Xác định thẩm quyền giải quyết (xét xử) của Tòa án Việt Nam với các vụ việc dân sự (yêu cầu, tranh chấp) có yếu tố nước ngoài theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015.
Những nội dung liên quan:
- Tranh chấp có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh
- Thủ tục giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài và thực tiễn áp dụng
- 03 bước xác định thẩm quyền của tòa án trong vụ việc dân sự
Các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết chung của Tòa án Việt Nam
– Nhóm thứ nhất là vụ án có bị đơn là cá nhân cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam quy định tại điểm 1 khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Nhóm này bao gồm 2 loại vụ án:
+ Một là vụ án giữa nguyên đơn là công dân Việt Nam ở nước ngoài, người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài và bị đơn là công dân Việt Nam ở trong nước;
+ Hai là vụ án giữa nguyên đơn là công dân Việt Nam ở nước ngoài, người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài với bị đơn là người nước ngoài đang cư trú, làm việc tại Việt Nam và được cấp thẻ thường trú, thẻ tạm trú hoặc được cấp giấy miễn thị thực có thời hạn không quá 5 năm, kể cả trường hợp được xem xét cấp lại thẻ hoặc giấy này theo quy định của pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.
– Nhóm thứ hai là vụ án mà bị đơn có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam quy định tại điểm c khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Nhóm này bao gồm 2 loại vụ án:
+ Một là vụ án giữa nguyên đơn là người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài và bị đơn là công dân Việt Nam, cơ quan, tổ chức Việt Nam có tài sản tại Việt Nam;
+ Hai là vụ án giữa nguyên đơn là công dân Việt Nam, cơ quan, tổ chức Việt Nam ở nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài với bị đơn là người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài có tài sản tại Việt Nam.
– Cuối cùng là nhóm vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam hoặc các đương sự là người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam quy định tại điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Nhóm này bao gồm 2 loại:
+ Một là vụ việc ly hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài mà nguyên đơn hoặc bị đơn ở nước ngoài hoặc các bên đương sự đều ở nước ngoài;
+ Hai là vụ việc ly hôn giữa các bên đương sự là người nước ngoài và người nước ngoài đang cư trú, làm việc tại Việt Nam và được cấp thẻ thường trú, thẻ tạm trú hoặc được cấp giấy miễn thị thực có thời hạn không quá 5 năm…).
Các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm giải quyết riêng biệt của Tòa án Việt Nam
Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam theo quy định tại Điều 470 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 được xác định gồm 4 nhóm.
Nhóm thứ nhất là vụ án dân sự có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam quy định tại điểm a khoản 1 Điều 470 của Bộ luật Tố tụng dân sự là vụ án có một bên đương sự là người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, trừ trường họp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, hợp đồng, thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam hoặc cơ quan nhà nước Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài có quy định về việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài.
Nhóm thứ hai là vụ án ly hôn quy định tại điểm b khoản 1 Điều 470 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 là vụ án giữa công dân Việt Nam ở trong nước và đương sự là người nước ngoài quy định tại điểm b khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết này (người nước ngoài đang cư trú, làm việc tại Việt Nam và được cấp thẻ thường trú, thẻ tạm trú hoặc được cấp giấy miễn thị thực có thời hạn không quá 5 năm…).
Nhóm thứ ba là vụ án dân sự khác quy định tại điểm c khoản 1 Điều 470 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 là vụ án đáp ứng được các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này (Là một trong các vụ án thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam quy định tại Điều 469 của Bộ luật này; có văn bản quy phạm pháp luật hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định các bên đương sự có quyền lựa chọn Tòa án Việt Nam để giải quyết vụ án đó; Thỏa thuận lựa chọn Tòa án Việt Nam được các bên xác lập bằng văn bản và xác định Tòa án Việt Nam là Tòa án duy nhất có thẩm quyền giải quyết tranh chấp vụ án đó).
Cuối cùng là nhóm việc dân sự quy định tại điểm a khoản 2 Điều 470 của Bộ luật Tố tụng dân sự là yêu cầu không có tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự quy định tại một trong 3 nhóm nói trên.
Thỏa thuận lựa chọn Tòa án Việt Nam không có hiệu lực trong trường hợp theo quy định của pháp luật Việt Nam thì thỏa thuận đó vô hiệu hoặc không thể thực hiện được.
Hoặc, thỏa thuận lựa chọn Tòa án Việt Nam không thể thực hiện được trong trường họp đương sự là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của cá nhân đó không được thừa kế hoặc đương sự là cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó.
Yêu cầu, tranh chấp có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh
Căn cứ vào Điều 35 – 38 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 để xem xét đây sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện hay Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
CẦN LƯU Ý:
– Đối với một số yêu cầu, tranh chấp nhất định (khoản 1 và khoản 2 Điều 35) theo nguyên tắc bình thường sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, nếu có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước CHXHCN Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền giải quyết của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện mà sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; trừ trường hợp sau:
“Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Bộ luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.” – Tức mặc dù đây là vụ việc có yếu tố nước ngoài nhưng vẫn thuộc thẩm quyền của Tòa huyện.
Để lại một phản hồi