Hiến pháp 2013 có sửa đổi, bổ sung quan trọng về quyền tư pháp. Đây là kết quả của quá trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và quyền tư pháp nói riêng. Những điểm mới của Hiến pháp 2013 về quyền tư pháp cũng đặt ra yêu cầu phải tổ chức thực hiện nó trên thực tế ở các phương diện khác nhau.
Quá trình 5 năm thi hành Hiến pháp 2013 về thực hiện quyền tư pháp cho thấy, nội dung này của Hiến pháp 2013 được thực hiện ở các phương diện sau đây: (i) Quan chỉ đạo của Đảng và của ngành Tòa án về tổ chức quy định của Hiến pháp về quyền tư pháp; (ii) tổ chức triển khai nghiên cứu về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền; (iii) cụ thể hóa quy định của Hiến pháp hiến pháp thông qua hoạt động xây dựng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp; (iv) thực tiễn nhận thức và thực hiện quyền tư pháp của các cơ quan tư pháp và của toàn xã hội.
1. Những điểm mới của Hiến pháp 2013 về quyền tư pháp
Thứ nhất, trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quyền tư pháp mới chỉ xuất hiện 1 lần tại Điều 2 về nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Theo đó, quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng nội dung của quyền tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp chưa được xác định cụ thể. Điều này đã được Hiến pháp 2013 khắc phục bằng việc khẳng định” Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử… thực hiện quyền tư pháp”. Quy định này của Hiến pháp được cho là sẽ tác động mạnh mẽ đến nhận thức về chức năng, vai trò, nhiệm vụ và tổ chức của hệ thống Tòa án để bảo đảm cơ quan này thực sự là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Vấn đề còn lại là nhận thức đúng đắn quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền ở các phương diện lý luận và xây dựng pháp luật và thực tiễn và tổ chức thực hiện.
Thứ hai, Hiến pháp 2013 cùng với việc ghi nhận quyền tư pháp là một loại quyền lực nhà nước, là việc khẳng định cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong đó với tư cách là một quyền lực trong bộ ba quyền lực nhà nước đặt ra vai trò kiểm soát quyền lực của quyền tư pháp và kiểm soát chính quyền tư pháp bằng các cơ chế khác nhau.
Thứ ba, điểm mới quan trọng của Hiến pháp liên quan đến quyền tư pháp đó là bổ sung các nhiệm vụ của Tòa án với tư cách cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Theo đó, Tòa án thông qua chức năng xét xử thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Như vậy nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người là 2 bổ sung được đánh giá rất cao của Hiến pháp 2013 về Tòa án và quyền tư pháp. Hai điểm mới quan trọng này cho thấy sự đột phá trong nhận thức cũng như trong hiến định về quyền tư pháp, nói cách khác: Yêu cầu tôn trọng các giá trị của công lý đã và đang mở ra một tư duy mới, một triết lý tư pháp mới[1]. Nhận thức Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý còn làm tư pháp ở Việt Nam tiến gần với quan niệm có tính phổ quát về mục đích và nhiệm vụ của quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp: Mục đích của việc thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền chính là thông qua pháp luật thực thi công lý, bảo vệ quyền con người. Không thể có nhà nước pháp quyền đích thực khi việc thực hiện quyền lực tư pháp không đảm bảo công lý; tòa án không phải là người đại diện và thực thi công lý[2]. Công lý, Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người là những vấn đề rất mới không chỉ trong Hiến pháp mà còn cả trong khoa học và thực tiễn, đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu đem đến nhận thức chung và triển khai thực hiện trên thực tế.
Thứ tư, Hiến pháp 2013 còn có quy định mới về nhiệm vụ của TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Quy định này mở đường cho việc thực hiện nhiệm vụ của cải cách tư pháp là TANDTC phát triển án án lệ và cho việc tiếp tục nghiên cứu để trao chức năng giải thích pháp luật cho Tòa án, đảm bảo để Tòa án thực sự là “cơ quan thực hiện quyền tư pháp”
Thứ năm, Hiến pháp 2013 đã đặt ra các nguyên tắc mới hoặc làm mới các nguyên tắc làm nền tảng cho hoạt động xét xử nói riêng và thực hiện quyền tư pháp nói chung. Trước hết là nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Tranh tụng trong tố tụng là vấn đề được đề cập trong khoa học pháp lý từ lâu và Nghị quyết về Cải cách tư pháp cũng chỉ đạo cần cải cách quy trình tố tụng theo hướng “mở rộng tranh tụng”. Cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo này, tranh tụng đã trở thành nguyên tắc được Hiến định. Điểm đáng chú ý ở đây là không phải nguyên tắc tranh tụng mà là “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Đây thực sự là vấn đề lý thú đối với khoa học và vấn đề phức tạp trong thực tiễn.
Ngoài ra, về nguyên tắc độc lập xét xét xử Hiến pháp 2013 đã bổ sung theo hướng làm rõ nội dung của nguyên tắc này: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Nguyên tắc này cụ thể hóa nguyên tắc tư pháp độc lập trong nhà nước pháp quyền. Theo đó, độc lập tư pháp được xem xét ở 3 phương diện: độc lập của quyền tư pháp, độc lập của Tòa án và độc lập của Thẩm phán.
Hiến pháp 2013 cũng có nhưng quy định mới không nằm ở Chương về Tòa án nhân dân nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thực hiện quyền tư pháp. Đó là, các quyền trong lĩnh vực tư pháp được quy định mới, bổ sung, làm rõ trong chương quyền con người, quyền công dân, thể hiện tập trung nhất tại Điều 31. Điều này quy định rất nhiều quyền con người trong lĩnh vực tư pháp và tư pháp hình sự, có thể khái quát đây là “quyền xét xử công bằng”- Một trong những tiêu chuẩn trong tố tụng hình sự của luật nhân quyền quốc tế đã được thể hiện trong Hiến pháp Việt nam. Không chỉ là quyền con người mà nhà nước phải đảm bảo, các quyền này còn là nguyên tắc mang tính chỉ đạo, định hướng cho pháp luật cũng như thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam. Đó là các nguyên tắc không ai bị bắt giữ tùy tiện, suy đoán vô tội, nguyên tắc xét xử không quá mức chậm trễ, nguyên tắc không bị kết án hai lần vì một tội phạm; nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa…
2. Thực tiễn triển khai Hiến pháp 2013 về tổ chức, thực hiện quyền tư pháp
2.1.Thực tiễn chỉ đạo tổ chức triển khai Hiến pháp 2013 của Đảng và của ngành Tòa án
Xác định Hiến pháp là văn kiện đặc biệt quan trọng và việc triển khai thi hành Hiến pháp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, để việc triển khai thi hành Hiến pháp có hiệu quả, chặt chẽ, nghiêm túc, bảo đảm chất lượng và thống nhất, Ban Bí thư đã có Chỉ thị số 32-CT/TW về triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó xác định:
– Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ, đảng đoàn và ban cán sự đảng các cơ quan tư pháp, các bộ, ngành ở Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội cần tổ chức quán triệt và chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan, tổ chức liên quan thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ được giao theo Nghị quyết 64/2013/QH13 của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp và Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp của UBTV Quốc hội. Khẩn trương xây dựng kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp của cơ quan, tổ chức mình, trong đó xác định rõ các nội dung, hoạt động cụ thể, lộ trình và kế hoạch ban hành các văn bản pháp luật trong lĩnh vực được giao phụ trách; các điều kiện bảo đảm cho việc phổ biến, tuyên truyền và tổ chức thực thi Hiến pháp.
-Các cấp ủy, tổ chức đảng đưa nội dung này vào sinh hoạt của chi bộ, đảng bộ để quán triệt trong toàn thể cán bộ, đảng viên về mục đích, yêu cầu, tầm quan trọng của việc tuân thủ và chấp hành Hiến pháp cũng như nhiệm vụ của tổ chức, cá nhân trong triển khai thi hành Hiến pháp. Coi trọng việc tuyên truyền, hướng dẫn các tầng lớp nhân dân thi hành Hiến pháp, gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Chỉ thị quan trọng này xác định trách nhiệm của các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, TANDTC, Viện KSNDTC, Văn phòng Chủ tịch nước, Ủy ban TW MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, các cơ quan, tổ chức khác ở trung ương và địa phương trong việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp. Bảo đảm các quy định của Hiến pháp được tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo động lực thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trên cơ sở chỉ đạo của Chỉ thị 32/TC-TW, TANDTC đã tích chỉ đạo thực hiện công tác triển khai thi hành Hiến pháp 2013 trong đó tập trung vào các nhiệm vụ đột phá như: Thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức; làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử, đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật và phát triển án lệ; đẩy mạnh việc đổi mới thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án các cấp[3]
2.2. Triển khai nghiên cứu quyền tư pháp trong Hiến Pháp 2013
Trước đây, quyền tư pháp ở Việt Nam không được quan tâm nghiên cứu mà bởi nhiều lý do. Nó chỉ được đề cập khi trong những công trình nghiên cứu về Hiến pháp tư sản, cụ thể là tổ chức quyền lực nhà nước ở những nước theo nguyên tắc phân quyền. Sau khi Hiến pháp 2013 có bổ sung quan trọng về quyền tư pháp như trên đã trình bày, thì nghiên cứu về quyền tư pháp trở thành hướng nghiên cứu độc lập thu được sự quan tâm của khoa học pháp lý. Mục đích là để tổ chức thực hiện quyền tư pháp theo đúng nội dung và tinh thần của Hiến pháp 2013, trước hết là việc giải thích khoa học về quyền tư pháp và tổ chức thực hiện quyền tư pháp, cung cấp luận cứ khoa học cho việc giải thích chính thức quyền tư pháp của Hiến pháp 2013. Tổng quan nghiên cứu về quyền tư pháp trong Hiến pháp 2013 cho thấy niệm quyền tư pháp ở Việt Nam đã đang và tiếp tục bổ sung những nội dung mới và ngày càng sâu sắc hơn.
Nếu ban đầu quyền tư pháp chỉ được đơn giản là quyền xét xử của Tòa án thì cho đến nay, quyền tư pháp đã được nhận thức khoa học một cách tương đối rõ ràng. Quyền tư pháp đã được nhận thức ở các phương diện sau: (i) khái niệm quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền; (ii) mối quan hệ giữa quyền tư pháp và các quyền khác trong cơ ché thực hiện quyền lực “quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” trong trọng tâm ở khái cạnh kiểm soát quyền lực bằng quyền tư pháp và kiểm soát quyền tư pháp; (iii) nghiên cứu nhằm tổ chức thực hiện quyền tư pháp nhằm đảm bảo chức năng thực hiện quyền tư pháp của tòa án theo tinh thần Hiến pháp 2013.
Ở nội dung thứ nhất, nhận thức khái niệm quyền tư pháp trong khoa học pháp lý Việt Nam là một quá trình do đó không giống nhau ở mỗi thời kỳ và có nhiều quan điểm khác nhau nhưng có thể khái quát những nhận thức chung về quyền tư pháp trong khoa học pháp lý Việt Nam là:
Thứ nhất, quyền tư pháp là một loại quyền lực cấu thành nên quyền lực nhà nước . Quyền tư pháp luôn luôn tồn tại trong mối quan hệ với quyền lập pháp và quyền hành pháp, hợp thành quyền lực nhà nước thống nhất. Trong nhà nước pháp quyền, điều này được quyết định bởi nguyên tắc chủ quyền nhân dân. Theo quan niệm của Rousseau: Chủ quyền tối cao không thể phân chia được. Những bộ phận quyền hành được chia tách ra đều phụ thuộc vào quyền lực tối cao, đều giả định phải có ý chí tối cao, mỗi bộ phận đều chỉ nhằm thực hiện ý chí tối cao[4]
Thứ hai, nội dung cốt lõi của quyền tư pháp là sử dụng sức mạnh (quyền lực) để xét xử các tranh chấp nhằm mục duy trì công lý và trật tự. Do đó, nói đến quyền tư pháp là nói đến quyền xét xử của chủ thể đặc biệt và quan trọng là hệ thống các Tòa án. Quyền tư pháp có trọng tâm là xét xử và Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử. Tùy thuộc vào truyền thống luật và mô hình tổ chức quyền lực nhà nước mà các quốc gia có cách tổ chức hệ thống Tòa án khác nhau nhưng Tòa án luôn là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
Thứ ba, quyền tư pháp trước hết là quyền xét xử những không chỉ là quyền xét xử mà còn bao gồm những quyền khác phái sinh từ quyền xét xử do Tòa án và chỉ do Tòa án thực hiện bới nó gắn với xét xử đó là quyền giải thích pháp luật; quyền kiểm soát các quyền lực nhà nước khác bằng việc xét xử. Cũng từ đó, xét xử là việc của hệ thống Tòa án nhưng Tòa án không chỉ có xét xử mà thực hiện các quyền khác mang tính chất tư pháp như giải thích pháp luật, bảo hiến, kiểm soát các quyền khác.
Nội dung thứ hai, các nghiên cứu tập trung làm sáng tỏ việc mối quan hệ giữa quyền tư pháp với quyền lập pháp, hành pháp trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta theo tinh thần Điều 2 Hiến pháp 2013. Về nội dung này vấn đề quan trọng được quan tâm đó chính là vai trò của quyền tư pháp trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước và vấn đề kiểm soát quyền tư pháp. Hiến pháp 2013 bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực tại Điều 2 với tư cách là nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ta. Theo đó nguyên lý là quyền lực nhà nước phải được kiểm soát bằng các cơ chế khác nhau, quyền tư pháp không phải là ngoại lệ. Quy định này của Hiến pháp 2013 dựa trên nghiên cứu khoa học pháp lý trước đó, đồng thời kể từ 2013, nhiệm vụ của khoa học pháp lý cũng là tiếp tục nghiên cứu làm rõ vấn đề kiểm soát quyền lực cũng như kiểm soát quyền lực bằng quyền tư pháp và kiểm soát quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền. Nghiên cứu về kiểm soát quyền lực tư pháp, các công trình đã tập trung đặt ra và giải quyết các luận điểm sau đây:
– Khẳng định tính tất yếu của kiểm soát quyền và kiểm soát quyền lực bằng quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền. Khẳng định này xuất phát từ nghiên cứu về quyền lực nhà nước và đặ tính của có nó chính là sự lạm quyền. Để tranh nguy cơ lạm quyền của nhà nước thì cần phải phân quyền trong tổ chức thực hiện quyền lực trong đó quyền tư pháp do các tòa án thực hiện là một trong những nhánh quyền lực nhà nước có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát quyền lực của các nhánh quyền kia. Để thực hiện việc đó, dứt khoát tư pháp phải được độc lập.
– Để thực hiện vai trò việc kiểm soát quyền lực của tư pháp cần có các cơ chế kiểm soát. Đó chính là cơ chế tổ chức và hoạt động của các Tòa án bao gồm Tòa án thẩm quyền chung và các Tòa chuyên biệt trong đó nổi lên vai trò của Tòa hành chính và Tòa án Hiến pháp. Trong việc kiểm soát quyền hành pháp, người ta luôn đánh giá cao vai trò của các Tòa án hành chính, phán xét các tranh chấp giữa chính quyền và người dân.
– Đòi hỏi kiểm soát quyền lực bằng quyền tư pháp ở Việt Nam. Các nghiên cứu đều có chung nhận định, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam mới đặt ra gần đây về mặt nguyên tắc. Đi vào cụ thể thì thấy, tư pháp ở Việt Nam đã có khả năng kiểm soát hành pháp (bằng cơ chế tòa án hành chính).
Cùng với xu thể nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, trong khoa học pháp lý thời gian gần đây tập trung vào nghiên cứu kiểm soát quyền tư pháp mà Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định. Về vấn đề kiểm soát quyền tư pháp, các nghiên cứ đều có nhận thức chung: với tư cách là một bộ phận của quyền lực nhà nước, quyền tư pháp phải được kiểm soát để tránh nguy cơ lạm quyền.
Kết quả nghiên cứu đầu tiên về kiểm soát quyền tư pháp là hình thành khái niệm kiểm soát quyền tư pháp. Theo đó, kiểm soát quyền tư pháp là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước thông qua những phương thức, trình tự pháp định mà dựa vào đó, nhà nước và xã hội theo dõi, kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện các nhiệm vụ, chức năng và thẩm quyền trong lĩnh vực tư pháp nhằm ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động trái các quy định, vượt khỏi giới hạn của Hiến pháp và pháp luật của tòa án và các chức danh tư pháp, đảm bảo cho quyền lực tư pháp thực thi đúng mục đích, duy trì được tố chất của một nền tư pháp liêm chính[5]. Từ đó, nội dung kiểm soát quyền tư pháp được xác định là: kiểm soát các phán quyết của Tòa án. Đây là việc phát hiện sai sót, vi phạm trong việc xét xử của Tòa án và yêu cầu khắc phục bằng cơ chế tố tụng.
Nội dung này được thực hiện bởi nhiều cơ chế, trong đó cơ chế quan trọng nhất là cơ chế trong hệ thống Tòa án, bằng các thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Nội dung thứ hai của kiểm soát quyền tư pháp là kiểm soát các hành vi của Thẩm phán để cho các quyết định xét xử không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố không liên quan gì tới vụ án. Nội dung kiểm soát thứ ba là kiểm soát tổ chức hoạt động của các Tòa án. Đây là hình thức kiểm soát của các cơ quan nhà nước đặc biệt là các cơ quan đại diện như Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Ngoài ra còn có các cơ chế kiểm soát quyền tư pháp từ bên ngoài đó là kiểm soát xã hội: kiểm soát của báo chí, dư luận, của các tổ chức xã hội.
Hiến pháp 2013 trao Tòa án nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp nhằm bảo vệ công lý. Chính vì vậy công tác nghiên cứu đã tập trung triển khai nội dung này. Trong đó tập trung vào luận giải và làm sang tỏ các vấn đề sau. Thứ nhất, làm sáng tỏ khái niệm công lý và quyền tiếp cận công lý. Bởi lẽ, nhiệm vụ Tòa án là bảo vệ công lý thì vấn đề đầu tiên cần định hình khái niệm công lý là gì? Theo đó, công lý là hiện tượng đa phương diện là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội. Đây là “khái niệm tổng hợp về lẽ phải, sự đúng đắn, hợp lý dựa trên nền tảng đạo đức, quyền tự nhiên, sự công bằng”[6] hoặc Công lý chính là sự nhận thức đúng đắn và hành động đúng vì chân lí, vì công bằng và lẽ phải, phù hợp với lợi ích chung, với đạo lí của nhân dân, được xã hội và pháp luật thừa nhận[7].
Thứ hai, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, do đó tiếp cận công lý được thừa nhận là quyền con người trong nhà nước pháp quyền. Chính vì vậy, khoa học pháp lý đã hướng sự nghiên cứu vào làm sáng tỏ nội hàm của khái niệm quyền tiếp công lý không chỉ là quyền con người mà còn là đòi hỏi đối với cả hệ thống tư pháp nói chung và Tòa án nói riêng phải có nhiệm vụ bảo đảm quyền này cho người dân ở các khía cạnh khác nhau như khái niệm quyền tiếp cận công lý trong nhà nước pháp quyền; thực trạng thực hiện quyền tiếp cận công lý; vai trò, nhiệm vụ của tòa án, các giải pháp nhằm đảm bảo quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam[8]. Theo đó, các công trình nghiên cứu tập trung luận giải các đặc điểm của quyền tiếp cận công lý, mối quan hệ giữa quyền tiếp cận công lý với các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, nền tảng để đảm bảo quyền tiếp cận công lý của người dân, vai trò của Tòa án trong việc đảm bảo quyền tiếp cận công lý trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự…
Như vậy, qua việc triển khai nghiên cứu Hiến pháp 2013 về công lý và quyền tiếp cận công lý cho thấy từ một khái niệm chưa rõ nội hàm đối với giới luật học Việt Nam đã dần trở thành một khái niệm hoàn chỉnh và tiếp tục được bổ sung.
2.3 Hoạt động xây dựng pháp luật triển khai Hiến pháp 2013
Hiến pháp 2013 đặt ra nhiệm vụ cần cụ thể hóa nội dung và tinh thần của nó về quyền tư pháp bằng các đạo luật cụ thể. Trên cơ sở từ khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực hàng loạt các đạo luật quan trọng của hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tu pháp được khẩn trương xây dựng.
Trước hết là BLTTHS 2015. Theo đánh giá của cá nhân người viết thì đây là đạo luật thể hiện rõ nhất tinh thần của Hiến pháp 2013 trong lĩnh vực TTHS. Bộ luật này đã được sửa đổi, bổ sung cơ bản, toàn diện từ mục đích, nhiệm vụ của TTHS đến các nguyên tắc cơ bản và các quy định cụ thể đã toát lên tinh thần Hiến pháp 2013. Đặc biệt đã có sự kiên quyết loại bỏ những quy định được coi là vi hiến trước đây[9]. Bên cạnh đó nó đã cho thấy những điểm mới rất tiến bộ thể hiện ở việc chuyển tải các giá trị tiến bộ của nhân loại về pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự, thể chế hóa quan điểm chỉ đạo, nội dung của Chiến lược Cải cách tư pháp ở Việt Nam, cụ thể hóa những điểm mới của Hiến pháp 2013 trên cơ sở đó tạo ra cơ chế cho hoạt động tố tụng hình sự của Việt Nam hướng tới một nền tư pháp hình sự trong sạch, minh bạch, hiệu quả bảo vệ quyền con người và phòng ngừa tội phạm.
Cụ thể: BLTTHS 2013 đã khẳng định nhiệm vụ của TTHS là bảo về công lý, bảo vệ quyền con người bên cạnh nhiệm vụ phát hiện xử lý tội phạm . Bổ sung cụ thể hóa các nguyên tắc Hiến định về quyền con người và tổ chức hoạt động của cơ quan tư pháp như: nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc không ai bị xét xử 2 lần về một tội phạm. Đặc biệt, BLTTHS cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng của Hiến pháp. Sự bổ sung này đã đem đến cho TTHS Việt Nam nhiều thay đổi quan trọng về quy trình TTHS cho dù mô hình TTHS vẫn là mô hình xét hỏi nhưng có pha trộn yếu tố tranh tụng. Nguyên tắc này không chỉ được thể hiện trong BLTTHS mà còn được thể hiện trong thực tiễn TTHS thời gian vừa qua khi mà nhiều phiên tòa hình sự đã thể hiện tinh thần tranh tụng.
Bên cạnh đó, BLTTHS 2015 đã bổ sung, cụ thể hóa loạt các quyền Hiến định như quyền bào chữa, đặc biệt là “quyền im lặng”. Chúng tôi cho rằng BLTTHS 2015 cụ thể hóa vượt yêu cầu khi không chỉ quy định quyền im lặng mà còn mở rộng hơn bằng quyền có tính chất bao quát “không ai bị buộc phải đưa ra chứng cứ chống lại chính mình”. Những tiêu chuẩn về xét xử công bằng mà Hiến pháp 2013 yêu cầu đã được cụ thể hóa rõ ràng trong BLTTHS 2015.
Thứ hai, bên cạnh BTTHS, BLHS 2015 đã thể hiện tính thần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người mà Hiến pháp quy định về quyền tư pháp. BLHS đã bãi bỏ những tội danh cản trở quyền kinh doanh trong chương tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, bãi bỏ hình phạt tử hình đối với 11 tội danh bổ sung nhiều danh mới nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người, Sửa đổi, bổ sung một số điều khoản của BLHS nhằm khắc phục những bất cập về các mức định lượng, mức hình phạt trong các khung của một số điều luật; Sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến người chưa thành niên phạm tội…
Thứ ba, BLDS 2015 cũng sửa đổi, bổ sung quan trọng, trong đó tinh thần chung đặt ra cũng là phải thể hiện được nội dung và tinh thần của Hiến pháp 2013, cụ thể hoá những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, về việc tăng cường các biện pháp để bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự; BLDS ghi nhận một cách nhất quán nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của bên yếu thế; hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp của cơ quan công quyền vào việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quan hệ dân sự; đáp ứng tốt hơn yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam. Đặc biệt BLDS 2015 đã cụ thể hóa nhiệm vụ bảo vệ công lý của Tòa án bằng quy định đột phá về nguồn luật dân sự[10] cho phép Tòa án áp dụng lẽ công bằng
Ngoài ra các đạo luật khác trong lĩnh vực tư pháp cũng đã bám sát và thể hiện ở những mức độc khác nhau tinh thần của Hiến pháp 2013 về quyền tư pháp như Luật Tạm giữ, tạm giam, Luật Thi hành án hình sự, Luật Tổ chức TAND, Viện Kiểm sát nhân dân….
2.4. Những nhiệm vụ đặt ra trong triển khai thực hiện Hiến pháp 2013 về quyền tư pháp
Để đồng bộ với sự nghiệp xây dựng NNPQ, Chiến lược cải cách tư pháp và quá trình hội nhập quốc tế về tư pháp, đặt ra việc triển khai quyền tư pháp của Hiến pháp 2013 những nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, cần tập trung nghiên cứu làm rõ hơn nữa khái niệm quyền tư pháp trong NNPQ Việt Nam, trong đặc biệt nhấn mạnh đến đặc thù (chắc chắn phải có) của quyền tư pháp ở nước ta, đó là không áp dụng nguyên tắc phân quyền, nhưng mối quan hệ giữa quyền tư pháp trong nguyên tắc tổ chức quyền lực của nhà nước ta là quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đối với nội dung này cần tập trung đánh giá sự thể hiện của các nguyên tắc pháp quyền trong việc thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam, đề xuất các giải pháp và luận giải cho tính khả thi của các giải pháp đó nhằm đảm bảo thực hiện quyền tư pháp trên thực tế. Bên cạnh đó cần lý giải về mặt khoa học vấn đề kiểm soát quyền lực nhìn từ giác độ quyền tư pháp như: kiểm soát quyền lực bằng quyền tư pháp ở Việt Nam; kiểm soát chính quyền tư pháp bởi nguyên lý quyền lực nào trong đó có quyền tư pháp (cho dù bị coi là yếu đuối nhất theo quan niệm của Motesquieu) cũng nguy cơ lạm quyền nếu không có cơ chế kiểm soát và khả năng kiểm soát. Đặc biệt là vấn đề kiểm soát quyền tư pháp nhưng phải đảm bảo nguyên tắc độc lập tư pháp. Như trên đã nói, Hiến pháp trao Tòa án thực hiện quyền tư pháp nhằm “bảo vệ công lý” chính vì vậy nghiên cứu về công lý và nhiệm vụ bảo vệ công lý của Tòa án phải được tiếp tục đặt ra.
Thứ ba, để Hiến pháp được thực hiện thì nhiệm vụ xây dựng pháp luật nhằm cụ thể hóa Hiến pháp cần được quan tâm trong đó tiêu chí đánh giá chất lượng của đạo luật vẫn là đảm bảo trung thành với Hiến pháp, tránh cắt xén làm lệch lạc nội dung, bảo đảm tinh thần tiến bộ của Hiến pháp 2013 về quyền tư pháp
Thứ tư, cần chú trọng việc nâng cao “ý thức Hiến pháp” cho các cán bộ, công chức các cấp trong bộ máy nhà nước, bảo đảm sự tuân thủ Hiến pháp, tránh nguy cơ vi hiến cao nhấ. Đồng thời cần nâng cao ý thức Hiến pháp cho người dân trong đó có ý thức quyền tư pháp trong việc bảo vệ công lý quyền con người, để họ tự bảo vệ quyền của mình trong lĩnh vực tư pháp đồng thời giám sát các cơ quan nhà nước, các cơ quan tư pháp trong việc thực hiện các quyền con người trong lĩnh vực tư pháp và quyền tư pháp nói chung./.
[1] Nguyễn Xuân Tùng, Tòa án nhân dân và nhiệm vụ “bảo vệ công lý”, http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1762
[2] Đinh Thế Hưng, Thực hiện quyền tư pháp nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý trong nhà nước pháp quyền, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5 năm 2010
[3] Tham luận của Chánh án TANDTC tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII
[4] Rousseau, Khế ước xã hội, tài liệu được dịch ra tiếng Việt và đăng trên Trang tư liệu điện tử của Chủ nghĩa Mác, dưới địa chỉ:https://www.marxists.org/vietnamese/rousseau/kheuoc/phan_02.htm. Truy cập 20/8/2018
[5] Luận án tiến sĩ Kiểm soát quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền của Nguyễn Quốc Hùng năm 2016, Hội thảo, Kiểm soát quyền tư pháp do Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức tháng 7/2018… chức tháng 7/2018
[6] Xem Hoàng Thị Kim Quế, Công bằng, bình đẳng, công lý, nhân đạo,đạo đức và quyền con người- Sjw phân định tương đối và mối quan hệ tất yếu, trong Sách Công lý và quyền tiếp cận công lý: một số vấn đề lý luận và thực tiến, Đào Trí Úc và Vũ Công giao (Chủ biên), NXB Hồng Đức 2018
[7] Xem Nguyễn Văn Tùng Về khái niệm “công lý” trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tại Việt Nam
[8] Xem Vũ Công Giao, Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp quyền, tạp chí Khao học Đại Quốc gia Hà Nội (Luật học, số 25) năm 2009
[9] Bộ luật TTHS 2003 quy định biện pháp “Bắt khẩn cấp”. Quy định này trái Hiến pháp khi không ai bị bắt nếu không có quyết định của tòa án hoặc quyết định phê chuẩn của VKS. Chính vì vậy Bộ luật TTHS 2015, bỏ biện pháp bắt khẩn cấp thay vào đó là biện pháp “giữ khẩn cấp”
[10] Khoản 1 Điều 6 BLDS quy định: Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng
Để lại một phản hồi