b) Người đại diện của người bị buộc tội;
c) Người thân thích của người bị buộc tội.

Mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý của người bị buộc tội và được lập biên bản để đưa vào hồ sơ vụ án, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 121 của Bộ luật nàytố tụng dân sự năm 2015.

Trường hợp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để xác nhận việc từ chối.

Trong trường hợp bắt buộc phải chỉ định người bào chữa quy định tại Điều 121 của Bộ luật này, người bị buộc tội và người đại diện hoặc người thân thích của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa.

Trường hợp thay đổi người bào chữa thì việc chỉ định người bào chữa khác được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 121 của Bộ luật này.

188. Đề nghị cho biết quy định của pháp luật về sự có mặt của thành viên Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư ký Tòa án theo thủ tục tố tụng hình sự?

Trả lời:

Điều 345 Bộ luật tố tụng hình sự quy định như sau:

1. Phiên toà chỉ được tiến hành khi có đủ thành viên Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên tòa.
2. Trường hợp có Thẩm phán không tiếp tục tham gia xét xử vụ án nhưng có Thẩm phán dự khuyết tham gia phiên tòa từ đầu thì những người này được thay thế làm thành viên Hội đồng xét xử. Trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không tiếp tục tham gia xét xử được thì Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử làm chủ toạ phiên toà và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên Hội đồng xét xử.
3. Trường hợp không có Thẩm phán dự khuyết hoặc phải thay đổi chủ tọa phiên toà mà không có Thẩm phán để thay thế thì phải hoãn phiên toà.
4. Trường hợp Thư ký Tòa án bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa thì Tòa án vẫn có thể xét xử vụ án nếu có Thư ký Tòa án dự khuyết; nếu không có người thay thế thì tạm ngừng phiên tòa.

189. Đề nghị cho biết trong trường hợp nào bắt buộc phải hoãn phiên tòa khi vắng mặt Kiểm sát viên?

Trả lời:

Điều 346 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định:

– Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt để thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa, nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. Đối với vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì có thể có nhiều Kiểm sát viên. Trường hợp Kiểm sát viên không thể có mặt tại tại phiên tòa thì Kiểm sát viên dự khuyết có mặt tại phiên tòa từ đầu được thay thế để thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa.

– Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa.

Như vậy, việc Kiểm sát viên phải có mặt tại phiên tòa hình sự là bắt buộc; nếu không có mặt Kiểm sát viên thì phiên tòa phải hoãn.

190. Đề nghị cho biết thủ tục phiên tòa phúc thẩm theo quy định của pháp luật?

Trả lời:

Điều 350 Bộ luật tố tụng hình sự quy định thủ tục phiên tòa phúc thẩm như sau:

– Thủ tục bắt đầu phiên tòa và thủ tụng tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm được tiến hành như phiên tòa sơ thẩm nhưng trước khi xét hỏi, một thành viên của Hội đồng xét xử phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung của kháng cáo, kháng nghị.

– Chủ toạ phiên toà hỏi người kháng cáo có thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo hay không; nếu có thì chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên trình bày ý kiến về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo.

Chủ toạ phiên toà hỏi Kiểm sát viên có thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị hay không; nếu có thì chủ tọa phiên tòa yêu cầu bị cáo và những người liên quan đến việc kháng nghị trình bày ý kiến về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị.

– Khi tranh tụng tại phiên tòa, Kiểm sát viên và những người liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác phát biểu ý kiến về nội dung của kháng cáo, kháng nghị; Kiểm sát viên phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.

191. Đề nghị cho biết pháp luật quy định như thế nào về sự có mặt của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa phúc thẩm?

Trả lời:

Điều 347 Bộ luật tố tụng hình sự quy định cụ thể về vấn đề này như sau:

– Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị được triệu tập đến phiên tòa thì phải có mặt tại phiên tòa. Nếu có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử giải quyết như sau:

+ Trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Trường hợp người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử.
Trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại Điều 121 của Bộ luật này mà người bào chữa vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo, người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa;
+ Trường hợp người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị là bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt không phải vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử. Trường hợp những người này vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Hội đồng xét xử có thể tiến hành xét xử nhưng không được ra bản án hoặc quyết định không có lợi cho đương sự;
+ Bị cáo có kháng cáo hoặc bị kháng cáo, bị kháng nghị nếu vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Hội đồng xét xử có thể vẫn tiến hành xét xử nhưng không được ra bản án, quyết định không có lợi cho bị cáo. Nếu sự vắng mặt của bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan và sự vắng mặt đó không gây trở ngại cho việc xét xử thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

– Khi xét thấy cần thiết, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định triệu tập những người khác tham gia phiên tòa.

192. Đề nghị cho biết, pháp luật quy định như thế nào về việc sửa bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử sơ thẩm?

Trả lời:

Điều 353 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về sửa bản án sơ thẩm như sau:

– Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm về việc:

+ Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp;
+ Áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
+ Giảm hình phạt cho bị cáo;
+ Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng;
+ Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn;
+ Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo;

– Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể:

+ Tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp;
+ Tăng mức bồi thường thiệt hại;
+ Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn;
+ Không cho bị cáo hưởng án treo.

– Trường hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều này cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.

193. Tại sao có trường hợp bản án sơ thẩm bị hủy?

Trả lời:

Điều 354 Bộ luật tố tụng hình sự quy định 02 trường hợp bản án sơ thẩm bị hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại như sau:

Thứ nhất, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong những trường hợp sau:

1. Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm;
2. Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được;
3. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố.

Thứ hai, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong những trường hợp sau:

1. Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng thành phần mà Bộ luật này quy định;
2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm;
3. Người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội;
4. Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đối với bị cáo không có căn cứ;
5. Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án theo quy định tại Điều 353 của Bộ luật này.

>>> Xem thêm: 

5/5 - (2 bình chọn)

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Nếu cần BQT hỗ trợ gấp, vui lòng liên hệ hotline 1900.0164 bấm phím 0.

Phản hồi

  1. Nguyễn Văn M (16 tuổi) đã thực hiện hành vi trộm số tiền 12.580.000đ (mười hai triệu năm trăm tám mươi ngàn đồng) của Anh N và bị bắt quả tang. M đã bị cơ quan Điều tra khởi tố về tội trộm cắp tài sản. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra biết được rằng số tiền mà M trộm được là số tiền do A đã trộm sợi dây chuyền của Chị H và bán được. Hãy xác định tư cách tố tụng của những người nói trên.
    giải giúp em bài này với ạ