Ủy thác thu thập chứng cứ theo quy định của Bô luật Tố tụng dân sự 2015

Chuyên mụcLuật tố tụng dân sự, Thảo luận pháp luật Chứng cứ

Ủy thác thu thập chứng cứ là gì?

Ủy thác thu thập chứng cứ là biện pháp thu thập chứng cứ có vai trò vô cùng quan trọng, giúp Tòa án ủy thác có được tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án mà hoạt động thu thập phải thực hiện bên ngoài phạm vi lãnh thổ của Tòa án ủy thác thông qua Tòa án, cơ quan có thẩm quyền được ủy thác.

 

Những nội dung liên quan:

 

Do quy định của pháp luật tố tụng dân sự về ủy thác thu thập chứng cứ còn những vướng mắc, bất cập; chưa có chế tài đối với Tòa án được ủy thác do không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu ủy thác làm ảnh hưởng đến việc ủy thác thu thập chứng cứ trên thực tế, làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Bài viết này đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về ủy thác thu thập chứng cứ, xác định vướng mắc, bất cập qua thực tiễn áp dụng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chế định này trong thực tiễn.

 

Ủy thác thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự

Mục lục:

1. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về ủy thác thu thập chứng cứ

2. Những bất cập, hạn chế và kiến nghị

Bộ luật Tố tụng dân sự

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (Bộ luật TTDS năm 2015) quy định nhiều biện pháp thu thập chứng cứ mà Tòa án có thể thực hiện gắn với các điều kiện áp dụng cụ thể đối với từng biện pháp, trong đó có biện pháp ủy thác thu thập chứng cứ. Khác với việc áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ mà Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án phải trực tiếp thu thập chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết vụ án thì biện pháp ủy thác thu thập chứng cứ là biện pháp mà Tòa án đang giải quyết vụ án phải nhờ Tòa án khác, cơ quan khác thu thập chứng cứ do Tòa án này không thể tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ vì có sự ngăn cách về địa giới lãnh thổ quốc gia hoặc giữa các đơn vị hành chính.

Thời gian qua, các Tòa án được ủy thác, cơ quan có thẩm quyền nhận ủy thác thực hiện kịp thời các yêu cầu ủy thác góp phần giúp Tòa án ủy thác thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết vụ án, qua đó, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Tuy nhiên, việc thực hiện yêu cầu ủy thác cũng còn nhiều hạn chế như chậm thực hiện ủy thác, thực hiện không đầy đủ yêu cầu ủy thác. Từ đó, kéo dài thời gian giải quyết án, gây khó khăn cho Tòa án ủy thác, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Nguyên nhân của thực trạng này bên cạnh các yếu tố mang tính chủ quan, còn có những hạn chế nhất định từ quy định về ủy thác thu thập chứng cứ trong Bộ luật TTDS năm 2015 và văn bản hướng dẫn thi hành.

1. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về ủy thác thu thập chứng cứ

Hiện nay, việc ủy thác thu thập chứng cứ được thực hiện theo Điều 105 Bộ luật TTDS năm 2015, Điều 11 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định về “Chứng minh và chứng cứ” của Bộ luật TTDS (Nghị quyết số 04/2012), Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 và văn bản hướng dẫn thi hành.

1.1. Thời điểm thực hiện ủy thác thu thập chứng cứ

Theo khoản 1 Điều 105 Bộ luật TTDS năm 2015, trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có thể ra quyết định ủy thác để Tòa án khác lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, thẩm định tại chỗ, tiến hành định giá tài sản hoặc các biện pháp khác để thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ việc dân sự. Vì vậy, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ, việc dân sự có thể ủy thác thu thập chứng cứ vào bất cứ giai đoạn tố tụng nào khi cần tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ được quy định tại các điểm từ a đến i khoản 2 Điều 97 Bộ luật TTDS năm 2015 để thu thập chứng cứ.

1.2. Thủ tục ủy thác thu thập chứng cứ và thực hiện yêu cầu ủy thác thu thập chứng cứ

1.2.1. Đối với việc ủy thác cho Tòa án có thẩm quyền khác thu thập chứng cứ

– Khi cần ủy thác cho Tòa án khác thu thập chứng cứ, Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự phải lập hồ sơ ủy thác thu thập chứng cứ gồm các văn bản sau đây gửi đến Tòa án được ủy thác: (1) Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ phải ghi rõ tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, quan hệ tranh chấp và những công việc cụ thể ủy thác để thu thập chứng cứ và tuân theo mẫu số 13 được ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; (2) Bản sao các tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc ủy thác thu thập chứng cứ, có chữ ký xác nhận của Thẩm phán và đóng dấu Tòa án (nếu có).

– Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ ủy thác thu thập chứng cứ, Tòa án được ủy thác phải vào sổ thực hiện ủy thác thu thập chứng cứ và căn cứ nội dung yêu cầu để thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

– Trong quá trình thực hiện ủy thác thu thập chứng cứ, nếu nội dung yêu cầu thu thập chứng cứ chưa rõ thì Tòa án được ủy thác gửi văn bản yêu cầu Tòa án ủy thác thu thập chứng cứ bổ sung hoặc làm rõ nội dung đó. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án được ủy thác, Tòa án ủy thác phải gửi văn bản bổ sung, làm rõ yêu cầu ủy thác thu thập chứng cứ.

Trường hợp Tòa án ủy thác thu thập chứng cứ không trả lời thì Tòa án được ủy thác gửi trả lại hồ sơ ủy thác thu thập chứng cứ cho Tòa án ủy thác và nêu rõ lý do không thực hiện được việc ủy thác đó.

– Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thực hiện xong ủy thác thu thập chứng cứ hoặc hết thời hạn thực hiện việc ủy thác do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định, Tòa án được ủy thác gửi kết quả thực hiện ủy thác cho Tòa án ủy thác.

1.2.2. Đối với việc ủy thác cho cơ quan có thẩm quyền khác thu thập chứng cứ

Trường hợp việc thu thập chứng cứ phải tiến hành ở nước ngoài thì Tòa án làm thủ tục ủy thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài mà nước đó và Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về vấn đề này. Việc ủy thác được thực hiện theo quy định của Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19/10/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Tòa án nhân dân tối cao quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự.

1.3. Về thẩm quyền ban hành quyết định ủy thác thu thập chứng cứ

Theo khoản 3 Điều 48, điểm e khoản 2 Điều 97 và khoản 3 Điều 108 Bộ luật TTDS năm 2015, thẩm phán được phân công giải quyết vụ án là người có thẩm quyền ban hành quyết định ủy thác thu thập chứng cứ.

1.4. Về thời hạn thực hiện yêu cầu ủy thác thu thập chứng cứ

Tòa án được ủy thác có trách nhiệm thực hiện công việc cụ thể được ủy thác trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác và thông báo kết quả bằng văn bản cho Tòa án ủy thác. Trường hợp không thực hiện được việc ủy thác thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho Tòa án ủy thác.

1.5. Cách thức xử lý trong trường hợp không thực hiện được việc ủy thác hoặc không nhận được kết quả trả lời

Trường hợp Tòa án được ủy thác không thực hiện được việc ủy thác theo yêu cầu hoặc đã thực hiện việc ủy thác nhưng không nhận được kết quả trả lời thì Tòa án ủy thác giải quyết vụ án trên cơ sở chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ, việc dân sự.

2. Những bất cập, hạn chế và kiến nghị

Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về ủy thác thu thập chứng cứ tương đối đầy đủ, chi tiết tạo thuận lợi trong việc tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, qua thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự, việc áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về ủy thác thu thập chứng cứ còn phát sinh những bất cập, hạn chế sau đây:

Thứ nhất, về phạm vi lãnh thổ của Tòa án ủy thác thu thập chứng cứ và Tòa án được ủy thác thu thập chứng cứ

Do Bộ luật TTDS năm 2015 không quy định rõ phạm vi lãnh thổ của Tòa án ủy thác thu thập chứng cứ và Tòa án được ủy thác thu thập chứng cứ nên trên thực tế phát sinh nhiều cách hiểu khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, phạm vi lãnh thổ của Tòa án ủy thác và Tòa án được ủy thác chỉ áp dụng đối với các Tòa án cùng cấp với nhau (như Tòa án cấp huyện này với Tòa án cấp huyện khác trong cùng tỉnh hoặc khác tỉnh, Tòa án cấp tỉnh này với Tòa án cấp tỉnh khác), không áp dụng đối với Tòa án khác cấp với nhau (như giữa Tòa án cấp tỉnh với Tòa án cấp huyện trong cùng tỉnh hoặc khác tỉnh).

Quan điểm thứ hai cho rằng, phạm vi lãnh thổ của Tòa án ủy thác và Tòa án được ủy thác được áp dụng không chỉ đối với các Tòa án cùng cấp với nhau, mà còn được áp dụng đối với các Tòa án khác cấp với nhau. Bởi vì, Bộ luật TTDS năm 2015 không giới hạn phạm vi Tòa án ủy thác và Tòa án được ủy thác.

Tuy nhiên, để có cách áp dụng thống nhất, chúng tôi cho rằng, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cách xác định về phạm vi lãnh thổ của Tòa án ủy thác và Tòa án được ủy thác.

Thứ hai, về tính ràng buộc của biện pháp ủy thác thu thập chứng cứ

Hiện nay, do chưa có quy định về phạm vi thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự nên thay vì ủy thác cho Tòa án án khác thu thập chứng cứ ngoài phạm vi lãnh thổ của mình thì Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự tự mình trực tiếp tiến hành biện pháp thu thập chứng cứ (như ghi lời khai đương sự, người làm chứng ngoài phạm vi lãnh thổ nơi Tòa án có trụ sở; ban hành quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân ngoài phạm vi lãnh thổ của Tòa án cung cấp tài liệu, chứng cứ; yêu cầu cơ quan chuyên môn đo đạc quyền sử dụng đất, vật kiến trúc, cây trồng trên đất ngoài phạm vi lãnh thổ của Tòa án…).

Việc Tòa án tự thực hiện biện pháp thu thập chứng cứ ngoài phạm vi lãnh thổ của mình có thuận lợi là rút ngắn thời gian, tránh việc phải chờ Tòa án được ủy thác thực hiện việc thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, việc Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự thu thập chứng cứ ngoài phạm vi lãnh thổ của mình thường phát sinh chi phí lớn và khó khăn trong việc tiến hành công tác phối hợp.

Để có sự áp dụng thống nhất, chúng tôi cho rằng, Tòa án nhân dân tối cao cần hướng dẫn cụ thể phạm vi thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự.

Thứ ba, về trình tự, thủ tục ủy thác, thực hiện công việc ủy thác

Hiện nay, trình tự, thủ tục ủy thác, thực hiện công việc ủy thác chỉ được thực hiện dựa vào quy định tại Điều 105 Bộ luật TTDS năm 2015 và Điều 11 Nghị quyết số 04/2012. Tuy nhiên, Bộ luật TTDS năm 2015 và văn bản hướng dẫn chưa quy định đầy đủ thủ tục mà Tòa án ủy thác thực hiện (như hồ sơ ủy thác thu thập chứng cứ chưa có văn bản thể hiện nội dung sự việc, yêu cầu của đương sự và thẩm quyến ban hành loại văn bản này); chưa quy định đầy đủ thủ tục mà Tòa án được ủy thác thực hiện (như căn cứ pháp lý cần áp dụng khi Tòa án được ủy thác thực hiện công việc được ủy thác; nội dung văn bản trả lời kết quả ủy thác và thẩm quyền ký loại văn bản này). Điều này gây khó khăn cho Tòa án ủy thác, Tòa án được ủy thác trong việc thực hiện công việc ủy thác.

Để khắc phục vướng mắc này, chúng tôi cho rằng, cần luật hóa trình tự, thủ tục ủy thác được quy định tại Điều 11 Nghị quyết số 04/2012 và sửa đổi, bổ sung trình tự, thủ tục ủy thác, thực hiện việc ủy thác được quy định tại Điều 105 Bộ luật TTDS năm 2015 theo hướng chặt chẽ, cụ thể, tạo sự thuận tiện trong việc áp dụng.

Thứ tư, về thời gian thực hiện công việc ủy thác

Theo khoản 3 Điều 105 Bộ luật TTDS năm 2015, Tòa án nhận được quyết định ủy thác có trách nhiệm thực hiện công việc cụ thể được ủy thác trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác. Tuy nhiên, công việc cần thực hiện khi ủy thác theo khoản 3 Điều 105 Bộ luật TTDS năm 2015 lại là các biện pháp thu thập chứng cứ do Tòa án thực hiện. Trong khi đó, để thực hiện một số biện pháp thu thập chứng cứ do Bộ luật TTDS năm 2015 quy định (xem xét, thẩm định tại chỗ để đo đạc, định giá tài sản, giám định…) phải mất rất nhiều thời gian, thậm chí có trường hợp vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử do Bộ luật TTDS năm 2015 quy định. Cho nên, thời gian thực hiện công việc ủy thác mà Bộ luật TTDS năm 2015 quy định là không phù hợp với thực tế.

Để khắc phục bất cập này, chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi, bổ sung thời gian thực hiện công việc ủy thác cho phù hợp với từng biện pháp thu thập chứng cứ mà Tòa án được ủy thác cần thực hiện, theo hướng nâng thời gian thực hiện đối với những biện pháp thu thập chứng cứ cần nhiều thời gian.

Thứ năm, về cách thức xử lý trong trường hợp không thực hiện được việc ủy thác

Chúng tôi cho rằng, quy định của khoản 5 Điều 105 Bộ luật TTDS năm 2015 là chưa phù hợp. Bởi lẽ, quy định này yêu cầu: nếu hết thời hạn mà không nhận được kết quả ủy thác thì Tòa án ủy thác phải tiếp tục giải quyết vụ án. Thực tế cho thấy, trong một số trường hợp, nếu thiếu tài liệu, chứng cứ cần thu thập thông qua ủy thác thu thập chứng cứ thì không thể giải quyết được (như chưa có bản vẽ đo đạc, định giá…). Trong khi đó, các biện pháp thu thập chứng cứ mà Tòa án được ủy thác tiến hành cũng giống như các biện pháp thu thập chứng cứ mà Tòa án ủy thác đang thực hiện.

Để khắc phục hạn chế này, chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 105 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 theo hướng mở rộng kênh tiếp nhận kết quả ủy thác thu thập chứng cứ của Tòa án ủy thác. Chỉ khi nào thực hiện mọi biện pháp mà vẫn không thể có được kết quả ủy thác thu thập chứng cứ theo yêu cầu thì Tòa án ủy thác mới sử dụng tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ giải quyết vụ án.

Thứ sáu, về trách nhiệm của Tòa án được ủy thác khi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu ủy thác

Hiện nay, đa số những hồ sơ có hoạt động ủy thác thu thập chứng cứ thường có thời gian giải quyết vụ án kéo dài. Bên cạnh những khó khăn do nguyên nhân khách quan, bản thân biện pháp thu thập chứng cứ mà Tòa án được ủy thác cần áp dụng, còn có nguyên nhân khác được xem là nguyên nhân chủ yếu, đó là, Tòa án được ủy thác xem việc ủy thác là công việc của Tòa án khác nên ít quan tâm thực hiện hoặc có thực hiện nhưng không đến nơi đến chốn. Thậm chí, có những vụ án phải ủy thác nhiều lần. Mặc dù, Bộ luật TTDS năm 2015 có quy định thời hạn thực hiện công việc ủy thác nhưng lại không có chế tài nên vi phạm về thời gian thực hiện công việc ủy thác trên thực tế của Tòa án được ủy thác là rất nhiều. Bên cạnh đó, việc thực hiện công việc ủy thác mất nhiều thời gian, khó khăn, phức tác hơn việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, kết quả thực hiện ủy thác không được tính là 01 vụ, việc được giải quyết, không tính điểm khi xét thi đua khen thưởng cho đơn vị Tòa án được ủy thác, cá nhân thẩm phán, thư ký Tòa án trực tiếp tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ. Điều này dẫn đến thực trạng là Tòa án trực tiếp thực hiện yêu cầu ủy thác ít quan tâm thực hiện yêu cầu ủy thác.

Để khắc phục hạn chế nêu trên, chúng tôi cho rằng, Tòa án nhân dân tối cao cần hướng dẫn kết quả thực hiện yêu cầu ủy thác được tính vào kết quả giải quyết vụ việc của Tòa án được ủy thác, Thẩm phán trực tiếp thực hiện; quy định chế tài đối với Tòa án, thẩm phán không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ công việc được ủy thác.

TH.S THÁI CHÍ BÌNH

Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 19 (395), tháng 10/2019

5/5 - (1 bình chọn)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền