Các triều đại phong kiến Việt Nam đều có tư tưởng đề cao pháp luật trong quá trình cai trị. Pháp luật được xem là công cụ để quản lý xã hội, xây dựng nhà nước tập quyền, bảo vệ quyền lợi của nhân dân, giám sát, đề cao trách nhiệm của quan chức trong quá trình thực thi công vụ.
Abstract: The Vietnamese feudal dynasties had thoughts of high honors to the lawful regulations during their ruling process. Legislation was considered as a tool for social management, establishing the powered centralized state, assuring the rights of the people, supervising and promoting the responsibility of officials in the course of performing their public mandates.
Keywords: Laws; thoughts; dynasties; feudal; values
Lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam gắn liền với quá trình dựng nước, giữ nước và xây dựng mô hình chính quyền quân chủ chuyên chế. Quá trình đó, dù ở những mức độ khác nhau, đều có sự hiện diện của pháp luật. Vai trò của pháp luật đều được các triều đại phong kiến Việt Nam đề cao và coi trọng.
1. Pháp luật với việc quản lý xã hội, phát triển đất nước trong các triều đại phong kiến Việt Nam
1.1 Triều đại Ngô – Đinh – Tiền Lê (939-1009)
Triều Ngô (939-965), sau khi lên ngôi, Ngô Quyền “bắt đầu xưng vương, lập Dương Thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục”[1]. Ngô Quyền làm vua được 6 năm, nhưng theo lời hậu thế “phàm chính lệnh ban ra không ai không vui lòng nghe theo”[2]. Dù đời sống nhà nước, pháp luật thời Ngô, như lời nhận xét của sử gia Phan Huy Chú “đã cách xa, sách vở thiếu sót, không thể biết được”[3], nhưng có thể thấy, ngay từ những ngày đầu non trẻ của chính quyền tự chủ, ở Triều Ngô đã bước đầu có sự xuất hiện của pháp luật, ít nhất là về cách thức tổ chức bộ máy hành chính, chính quyền triều đình trung ương (“đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục”). Bên cạnh việc kế thừa hệ thống luật tục, tập quán ở giai đoạn trước, thì đây là nền tảng quan trọng để nhà Ngô vận hành bộ máy nhà nước và phát triển xã hội.
Đến Triều Đinh (968-980), các yếu tố căn bản của một chính quyền độc lập đã hiện diện, vua cho: “đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời kinh ấp về động Hoa Lư… đặt triều nghi”; “bắt đầu quy định cấp bậc văn võ, tăng đạo”[4]. Trong tổ chức chính quyền, nhà Đinh bắt đầu chú trọng hơn đến cấp chính quyền địa phương khi vừa kế thừa hệ thống tổ chức hành chính thời nhà Khúc, vừa thay thế hai cấp phủ, châu bằng cấp đạo để tiện việc quản lý. Trong quá trình điều hành đất nước, nhà Đinh chú trọng hoàn thiện các quy chế tổ chức và quản lý quân đội, đề cao phép tắc để răn dạy, tạo lập trật tự xã hội. Điển hình, nhà Đinh đã cho đặt vạc lớn ở sân đình, nuôi hổ giữ trong cũi và hạ lệnh “Kẻ nào trái phép thì bị bỏ vạc dầu sôi hoặc cho hổ xé xác ăn thịt”, do đó mà mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm. Đây chỉ là những biểu hiện điển hình, nhưng phần nào cho thấy một nguyên tắc trong đời sống chính trị pháp lý thời Đinh: đề cao “phép” – pháp luật, nghiêm trị những hành vi “trái phép” – vi phạm pháp luật.
Triều Tiền Lê (890-1009), đã tiến hành cải cách bộ máy nhà nước và pháp luật. Các công việc quan trọng của quốc gia như “định luật lệnh, chọn quân lính, chia tướng hiệu làm hai ban, đổi mười đạo làm phủ, lộ, châu”[5] đã được tiến hành bài bản hơn so với hai triều đại trước. Năm 980, vua Lê Đại Hành cho điểm dân làm binh lính, năm 1002, đưa ra quy định về đánh roi và tử hình để xử phạt các quan lại khi có những vi phạm nghiêm trọng trong quá trình vận hành quyền lực nhà nước. Năm 1009, vua Lê Long Đĩnh “xuống chiếu cho lấy quân và dân” để đào kênh, đắp đường. Chính quyền địa phương đã được tổ chức thành 5 cấp; quân đội được định theo ngạch quân 10 đạo, quy định khung biên chế quân đội trong cả nước. Như vậy, nhà Tiền Lê đã chính thức tiến hành hoạt động lập pháp, các văn bản pháp luật đơn hành của nhà vua đã xuất hiện và là công cụ để quản lý các lĩnh vực của đời sống đất nước.
Có thể thấy rằng, dù tư liệu lịch sử về hoạt động lập pháp của các triều đại Ngô – Đinh – Tiền Lê còn lại rất ít ỏi, nhưng những tư liệu còn lại cho thấy, ý thức vận hành, quản lý đất nước bằng pháp luật đã xuất hiện ngay từ những ngày đầu của chính quyền tự chủ. Các triều đại này đã xem mục tiêu tập hợp sức mạnh của toàn thể nhân dân để bảo vệ nền độc lập dân tộc là mục tiêu lớn nhất. Việc chuyển kinh đô lên vùng núi non hiểm trở, xây dựng chính quyền trung ương với chỗ dựa là quân đội vững mạnh, phát triển hệ thống quan lại vận hành quyền lực nhà nước theo khuôn phép của triều đình, bình định các thế lực cát cứ… đều nhằm hướng đến mục tiêu to lớn đó.
1.2 Triều đại Lý – Trần – Hồ (1010-1407)
Triều Lý (1010-1025). Lần đầu tiên trong lịch sử, một bộ luật thành văn – bộ Hình thư đã được ban hành năm 1042, vào đời vua Lý Thái Tông. Xuất phát từ thực tế “việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan giữ việc hình câu nệ luật văn, cốt làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy làm thương xót”, Nhà vua đã cho “Ban hình thư… sai trung thư sửa định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời bấy giờ, chia ra môn loại, biên ra điều khoản, làm sách Hình luật của triều đại, để cho người xem dễ hiểu”[6]. Bộ Hình thư nhà Lý gồm 3 quyển, tuy sớm thất truyền, nhưng là thành tựu to lớn trong lịch sử pháp luật Đại Việt, minh chứng nhà nước phong kiến Việt Nam đã có thể có một nền pháp luật thống nhất trong cả nước, đủ khả năng để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Qua các đạo chiếu còn lại của triều Lý, pháp luật đã được xem là công cụ để nhà nước điều chỉnh các lĩnh vực quan hệ cơ bản trong xã hội. Nội dung, tính chất, vị trí cùng các nguyên tắc vận hành pháp luật của nhà nước cũng được thể hiện khá rõ. Cụ thể:
Pháp luật là phương tiện để bảo vệ quyền, lợi ích, giảm bớt sự khắc nghiệt, oan uổng vốn dễ bị các quan lại của nhà nước gây ra cho nhân dân. Điển hình là các chiếu (năm 1208, 1042) về xử phạt binh lính cướp của của dân, sẽ bị chém hoặc bị trượng; bảo vệ quyền tự do của con người như các chiếu cấm mua bán hoàng nam làm đầy tớ (năm 1042); bảo vệ thường dân trong chiến tranh (chiếu năm 1044); bảo đảm an ninh trật tự cho dân chúng trong hương ấp (chiếu năm 1128); nhà Lý cũng thường xuyên ban hành các lệnh đại xá thiên hạ như miễn thuế, miễn lao dịch, tha bổng hoặc giảm nhẹ hình phạt cho tù nhân trong những dịp nhất định…
Pháp luật triều Lý đã bước đầu quy định, đề cao trách nhiệm của quan lại trong quá trình thực hiện quyền lực: quan lại phải nghiêm chỉnh thừa hành công vụ được giao, không được phép lợi dụng việc công để mưu lợi riêng, quan lại tham nhũng sẽ bị nghiêm trị (chiếu các năm 1042, 1130, 1044). Trách nhiệm của người dân trong việc ngăn ngừa tội phạm, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật cũng được nhà Lý quy định khá độc đáo: 3 hộ gia đình hợp thành một bảo, mỗi bảo phải chịu trách nhiệm liên đới khi có người trong bảo phạm tội liên quan đến chứa dấu hoàng nam làm đầy tớ, hoặc giết trâu bò. Quy định này đã thực sự mang tính giáo dục, phòng ngừa của pháp luật (chiếu 2/1043, năm 1123).
Pháp luật triều Lý thể hiện tinh thần nhân đạo, bảo vệ nhóm người yếu thế trong xã hội qua các đạo chiếu: cho phép người già 70-80 tuổi, trẻ em 10-15 tuổi, người ốm yếu nếu phạm tội trừ tội thập ác, được phép chuộc tội bằng tiền; chọn cấm quân không được chọn ở hộ cô độc (các chiếu năm 1042, 1147).
Tư tưởng đề cao pháp luật của nhà Lý còn thể hiện trong việc thực hiện, áp dụng pháp luật. Khi vừa lên ngôi, vua Lý Thái Tổ đã cho xây cung Long Đức, lấy điện Diên Khánh, Quang Vũ làm nơi xử kiện và cho dân khiếu kiện, và quy định: “Từ nay ai có việc tranh kiện cho đến triều tâu bày, Vua thân xét quyết”[7]. Vua Lý Thái Tông vào năm 1029 đã cho đặt ở phía đông thềm rồng điện Văn Minh, phía tây điện Quang Vũ, hai bên hữu thềm rồng đặt lầu chuông đối nhau để “dân chúng ai có oan ức việc kiện tụng oan uổng thì đánh chuông lên”[8]. Vua Lý Thánh Tông đã từng trực tiếp chỉ đạo: “người dân không biết mà mắc phải hình pháp, ta rất lấy làm thương. Từ năm về sau, không cứ gì tội nặng nhẹ, đều nhất loạt khoan giảm”[9]. “Trẫm ở trong cung nào lò sưởi ngự, nào áo lót cầu còn rét như thế này, nghĩ đến người tù giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa biết rõ ngay gian, … có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy hạ lệnh cho hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày hai lần phát cơm”[10]. Nhà Lý có nhiều chính sách khoan dung với kẻ phạm tội, coi tội nhân ở góc độ nào đó như là nạn nhân của xã hội, các hình phạt được cân nhắc nặng nhẹ hợp lý, nhằm để cải tạo, giáo hóa họ.
Nhà Lý còn chú trọng đến việc nâng cao ý thức, hiểu biết pháp luật cho đội ngũ quan lại trong bộ máy nhà nước. Cho rằng, việc hiểu biết pháp luật là điều kiện và tiền đề tối thiểu để có thể làm quan, thực hiện tốt trọng trách quản lý nhà nước, Nhà Lý đã đưa các kiến thức pháp luật vào thành một trong những môn, nội dung thi tuyển quan lại. Tháng 2/1077, vua Lý Nhân Tông đã hạ chiếu quy định, thi tuyển quan lại phải thi 3 môn: viết chữ, toán và pháp luật. Pháp luật còn được coi như môn học bắt buộc trong đào tạo quan lại bên cạnh các kiến thức khác[11].
Triều Trần (1225-1400). So với triều Lý, công việc pháp điển hóa, tập hợp hóa pháp luật ở triều Trần được chú trọng hơn. Triều Trần đã ban hành bộ Hình thư (năm 1341), cùng nhiều văn bản tập hợp hóa như: Quốc triều thông chế (1230), Quốc triều thường lễ (1230), Hoàng triều đại điển (1341), Hoàng triều Ngọc điệp (1267), Công văn cách thức (1290) cùng nhiều văn bản đơn hành của nhà vua như đạo, chiếu, lệnh quy định về các lĩnh vực hành chính, hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng, kinh tế…
Pháp luật triều Trần, dù chịu ảnh hưởng của pháp luật Trung Hoa, nhưng trong quá trình lập pháp, đã thể hiện sự sáng tạo, tự chủ và tinh thần độc lập dân tộc. Điều này được minh chứng một phần từ chỉ dụ của vua Trần Nghệ Tông: “Triều trước dựng nước, có luật pháp, chế độ riêng, không theo quy chế của nhà Tống. Là vì Nam, Bắc; nước nào làm chủ nước đó, không phải bắt chước nhau”[12]. Hay trong một Chiếu tháng 10/1374, nhà Trần đã cấm quân và dân không được mặc áo, chải đầu theo người phương Bắc và bắt chước tiếng nói của người các nước Chiêm Thành, Lào để giữ gìn bản sắc dân tộc.
Tư tưởng cai trị khoan hòa, lấy dân làm gốc từ thời nhà Lý, cũng như tư tưởng “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc” của Trần Quốc Tuấn được nhà Trần tiếp tục xem là “thượng sách giữ nước”, được vận dụng trong quá trình xây dựng pháp luật và quản lý xã hội của mình.
Pháp luật triều Trần đã kế thừa các lĩnh vực điều chỉnh cơ bản của pháp luật triều Lý, đồng thời có sự phát triển đặc biệt về lĩnh vực pháp luật dân sự. Những quy định cụ thể về cách thức thiết lập di chúc, văn khế liên quan đến mua bán ruộng đất hoặc vay mượn đã được bổ sung, phát triển. Pháp luật thời này là công cụ hữu dụng bảo vệ sở hữu tư nhân và giải quyết các tranh chấp ngày càng gia tăng trong xã hội.
Để pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, các vi phạm được xét xử kịp thời, việc giám sát, trách nhiệm của quan lại trong việc bảo vệ pháp luật được đề cao, nhà Trần đã lập ra hệ thống các cơ quan pháp luật mang tính chuyên trách ở trung ương, như: Thẩm hình viện, Tam ty viện giữ chức năng của cơ quan tòa án, kiểm sát. Cụ thể, Thẩm hình viện có chức năng xem xét các vụ kiện tụng thành án rồi cùng với Tam ty viện định tội. Đăng văn viện (sau đổi thành Đình úy ty) là cơ quan xét xử những án tình ghi tội nặng nhằm đảm bảo sự chính xác, khách quan trong quá trình áp dụng pháp luật; Ngự sử đài là cơ quan giữ phong hóa, pháp độ, giám sát quan lại trong việc thi hành pháp luật để tránh hiện tượng lạm dụng quyền lực nhà nước. Năm 1244, Chiếu quy định cách thức thi hành các luật hình đã được ban hành, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm công vụ được đề cao đối với cả dân chúng và quan lại. Nếu như nhà Lý quy định trách nhiệm liên đới, kiểm soát đối với 1 bảo là 3 gia đình, thì đến nhà Trần mở rộng thành 10 gia đình, thậm chí còn rộng đến cả một phường, xã (như đối với tội hàng giặc mà dân hai phường Bà Điểm và Băng Hà đã phải chịu – làm lang mộc binh và suốt đời không được thi cử làm quan). Đối với hệ thống quan lại quản lý nhà nước, bên cạnh trách nhiệm công vụ, quy định quan chế (chiến năm 1246) phải gánh vác, còn phải tuân thủ Hoàng pháp của triều đình, dòng họ, để có những ứng xử phù hợp với đòi hỏi của lễ giáo phong kiến (quan lại phải tham dự đầy đủ các lễ hội thề đền Đồng Cổ: tận trung với Vua, với xã tắc).
Có thể thấy rằng, điểm nổi bật nhất trong tư tưởng chính trị pháp lý của nhà Trần là đề cao tính nghiêm minh của pháp luật. Pháp luật với hệ thống hình phạt nặng, đa dạng, mang tính răn đe cùng quá trình thực thi pháp luật nghiêm khắc sẽ quyết định trật tự, sự vững mạnh của xã hội, củng cố mô hình trung ương tập quyền.
– Triều Hồ (1400-1407): Nhà Trần giai đoạn cuối, về lý thuyết vẫn duy trì mô hình cai trị tập quyền thân dân, nhưng thực tế, có nhiều mâu thuẫn với mô hình đó: vua tôi vơ vét của cải của dân, tư hữu ruộng đất phát triển mạnh, phá vỡ bệ đỡ là chế độ công về tư hữu về ruộng đất, sức mạnh của triều đình trung ương suy giảm; tư tưởng từ bi hỷ xả của đạo Phật không còn thích dụng với tình trạng bất công, rối ren của đất nước. Nhà Hồ nhân cơ hội đó đã cướp ngôi nhà Trần.
Sau khi lên ngôi, nhà Hồ đã phải đương đầu với hàng loạt khó khăn như sự sa sút về kinh tế của đất nước, năng lực quản lý của đội ngũ công chức; sự ly tán của các tầng lớp dân cư; nạn xâm lăng đe dọa; đặc biệt là “lòng dân không thuận” do sự lên ngôi không “chính danh” của nhà Hồ. Để khắc phục những hạn chế này, ban đầu, nhà Hồ về cơ bản tiếp tục cho thi hành pháp luật của các triều đại Lý – Trần để ổn định xã hội, “phòng khi lòng dân nhớ tục cũ”. Sau đó, đã dần thực hiện hàng loạt các cuộc cải cách với mục đích khôi phục sức mạnh của chính quyền trung ương, bảo vệ và phát triển đất nước. Điển hình phải kể đến những chính sách quan trọng như: chính sách hạn điền (năm 1397), chính sách hạn nô (năm 1401), các chính sách cải cách kinh tế, xã hội khác như phát hành tiền giấy, thống nhất đơn vị đo lường, đổi mới chế độ thuế khóa, chính sách về an ninh lương thực quốc gia, đồng thời cho “sửa lại luật hình”, ban hành bộ Đại ngu quan chế hình luật.
Chính sách hạn điền là việc nhà nước định lượng sở hữu tư nhân về đất đai. Mỗi chủ sở hữu chỉ được sở hữu tối đa 10 mẫu ruộng (riêng đại vương, trưởng công chúa… được miễn trừ), số ruộng dôi ra cũng như số ruộng không chịu kê khai nếu bị phát hiện sẽ thuộc sở hữu công của nhà nước. Chính sách này đã làm tăng số lượng ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước, đồng thời là cơ sở cho chính sách hạn nô. Hạn nô là hạn chế số gia nô của mỗi quý tộc, nhằm kiểm soát số đinh và ngăn chặn tình trạng nông nô hóa nông dân đang có xu hướng phát triển thời kỳ đó. Chính sách cải cách thuế khóa với mục đích tăng cường sự đóng góp của tầng lớp trung lưu, giảm bớt cho người nghèo như: tăng thuế đối với ruộng đất tư, tăng giảm mức thuế đối với từng loại đất tùy thuộc vào tính chất sử dụng, như giảm thuế chung với ruộng bãi dâu, chia ruộng bãi dâu để đánh thuế theo từng mức cao thấp khác nhau tùy thuộc vào ruộng xấu hay tốt, chỉ thu thuế đinh với những người có ruộng, còn lại nếu không có ruộng thì miễn chứ không thu đồng loạt như thời trước, đối với đàn bà góa, trẻ mồ côi thì không phải đóng thuế. Ngoài ra, nhà Hồ còn có chính sách đảm bảo an ninh lương thực quốc gia bằng cách cho xây dựng các kho “thường bình” ở địa phương, cấp tiền để mua lương thực dự trữ khi giá hạ, và bán ra khi giá lên để ổn định giá lương thực cho người dân…
Những chính sách cải cách của nhà Hồ, dù còn dang dở, chưa được lòng dân, các thế lực hưởng lợi chủ yếu vẫn là họ hàng tôn thất nhà Hồ và tầng lớp phong kiến có của, nhưng cũng không thể phủ nhận việc nhà Hồ đã nhận thức được nguyên nhân cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị của nhà Trần, nhận thức được vai trò của nhà nước trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật, tiến hành các cuộc cải cách để phát triển kinh tế đất nước, ổn định đời sống nhân dân. Các cuộc cải cách kinh tế mà nhà Hồ đề ra và bước đầu thực hiện cho thấy tư tưởng về trách nhiệm của nhà nước, của người quản lý trong việc hoạch định chính sách, pháp luật nhằm phát triển kinh tế đất nước, duy trì trật tự xã hội: nhà nước, chứ không phải chủ thể nào khác, phải là chủ thể chủ yếu có trách nhiệm định hướng, giải quyết các công việc trọng đại của quốc gia.
1.3 Triều Hậu Lê (đầu thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI)
Triều Hậu Lê được xem là triều đại có đời sống pháp luật phong phú nhất. Ngay từ thời Lê Thái Tổ, cùng với việc kiện toàn bộ máy nhà nước, việc xây dựng pháp luật đã rất được chú trọng. Pháp luật chính là thứ “để cho lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, khinh trọng cùng kiểm chế nhau. Uy quyền không bị lợi dụng, thế nước vậy là khó lay. Thành thói quen theo đạo giữ phép, không có lỗi trái nghĩa phạm hình”[13]. Pháp luật được phát huy vai trò một cách tối đa trong đời sống, hệ thống các văn bản pháp luật được ban hành chiếm số lượng đáng kể, hình thức đa dạng, như: Bộ Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức, 1428), bộ Luật thư do Nguyễn Trãi biên soạn (1440), Bộ Lê triều quan chế (1471), Thiên Nam dư hạ tập (1483), Hồng Đức thiện chính thư (1470), Quốc triều khám tụng điều lệ (1777), cùng hàng trăm văn bản pháp luật đơn hành như chiếu, chỉ, dụ, sắc, lệnh của nhà vua được ban hành.
Pháp luật, trong đời sống pháp lý của nhà Lê đã thực sự trở thành công cụ để quản lý đất nước, là phương tiện cao nhất để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của con người, trật tự xã hội. Việc tuân thủ và thực thi pháp luật nghiêm minh được xem là thước đo đối với chất lượng của hệ thống quan chức thừa hành công vụ nhà Lê.
Hầu hết các quan hệ xã hội quan trọng đều được nhà Lê quy tắc hóa. Trong đó, nhiều quan hệ xã hội được điều chỉnh theo hướng bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của con người. Pháp luật thời kỳ này còn dung hòa được các quy tắc quản lý xã hội với phong tục tập quán, truyền thống của dân tộc. Pháp luật hình sự dù có hệ thống các hình phạt nghiêm khắc, nhưng vẫn thể hiện tinh thần nhân đạo khi đã bước đầu phân biệt được lỗi cố ý, vô ý trong quá trình xác định tính chất của hành vi cũng như truy cứu trách nhiệm hình sự; đề cao nguyên tắc “vô luật bất hình”; nhân đạo với nhóm người yếu thế trong xã hội, như miễn giảm trách nhiệm đối với người già, trẻ em, phụ nữ có thai, người tàn tật; trường hợp quan lại bạo hành, tra tấn, ngược đãi tù nhân bị nghiêm trị.
Trong lĩnh vực dân sự, pháp luật triều Lê đã thể hiện những điểm tiến bộ khi quy định về sở hữu, thừa kế, hợp đồng. Trong thừa kế, pháp luật đã ghi nhận cả quyền thừa kế của con gái, con nuôi, người vợ; trong lao động, phụ nữ được trả công ngang bằng với đàn ông: “không có sự phân biệt về tiền công nhật cho lao động đàn ông với đàn bà” (Điều 23 Quốc triều hình luật). Đây được xem là những điểm tiến bộ vượt bậc của pháp luật Hậu Lê, khi đã vượt ra khỏi định kiến Nho giáo “trọng nam khinh nữ” thông thường.
Trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình, pháp luật Hậu Lê đã đặc biệt bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ: họ được đảm bảo quyền về tài sản, có quyền có tài sản riêng; có quyền được bảo vệ hôn nhân; quyền được ly dị khi quyền lợi chính đáng bị xâm hại…
Trong lĩnh vực tố tụng, pháp luật Hậu Lê có sự phát triển vượt bậc. Các quy định tố tụng không chỉ được quy định tại hai chương Bộ vong và Đoán ngục của Bộ Quốc triều hình luật, mà còn được quy định trong riêng một bộ luật tố tụng là Bộ Quốc triều khám tụng điều lệ. Ở góc độ tích cực nhất, pháp luật tố tụng Hậu Lê, đặc biệt trong là Bộ Quốc triều Khám tụng điều lệ, đã có những tư tưởng cơ bản về liêm chính tư pháp. Thể hiện ở việc, Bộ luật đề cao ý thức trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp của các cán bộ tư pháp trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý như: yêu cầu cán bộ tư pháp giải quyết các vấn đề tố tụng phải trên tinh thần bảo vệ được cao nhất các lợi ích hợp pháp của các bên liên quan; các hành vi xâm hại đến quyền con người từ phía cán bộ tư pháp đều bị nghiêm trị (Lệ về khám tụng). Bộ luật cũng chứa đựng tinh thần đấu tranh chống tham nhũng, bảo đảm sự trong sạch của tư pháp khi quy định rõ ràng các vấn đề liên quan đến các loại án phí, có nhiều quy định nhằm hạn chế sự nhũng nhiễu từ phía cán bộ tư pháp (Lệ về tróc bắt, Lệ về tiền tạ đảm). Đặc biệt, đã có những đảm bảo cho liêm chính tư pháp khi bước đầu có cơ chế bảo đảm sự độc lập của các chủ thể tham gia tố tụng; bước đầu có cơ chế đảm bảo năng lực tiếp cận công lý cho người dân nhằm thúc đẩy trách nhiệm của cơ quan tư pháp. Cụ thể, đã có những quy định về thời hạn, thời hiệu khởi kiện, cách thức nộp đơn, cách thức khởi kiện, chống án, cách thức kiểm tra, ghi bản án, cách thức công khai bản án, quyết định sau khi xét xử; cách thức soát tụng của cơ quan tư pháp cấp trên với cấp dưới (Lệ soát tụng, Lệ kiện tụng sự ức hiếp, Lệ về tróc bắt)…
Pháp luật tạo cơ chế kiểm soát bộ máy nhà nước, quy định trách nhiệm của quan lại trong thừa hành công vụ. Việc kiểm soát, hạn chế lạm quyền, tiếm quyền trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước là tư tưởng chủ đạo của pháp luật thời Hậu Lê, nhất là ở triều đại Lê Thánh Tông. Kiểm soát quyền lực vừa là phương tiện, vừa là mục đích trong tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước. Nhà Hậu Lê đã xây dựng một cơ chế người đứng đầu nhà nước trực tiếp điều hành, kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn chế khâu trung gian bằng cách bỏ các chức như tể tướng, đại hành khiến. Các cơ quan quản lý được chuyên môn hóa và luôn có sự giám sát, kiểm soát, ràng buộc quyền lực hữu hiệu với nhau. Điển hình có thể kể đến hai thiết chế cơ bản là Lục Khoa giám sát Lục Bộ và Ngự sử đài giám sát quan lại cùng phong hóa pháp độ của triều đình. Trong quá trình áp dụng pháp luật, đề cao trách nhiệm cá nhân và đạo đức công vụ của người áp dụng pháp luật, đảm bảo thẩm quyền, thời hạn và trình tự áp dụng pháp luật, đề cao tính chính đáng và hợp pháp của quyết định áp dụng pháp luậtthông qua việc quy định chặt chẽ thời hạn, cách thức áp dụng, cách thức ghi bản án… Đặc biệt, nhà Hậu Lê có cơ chế hạn chế quyền lực của chính nhà vua – bằng các hình thức như lập cơ quan can gián, quy định không sử dụng các quyết định nhất thời của Vua như tiền lệ…
Trong các bộ luật cơ bản của nhà Hậu Lê, trách nhiệm quan lại luôn được quy định dưới hai hình thức: một là, trách nhiệm công vụ; hai là, trách nhiệm pháp lý. Quan lại luôn phải có sự chính trực, mẫn cán, vô tư trong quá trình thực thi công vụ, đồng thời luôn phải chịu dự liệu sẵn các hậu quả pháp lý bất lợi và sẽ bị áp dụng nếu như vi phạm.
Tư tưởng đề cao vai trò của nhà nước trong việc tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ quyền lợi Nhân dân. Theo Lê Thánh Tông: “Lễ nghĩa để sửa tốt lòng dân, nông tang để có đủ cơm áo, hai việc cần kíp ấy của chính sự là chức trách của các thú mục…”. Các chính sách của nhà nước do đó đều trực tiếp, gián tiếp phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu Nhân dân no ấm, yên bình. Trách nhiệm của các thừa hiến phủ, huyện châu các xứ là “phải bỏ hết tệ trước, phàm sắc lệnh của triều định phải một lòng vâng làm, Nhân dân bị đói rét phải nhiều cách kinh lý”. Nhà nước phải nhận thức được “Để dân được no ấm, cần bớt sự trưng thuế và cung ứng”; phải khuyến khích dân việc canh nông, đắp đê, giữ nước, bồi bổ ruộng đất, định lệ bồi đắp ruộng đất phù hợp với đồng chiêm, đồng mùa để “tiện cho dân”, để cho dân khỏi đói khổ…
Nhà nước chính là chủ thể phải đảm bảo tính công khai, minh bạch của pháp luật: “Từ nay về sau, phàm có các chỉ, các lệ về việc lớn nhỏ thì bộ phụ trách, xứ ty và các nha môn phủ huyện châu đều biên ra bảng treo dán lên, để cho nhân dân tuân theo mà làm”[14]. Pháp luật phải được xây dựng phù hợp với đạo đức, phải là công cụ để bảo vệ đạo đức: “Lấy pháp luật mà trị tội, sao bằng lấy phép mà bảo trước”[15], “Người ta sở dĩ khác giống cầm thú là vì có lễ để phong giữ. Nếu không có lễ thì bừa bãi tình dục, phóng đãng xằng bậy, không gì không làm.”[16]
Để pháp luật phát huy được các giá trị tự thân của nó, các hành vi vi phạm pháp luật phải bị xử lý thật thích đáng, bất kể kẻ vi phạm pháp luật ở địa vị nào, và nhiệm vụ đó nhà nước phải đảm bảo: “Đặt luật là để trừ kẻ gian, sao dung được bọn coi thường pháp luật”, “Quân pháp chỉ có một chứ không có hai”[17]. Thực tế chứng minh, vua Lê Thánh Tông đã cho xử lý rất nặng đối với các vụ việc mà người vi phạm là các quan chức của nhà nước. Người thi hành pháp luật là cần phải tuân thủ pháp luật trước tiên, cho nên, thời hạn phải đưa một vụ việc vi phạm pháp luật ra xử lý được quy định rất cụ thể; đặc biệt, đối với những trường hợp các cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền gây ra oan ức cho người bị áp dụng đều có quy địnhhướng dẫn cách giải quyết và chế tài xử lý nghiêm khắc.
Nhà Hậu Lê cũng thường đề cập đến tính công khai, minh bạch cần phải có của pháp luật: “Từ nay về sau, phàm có các chỉ, các lệ về việc lớn nhỏ thì bộ phụ trách, xứ ty và các nha môn phủ huyện châu đều biên ra bảng treo dán lên, để cho nhân dân tuân theo mà làm”[18]. Pháp luật còn phải phù hợp với đạo đức, phải là công cụ để bảo vệ đạo đức: “Lấy pháp luật mà trị tội, sao bằng lấy phép mà bảo trước”[19], “Người ta sở dĩ khác giống cầm thú là vì có lễ để phong giữ. Nếu không có lễ thì bừa bãi tình dục, phóng đãng xằng bậy, không gì không làm.”[20] Việc tôn trọng pháp luật được nhà Hậu Lê yêu cầu trở thành một thói quen, lối sống của mọi người.
1.4 Triều Nguyễn (1832-1884)
Là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, trên tinh thần kế thừa những thành tựu của triều đại trước, Triều Nguyễn đã xây dựng một hệ thống chính quyền, cùng hệ thống pháp luật có quy mô lớn. Nhằm xây dựng một nền quân chủ chuyên chế với quyền lực tập trung vào nhà Vua, một bộ máy hành chính mạnh, đất nước ổn định, phát triển, nhà Nguyễn càng ý thức rõ vai trò của pháp luật trong đời sống. Công tác xây dựng pháp luật được nhà Nguyễn chú trọng, với các thành tựu điển hình như: Bộ Hoàng Việt luật lệ (1815), Hội điển toát yếu (1833), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (1843-1855), Minh Mệnh chính yếu, Đại Nam điển lệ toát yếu…
Hệ thống pháp luật triều Nguyễn đã tạo cơ sở cho quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc hầu hết các lĩnh vực trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Tư tưởng đề cao pháp luật của triều Nguyễn, bên cạnh không ít điểm tương đồng với các triều đại trước, là các biểu hiện cơ bản như: phải kết hợp đức trị và pháp trị trong quá trình quản lý nhà nước, chú trọng nhất định đến các tập quán, phong tục của làng xã Việt Nam; pháp luật quy định và bảo vệ quyền lợi của nhân dân; là phương tiện quan trong trong chế ước, hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà nước.
– Đề cao tư tưởng pháp trị kết hợp đức trị trong quản lý xã hội. Pháp luật, với hệ thống hình phạt, theo quan điểm nhà Nguyễn không những để “răn dạy kẻ ác”, “tru diệt lòng tham”, mà còn là yếu tố chi phối hành động của nhà vua, quan lại, là “phép nước”, tránh việc “giấu diếm tư lợi”, để “nghiêm trị không tha” những hành vi vi phạm. Pháp luật còn mang tính giáo dục “Hình phạt là một công cụ dùng để giáo hóa”[21], pháp luật phải mang nội dung nhân đạo, chứa đựng các quy định thưởng phạt rõ ràng, để tác động vào ý thức của dân, để dân tự giác thực hiện pháp luật. Pháp luật không chỉ “hợp với đời xưa” mà còn phải “châm chước việc đời nay”.
Các lĩnh vực quan hệ pháp luật trong Bộ luật Gia Long, dù được đánh giá không kế thừa hoàn toàn những tiến bộ của bộ luật Hồng Đức, nhưng cũng thể hiện rõ tinh thần nhân đạo, kết hợp pháp trị, đức trị, phong tục, tập quán dân tộc. Như trong lĩnh vực hình sự, đã quy định rõ hơn các nguyên tắc cơ bản, đã có sự phân định rõ các loại tội phạm để tiện cho việc xem xét trách nhiệm pháp lý, các nguyên tắc chiếu cố đối với nhóm người yếu thế phạm tội vẫn được duy trì. Lĩnh vực dân sự đã có sự phát triển nhất định khi quy định cụ thể hơn về việc xác định chủ sở hữu liên quan đến nhặt được của rơi, đồ chôn giấu (Điều 136 Bộ luật Gia Long); về hợp đồng, về trách nhiệm dân sự đã có phân loại cụ thể, phù hợp với các tiêu chuẩn đạo đức của xã hội (do vi phạm khế ước, do gây thiệt hại, do hành vi phạm tội); nhiều trường hợp chia thừa kế, Bộ luật Gia Long vẫn cho phép theo “luật cũ” mà xử.
Trong lĩnh vực tố tụng, pháp luật triều Nguyễn có đã có sự chuyên môn hóa khi toàn bộ quá trình giải quyết vụ án từ nhận đơn, điều tra, khám nghiệm, giam giữ, xét xử, thi hành án đều thuộc quyền của một nha môn. Các cấp xét xử đã được phân rõ ràng; đã bước đầu có sự phân định thẩm quyền xét xử theo loại vụ việc (việc dân và việc quân). Trách nhiệm của các cơ quan trong quá trình tố tụng được quy định rõ nhằm hướng đến việc giải quyết nhanh chóng, hiệu quả vụ việc. Các thủ tục bắt người, giam giữ, khảo cung, xét xử, thi hành án đều có quy định rõ. Đặc biệt, pháp luật triều Nguyễn quy định trách nhiệm của quan lại trong tố tụng rất nghiêm khắc. Quan án sẽ bị nghiêm trị khi để lọt tội phạm, làm oan sai hoặc vi phạm công lý, xâm phạm đến quyền con người; 24 trường hợp về sự thêm bớt được quy định làm căn cứ để định tội quan án; đặc biệt, quan án có trách nhiệm phải biện minh cho tội nhân nếu như nhận thấy vụ việc có minh chứng có thể chứng minh tội nhân bị oan, nếu không thực hiện trách nhiệm này sẽ bị xử như tội cố ý thêm tội cho người khác…
– Đề cao vai trò của người thực thi pháp luật. Pháp luật muốn thực sự có hiệu quả, cần phải được sử dụng một cách thấu tình đạt lý, người sử dụng pháp luật phải có độ linh hoạt nhất định. Bởi bản thân pháp luật, vốn đã khắc nghiệt vì vẫn được đánh đồng với hình luật ở thời bấy giờ, lại còn thường lạc hậu vì “Luật theo ý đời xưa, mà lệ lại châm chước việc đời nay, thay đổi biến thông, không thể như keo gắn cột mà cố định được”, do đó, nhà Nguyễn đã chủ trương khoan dung trong việc thi hành, không quá cứng nhắc, quá phụ thuộc và các quy định cụ thể của pháp luật, mà “tình cũng nên thương, nếu theo đúng luật mà xử tử, thì đâu phải ý nghĩ thương xót được, cho phép tâu để giảm tội phạt”[22]. Hình phạt là thứ làm cho dân sợ nhưng cái làm cho dân “biết hổ thẹn mà đổi lỗi” chính là “đức hạnh” được “dẫn đạo” đến nơi đến chốn. Pháp luật trong đời sống phải được thực thi đồng thời với các chính sách hợp lý của nhà nước. Không thể chỉ trông chờ vào sự nghiêm khắc của hình phạt do nhà nước độc quyền thi hành, mà cần phải có sự hỗ trợ của toàn xã hội, của mỗi người dân trong việc tố cáo tội phạm, chủ động bảo vệ quyền và lợi ích của mình trên cơ sở sự hỗ trợ kịp thời về vật chất của nhà nước “tiền của triều đình cốt để giữ dân, sau khi việc trộm cướp phát ra, sự chi phí không ít, sao bằng dự tính cách treo giải thưởng cho mọi người đều ra sức dò bắt, để có hiệu quả hết trộm yên dân”. Áp dụng hình phạt phải đúng người đúng tội, trách nhiệm phải được đặt ra trực tiếp đối với người có hành vi vi phạm, không có chuyện chịu tội thay như trước “người làm ra tội, phải chịu hình phạt, nếu mỗi việc, mỗi người cho thay nhau chịu tội thì ra tha kẻ phạm tội, mà phạt đứa vô can”[23]. Trách nhiệm trước pháp luật phải được đặt ra đối với mọi trường hợp, bất kể người thực hiện hành vi vi phạm đó là ai: “nếu vì con em mà không áp dụng pháp luật, thời lấy gì làm gương cho mọi người”.
– Đề cao quyền lợi của Nhân dân. Trong hệ tư tưởng của nhà Nguyễn, tình yêu thương Nhân dân, tinh thần tôn trọng Nhân dân, được thể hiện khá đa diện, trước hết “Dân là gốc nước. Dân không yêu mến thì ngươi có thể hưởng giầu sang mãi được không?”. Từ quan niệm Nhân dân là nền tảng, là hạt nhân xây dựng nên nước, Minh Mệnh đã đi đến nguyên tắc “trị nước lấy được lòng dân làm gốc”, bản thân thấy mình phải hóa thân vào dân, đặt mình vào địa vị, tình cảm của dân “yêu cái dân yêu, ghét cái dân ghét” “người làm chính trị không thể trái ý muốn của dân”[24]. Từ việc nhận thức đúng vai trò của quần chúng nhân dân, Minh Mệnh xác định và hướng đến giải quyết một vấn đề mang tính bản ngã luận đó là: “Dân lấy việc ăn làm lớn nhất”[25], cho nên, mọi việc quốc gia đại sự, cuối cùng là để nhân dân được no ấm, đây là mục đích sống còn và là tiền đề để phát triển đất nước: “Nếu cứ ngồi nhìn dân kêu đói thì kho tàng chứa đầy để làm gì?”, “Điều đáng lo ấy là lo dân ta đói kém thôi”. Do vậy, ông chủ trương phải củng cố và phát triển dân sinh “gốc của việc dân sinh là làm ruộng, siêng năng cấy gặt, thu được mùa to”[26].
– Pháp luật là đại lượng cơ bản để chế ước, hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà nước. So với thời Hậu Lê, việc chế ước, kiểm soát quyền lực được nhà Nguyễn phát triển và thi hành triệt để hơn với các thiết chế hoàn thiện hơn. Các cuộc cải cách đã diễn ra khá triệt để. Ở Trung ương, Minh Mệnh quy định cụ thể về chế độ, chức trách của quan lại, về nhiệm vụ cơ bản của 6 bộ, quy định cụ thể 6 khoa (do cấp sự trung đứng đầu) tương ứng bên cạnh 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) và 6 tự (do tự khanh đứng đầu). Đây là các cơ quan chịu trách nhiệm trực tiếp trước vua. Hai cơ quan giúp việc quan trọng cho vua là Viện Cơ mật và Nội các (dưới thời Gia Long là Văn thư phòng) vẫn được duy trì. Đặc biệt, ở trung ương, tổ chức các cơ quan cao cấp là Đô sát viện phụ trách việc kiểm sát (phát hiện, tâu lên vua những việc làm của các bộ không đúng quy tắc, lễ nghi, có quyền buộc tội những việc làm không đúng của hoàng thân và quan lại ở trung ương và địa phương[27]) và Đại lý tự phụ trách việc xét xử, hai cơ quan này kết hợp với bộ Hình thành Tam pháp ty. Tam pháp ty có trụ sở là Công chính đường với nhiệm vụ là nhận đơn, bàn luận và trình vua, sau khi có chỉ thị của vua thì phân bổ việc thi hành cho các cơ quan tương ứng. Bên cạnh các cơ quan này, còn có những viên quan khâm sai, kinh lược làm nhiệm vụ thanh tra tình hình ở các địa phương để phục vụ nhà vua trong việc cai trị đất nước.
Tuy không hoàn toàn giống nhau, nhưng tựu chung lại, các triều đại phong kiến Việt Nam đều đã nhận thấy vai trò to lớn của pháp luật, đều xem pháp luật là công cụ quan trọng để xây dựng, tổ chức và vận hành bộ máy chính quyền; bảo vệ quyền, lợi ích của nhân dân và đặc biệt là kiểm soát, nâng cao hiệu quả thực hiện quyền lực nhà nước, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ quan lại trong quá trình thực thi công vụ. Vậy, những yếu tố nào được xem là có vai nền tảng của tư tưởng chính trị pháp lý này?
2. Nền tảng tư tưởng đề cao pháp luật của các triều đại phong kiến Việt Nam
Việc nhận thức, đề cao vai trò của pháp luật trong các triều đại phong kiến Việt Nam không phải trong một sớm một chiều, mà được bồi đắp, tác động từ không ít các yếu tố mang tính nền tảng như:
– Bối cảnh chính trị, kinh tế – xã hội Đại Việt sau khi giành chính quyền độc lập, tự chủ và yêu cầu khách quan trong quản lý, phát triển đất nước của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Chiến thắng Bạch Đằng lừng lẫy năm 938 đã mở ra cho dân tộc Việt Nam một thời kỳ mới: thời kỳ xây dựng, bảo vệ và phát triển chính quyền phong kiến tự chủ, độc lập. Tuy nhiên, sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc, di sản để lại cho Đại Việt không chỉ là sự lạc hậu, kém phát triển về kinh tế, sự phức tạp, lai nhập về văn hóa, nguy cơ ngoại xâm vẫn luôn rình rập mà còn là cả hệ thống các quan hệ xã hội đa dạng, mâu thuẫn, xu hướng cát cứ phát triển.
Công việc trọng đại mà các nhà nước buổi đầu tự chủ phải gánh vác là bằng mọi giá giữ vững độc lập, tự chủ, từng bước xây dựng nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, xây dựng nền văn hóa mang tính dân tộc. Các lĩnh vực quan hệ xã hội cần được điều chỉnh theo hướng tăng cường sự thống nhất, đoàn kết các thành phần dân cư trong xã hội, nhằm tập trung và phát huy được cao nhất sức mạnh toàn dân trong việc giành và giữ chính quyền. Kế đó, quyền lực nhà nước phải được duy trì trên cơ sở tập trung sức mạnh vào Nhà vua và chính quyền triều đình trung ương, nhằm từng bước trấn áp và hạn chế các thế lực phong kiến cát cứ, xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của Nhân dân – những con người vốn đã cùng các triều đại nếm mật, nằm gai trong quá trình đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Bên cạnh đó, là áp lực trong việc thực hiện các chức năng xã hội của Nhà nước như đắp đê, trị thủy, khắc phục những hạn chế do yếu tố địa hình ven biển, dốc, nhiều sông ngòi mang lại. Theo đó, công việc đắp đê trị thủy và chống giặc ngoại xâm là những chức năng thường xuyên và đặc biệt quan trọng của Nhà nước Việt Nam. Muốn thực hiện được các chức năng xã hội quan trọng này, phải tập hợp được sức mạnh của đông đảo quần chúng. Nhà nước phải trở thành một chủ thể thay mặt xã hội, đại diện cho toàn thể xã hội để giải quyết các vấn đề trọng đại đó trên cơ sở sự ủng hộ, đồng lòng của Nhân dân. Vậy nên, nhiều nhà nước phong kiến đã lấy việc đảm bảo sự đồng thuận, niềm tin trước Nhân dân thành một mục tiêu của Nhà nước. Nhân dân trở thành chủ thể để đánh giá về hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Việc hiện thực hóa các chức năng xã hội trở thành một áp lực lên Nhà nước. Do đó, Nhà nước không thể không tính đến các cách thức để tăng cường hiệu quả hoạt động đồng thời kiểm soát và hạn chế sự lạm dụng quyền lực.
Và chỉ có pháp luật, với các đặc trưng vốn có của nó, mới thực sự là công cụ cơ bản giúp các triều đại tổ chức lại xã hội, đồng thời giải quyết tất cả các yêu cầu khách quan của xã hội Đại Việt những ngày đầu dựng nước, bảo vệ chính quyền.
– Sự thấm nhuần lý thuyết Đức trị và Pháp trị trong quá trình cai trị của các triều đại phong kiến
Nho giáo (đức trị), với các tư tưởng dân vi bản, tôn quân quyền, pháp tiên vương, hay chính danh đã là những tiền đề quan trọng cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Pháp giáo (pháp trị) là tư tưởng cai trị, quản lý nhà nước bằng pháp luật, pháp luật là công cụ làm nên trật tự và bình đẳng trong xã hội. Bậc làm vua phải thâu tóm quyền lực nhà nước bằng các thuật của mình trong các lĩnh vực như tổ chức bộ máy nhà nước, kiểm tra giám sát, thưởng phạt, dùng người… để có thể đảm bảo cho pháp luật được thi hành trong cuộc sống.
Quá trình vận dụng các lý thuyết Đức trị và Pháp trị của Trung Quốc đã cho thấy những hạn chế của chính chúng nếu vận dụng đơn lẻ, máy móc vào xã hội. Nho giáo với chủ trương đức trị đã không thể điều hòa nổi những mâu thuẫn khốc liệt trong xã hội Tây Chu do phân phong ruộng đất và cát cứ; ngược lại, sự tàn bạo, hà khắc của lý thuyết pháp trị được vận dụng triệt để trong nhà Tần đã làm cho nhà Tần nhanh chóng bị diệt vong, lý thuyết pháp trị bị nghi ngờ. Điều này được nhà Đông Hán, và hầu hết các triều đại tiếp sau của Trung Quốc rút kinh nghiệm, tiến hành chính sách cai trị mềm dẻo, có sự kết hợp cả hai yếu tố Đức trị và Pháp trị.
Dân tộc Đại Việt nằm dưới ách cai trị của các triều đại Trung Quốc hơn 10 thế kỷ, nên đã vừa thụ động, vừa chủ động tiếp nhận các lý thuyết cai trị này. Và theo thời gian, sự kết hợp Đức trị với Pháp trị trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước đã được thấm nhuần, vận dụng đầy sáng tạo, linh hoạt trong đời sống pháp lý của các vương triều phong kiến Việt Nam. Có thể thấy, đặc biệt là ở triều Hậu Lê, triều Nguyễn, Đức trị và Pháp trị đã trở thành nền tảng tư tưởng của nhà nước trong quá trình quản lý xã hội, chi phối mọi quan hệ cơ bản trong xã hội, từ cách thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, tiêu chuẩn, đến cơ chế chịu trách nhiệm của những người thừa hành công vụ,… Đây cũng chính là yếu tố tác động đến quan niệm về nội dung cũng như cách thức vận hành, sử dụng pháp luật trong thực tiễn của pháp luật phong kiến Đại Việt.
– Sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các phong tục, tập quán, truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam trong đời sống pháp lý.
Dễ nhận thấy, nội dung của pháp luật phong kiến Việt Nam không chỉ là các quy tắc, mà còn thể hiện sự kết hợp, tôn trọng, phát huy tác dụng điều chỉnh của các phong tục, tập quán, truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Điều này do chính yếu tố sự ảnh hưởng của các phong tục, tập quán, truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam đem đến cho pháp luật.
Sở dĩ có yếu tố nền tảng này là vì: làng, xã Việt Nam là những đơn vị tụ cư tự nhiên được hình thành trong quá trình phát triển của công xã thị tộc huyết thống. Sự cố kết làng xã đã trở thành truyền thống do đặc thù sản xuất nông nghiệp lúa nước và yêu cầu khách quan của lịch sử dựng nước và giữ nước Việt Nam. Các phong tục, truyền thống của làng xã mang lại đã giúp giải quyết được một phần không nhỏ các quan hệ trong xã hội, đồng thời tạo thành nét riêng khác cho pháp luật Việt Nam. Do đó, việc pháp luật phong kiến Việt Nam chứa đựng và phát huy vai trò của phong tục, tập quán là một cách để giai cấp thống trị nâng cao chất lượng của pháp luật. Đồng thời, thông qua đó, chính quyền phong kiến muốn kiểm soát, hạn chế quyền lực nhà nước, đặc biệt ở cấp xã nhằm thay đổi thực tế này.
3. Giá trị hiện đại của tư tưởng đề cao pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội
Trước hết giá trị từ quan niệm pháp luật là đại lượng cơ bản để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người dân, bảo đảm quyền con người. Tư tưởng này đã có tác động nhất định lên cách thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong lịch sử. Pháp luật đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền và lợi ích của Nhân dân, xem việc chăm lo, bảo vệ nhân dân là mục đích cao nhất trong hoạt động của nhà nước. Theo đó, mọi chính sách pháp luật cần phải xuất phát từ con người, hướng đến bảo vệ con người; việc xây dựng chính sách, pháp luật phải có sự tham gia của Nhân dân.
Tư tưởng quản lý nhà nước, xã hội bằng pháp luật kết hợp với đạo đức mà không ít triều đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã thực hành cũng là một định hướng quan trọng trong quá trình quản lý xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền. Tư tưởng này không chỉ có giá trị ở chỗ nó đề cao sự kết hợp hài hòa giữa pháp luật và đạo đức trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, ở yêu cầu về các giá trị đạo đức trong pháp luật mà còn nhấn mạnh đến các “khoảng trống” cần thiết mà pháp luật cần phải có để đạo đức có thể phát huy hết vai trò của nó trong đời sống xã hội. Ở một góc độ nào đó, đây cũng chính là yêu cầu về việc mở rộng phạm vi trách nhiệm thụ động của Nhà nước trước việc hiện thực hóa các quyền cơ bản của con người.
Pháp luật phải là công cụ cơ bản để hạn chế, kiểm soát và giám sát quyền lực nhà nước. Tư tưởng hiện đại này đã được thể hiện khá cụ thể trong không ít triều đại phong kiến Việt Nam. Hạn chế, kiểm soát quyền lực để chống lạm quyền, tiếm quyền, nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước và cũng chính là để bảo vệ tính thống nhất của quyền lực vào Nhân dân. Nhân dân là gốc của quyền lực, hay quyền lực nhân dân là tối cao chỉ có thể thành hiện thực khi quyền lực nhà nước bị hạn chế, kiểm soát. Do đó, cách thức tổ chức nhà nước nào có lợi cho việc bảo vệ quyền lực nhân dân nhất, hạn chế được sự vượt quyền của nhà nước nhất sẽ phải là cách thức tổ chức được lựa chọn. Nhân dân trao quyền cho các cơ quan nhà nước, với các chức năng, nhiệm vụ khác nhau, có thể giám sát, kiểm soát được nhau, và để cùng thực hiện hiệu quả quyền lực nhà nước chính là một yêu cầu mang ý nghĩa khách quan.
Tư tưởng đề cao trách nhiệm trực tiếp và liên đới của các cơ quan công quyềntrong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước cũng là một tư tưởng có giá trị lớn. Hiếm thấy trong hệ thống pháp luật thực định nào, vấn đề trách nhiệm công vụ, trách nhiệm pháp lý cá nhân lại được đề cập mạnh mẽ như các triều vua thời đầu Hậu Lê, và thời nhà Nguyễn. Hầu hết trong những văn bản pháp luật quan trọng như Bộ Quốc triều hình luật, Bộ Quốc triều khám tụng điều lệ, bộ Hoàng Việt luật lệ, các quy định liên quan đến trách nhiệm công vụ đều dự liệu kèm theo trách nhiệm pháp lý cá nhân của công chức thừa hành nếu vi phạm, thậm chí còn được nhấn mạnh như bộ phận chính của quy phạm pháp luật.
Tư tưởng về pháp luật và hoạt động thực thi pháp luật tố tụng cũng là một trong những tư tưởng có ý nghĩa lớn. Tinh thần pháp luật tố tụng mà các triều đại phong kiến Việt Nam mang lại, đó là: đã đưa ra một hệ các quy tắc tố tụng để cán bộ tư pháp chỉ được phép thực hiện trong phạm vi đó, không được vượt quá, và phải luôn thể hiện trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của con người, đặc biệt là nhóm người yếu thế trong tố tụng.
Tinh thần này của pháp luật tố tụng thời phong kiến có những điểm vượt thời đại, thể hiện ở cả nội dung và cách thức xây dựng. Nội dung pháp luật tố tụng đã tập trung vào trách nhiệm của nhóm chủ thể có thẩm quyền, gồm cả trách nhiệm công vụ và trách nhiệm pháp lý. Hai loại trách nhiệm này luôn được đặt trong tương quan với quyền lợi của các bên tham gia tố tụng, của con người nói chung. Các quy định phần lớn thiết kế theo mô thức đưa ra cách thức xử sự, dự liệu cụ thể chế tài xử lý vi phạm đối với các cán bộ tư pháp trong quá trình tố tụng như một đảm bảo cho hiệu quả và hiệu lực của pháp luật. Sự độc đáo và tài tình này của các nhà lập pháp phong kiến, mà điển hình là triều Hậu Lê và triều Nguyễn đã làm cho pháp luật tố tụng hình sự thực sự mang tinh thần pháp quyền, thể hiện đúng thiên chức của nó, như lời chỉ dụ của vua Lê Hiển Tông khi ban hành Bộ Quốc triều hình luật: “liên quan đến việc kiện tụng cốt ở chỗ trong sạch và giảm bớt… nhằm dùng chính sự để công bằng về lý trong các việc kiện tụng, khiến dân có chỗ nương nhờ”[28].
Bài viết được đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 8, kỳ 2 tháng 4/2018
[1] Đại Việt sử ký toàn thư, Dịch giả Cao Huy Giu, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2009, tr.120
[2] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 114
[3] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005
[4] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 127, 207
[5] Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 148
[6] Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr. 186
[7] Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr. 239
[8] Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr. 269
[9] Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr 196
[10] Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr 194
[11] Cao Văn Liên, Pháp luật các triều đại Việt Nam và các nước, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, 2004, tr.204
[12] Đại việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr. 151
[13] Viện Sử học, Lê triều quan chế, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997, tr. 13-14
[14] Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.667
[15] Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.633
[16] Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.652
[17] Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.622
[18] Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.667
[19] Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.633
[20] Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.652
[21] Quốc Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tr.333
[23] Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tr. 352
[24] Đại Nam Thực lục chính biên, Sđd, tập IX, tr.67
32 Đại Nam Thực lục chính biên, Sđd, Tập XII, tr. 91
[26] Quốc sử quán triều Nguyễn, Sđd, tập 2, tr. 61
[27] Vũ Thị Phụng, Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2007, tr.135
[28] Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 269
Phan Thị Lan Phương, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Phạm Thị Duyên Thảo, TS., Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Để lại một phản hồi