Thi hành án treo theo quy định của pháp luật hiện hành

Chuyên mụcLuật hình sự, Thi hành án hình sự Án treo

Thi hành án treo theo quy định của pháp luật hiện hành

 

Các nội dung liên quan được tìm kiếm:

 

MỤC LỤC
A- MỞ ĐẦU

B- NỘI DUNG

1. Nội dung bản chất của án treo

1.1. Một số khái niệm

1.2. Bản chất pháp lí, vai trò, ý nghĩa của án treo

2. Địa vị pháp lý của người được hưởng án treo

2.1. Quyền của người được hưởng án treo

2.2. Nghĩa vụ của người được hưởng án treo

3. Trình tự thủ tục thi hành án treo

4. Bình luận mở rộng

C- Kết luận

D- Tài liệu tham khảo

 

A – MỞ ĐẦU

Án treo là một chế định pháp lí hình sự ra đời từ rất sớm, xuất hiện và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của Luật hình sự Việt Nam. Xuất phát từ nhiệm vụ của Luật hình sự và mục đích của việc buộc người phạm tội phải thi hành hình phạt thể hiện việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như mục đích răn đe, giáo dục, cải tạo người phạm tội hoàn lương, án treo là một trong các biện pháp tác động mà nhà nước đã sử dụng để tác động đến người phạm tội. Trải qua một lịch sử phát triển khá dài, án treo đã ngày càng khẳng định được tính ưu việt của nó. Chế định án treo là một biểu hiện rõ nét sự kết hợp hài hoà giữa phương châm trừng trị với khoan hồng, đồng thời cũng thể hiện sự tham gia của nhân dân vào việc giám sát người phạm tội tự giáo dục, cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, kể từ khi luật thi hành án hình sự 2010 được Quốc hội khóa XII thông qua thì công tác thi hành án treo mới thực sự được quan tâm và thể hiện rõ vai trò của mình trong pháp luật hình sự nói chung và thi hành án hình sự nói riêng.

Từ lí luận cũng như tình hình thực tế thi hành án treo ở nước ta hiện nay cũng như những quan niệm khác nhau về thi hành án treo thì vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện, sâu rộng về chế định này là rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn góp phần đem lại một cách hiểu đúng đắn, toàn diện, và thống nhất trong lí luận cũng như trong thực tế thi hành án treo. Đồng thời, góp phần vào việc hoàn thiện chế định án treo cũng như thi hành án treo, phát huy một cách có hiệu quả nhất tác dụng của thi hành án treo trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội.

B- NỘI DUNG

1. Nội dung bản chất của án treo

1.1. Một số khái niệm

– Thi hành án hình sự là gì?

Thi hành án hình sự được hiểu là hoạt động thi hành các bản án, quyết định hình sự của Tòa án về hình phạt tử hình, hình phạt tù, hình phạt tù cho hưởng án treo, hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú, các hình phạt tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, trục xuất, phạt tiền, tịch thu tài sản.

– Án treo là gì?

Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng cho người đã bị kết án phạt tù không quá 3 năm, không buộc họ phải chấp hành hình phạt tù khi có đầy đủ những căn cứ và điều kiện nhất định do pháp luật hình sự quy định (nhằm khuyến khích họ tự giác cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội), đồng thời cũng cảnh cáo họ là nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì họ sẽ phải chấp hành hình phạt tù đã được hưởng án treo của bản án trước đó”.

– Thi hành án treo là gì?

Thi hành án treo là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này giám sát, giáo dục người bị phạt tù được hưởng án treo trong thời gian thử thách. (Khoản 5 Điều 3 Luật thi hành án hình sự 2010).

1.2. Bản chất pháp lí, vai trò, ý nghĩa của án treo

1.2.1 Bản chất pháp lí của thi hành án treo.

Căn cứ vào định nghĩa và đặc điểm của án treo, ta có thể thấy bản chất pháp lí của thi hành án treo đó là:

– Thi hành án treo là một nội dung thể hiện tính nhân đạo của luật thi hành án hình sự Việt được áp dụng cho người đã bị kết án phạt tù không quá 3 năm, không buộc họ phải chấp hành hình phạt tù khi có đầy đủ những căn cứ và điều kiện nhất định do pháp luật hình sự quy định nhằm khuyến khích họ tự giác cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội.

– Là một hình thức giáo dục, cải tạo người đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng Tòa án xét thấy không cần thiết phải bắt buộc họ chấp hành hình phạt tù.

– Người được hưởng án treo sẽ phải chịu một thời gian thử thách nhất định do pháp luật quy định.

– Thi hành án treo phải được thực hiện theo trình tự, thủ tục luật định.

1.2.2. Vai trò, ý nghĩa của thi hành án treo

– Thi hành án treo có tác dụng khuyến khích người bị kết án với sự giúp đỡ tích cực của xã hội, tự lao động cải tạo để trở thành người lương thiện, đồng thời cảnh cáo họ là nếu trong thời gian thử thách mà phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý thì họ phải chấp hành hình phạt tù đã được hưởng án treo của bản án trước.

– Thi hành án treo là một trong những biểu hiện cụ thể của phương châm trừng trị kết hợp với giáo dục và tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam. Áp dụng đúng đắn các quy định về thi hành án treo sẽ có tác dụng tốt là không bắt người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội mà cũng đạt được mục đích giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội; nhưng nếu áp dụng không đúng thì sẽ gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt như: không phát huy được tác dụng tích cực của thi hành án treo là khuyến khích người bị kết án tự cải tạo để trở thành người tốt, không thể hiện được tính công minh của pháp luật, không được nhân dân đồng tình ủng hộ, không đề cao được tác dụng riêng và phòng ngừa chung.

– Thi hành án treo còn có tác dụng cảnh tỉnh, nhắc nhở người phạm tội, cũng như những người xung quanh lấy đó làm bài học để cố gắng tránh xa những cạm bẫy của đời thường, tránh được việc phạm tội. Với việc áp dụng án treo sẽ giúp cho nhà nước giảm bớt được chi phí trong công tác cải tạo, giáo dục người phạm tội mà vẫn đạt kết quả tốt.

2. Địa vị pháp lý của người được hưởng án treo

Địa vị pháp lý của người được hưởng án treo là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật thi hành án hình sự quy định cho người được hưởng án treo.

2.1. Quyền của người được hưởng án treo

+ Người được hưởng án treo được hưởng đầy đủ các quyền như những cá nhân khác trong xã hội như:

  • Quyền được học tập
  • Quyền được lao động
  • Quyền tư do đăng ký hết hôn, ly hôn
  • Quyền bầu cử
  • Quyền tự do ngôn luận
  • ….

+ Đồng thời, họ sẽ bị hạn chế một số quyền nhằm đảm bảo cho công tác giám sát, giáo dục người phạm tội ở địa phương đạt hiệu quả. Ví dụ: Quyền tự do đi lại.

Bên cạnh đó, luật thi hành án hình sự cũng quy định thêm một số trường hợp đặc biệt như người được hưởng án treo là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân quốc phòng, công nhân Công an, người lao động nếu được tiếp tục làm việc tại cơ quan, tổ chức thì được bố trí công việc bảo đảm yêu cầu giám sát, giáo dục, được hưởng tiền lương và chế độ khác phù hợp với công việc mà mình đảm nhiệm, được tính vào thời gian công tác, thời gian tại ngũ theo quy định của pháp luật.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo được Uỷ ban nhân dân cấp xã tạo điều kiện để người đó tìm việc làm.

Người được hưởng án treo thuộc đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng, người đang hưởng chế độ bảo hiểm xã hội thì vẫn được hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.

2.2. Nghĩa vụ của người được hưởng án treo

+ Người được hưởng án treo phải chấp hành nghiêm chỉnh cam kết của mình trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, làm việc; tích cực tham gia lao động, học tập; chấp hành đầy đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.

+ Phải có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục.

+ Trường hợp người được hưởng án treo đi khỏi nơi cư trú từ 01 ngày trở lên thì phải khai báo tạm vắng.

+ Ba tháng một lần trong thời gian thử thách người được hưởng án treo phải nộp bản tự nhận xét về việc chấp hành pháp luật cho người trực tiếp giám sát, giáo dục; trường hợp đi khỏi nơi cư trú từ 03 tháng đến 06 tháng, thì phải có nhận xét của Công an cấp xã nơi người đó đến lưu trú hoặc tạm trú để trình với Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người đó.

3. Trình tự thủ tục thi hành án treo

Trình tự thủ tục thi hành án treo được quy định tại Điều 62 Luật Thi hành án hình sự năm 2010, theo đó thi hành án treo được tiến hành bởi các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền theo những trình tự, thủ tục luật định.

  • Bước 1: Nhận quyết định thi hành án treo

Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nhận quyết định thi hành án treo của tòa án.

Quyết định thi hành án treo được quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án hình sự 2010. Quyết định thi hành án phải ghi rõ họ tên người ra quyết định; bản án, quyết định được thi hành; tên cơ quan có nhiệm vụ thi hành; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người được hưởng án treo; mức hình phạt tù và thời gian thử thách của người được hưởng án treo; hình phạt bổ sung; Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.

  • Bước 2: Triệu tập người, ấn định thời gian thử thách và cam kết, lập hồ sơ

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có nhiệm vụ triệu tập người được hưởng án treo, người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo là người chưa thành niên đến trụ sở cơ quan thi hành án để:

– Ấn định thời gian người được hưởng án treo phải có mặt tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú, đơn vị quân đội nơi người đó làm việc;

– Cam kết việc chấp hành án, lập hồ sơ thi hành án. Hồ sơ bao gồm:

+ Bản án đã có hiệu lực pháp luật;

+ Quyết định thi hành án treo;

+ Cam kết của người được hưởng án treo. Đối với người được hưởng án treo là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bản cam kết của người đó phải có sự xác nhận của người đại diện hợp pháp;

+ Tài liệu khác có liên quan đến việc thi hành án.

Việc triệu tập người được hưởng án treo, người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo là người chưa thành niên đến trụ sở cơ quan thi hành án có thể xảy ra một trong hai trường hợp sau:

– Trường hợp 1: Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu đã tiến hành triệu tập người được hưởng án treo, người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo đến trụ sở của cơ quan nhưng người đó không đến vì lý do khách quan hoặc cố tình không đến => Sẽ tiến hành triệu tập lần 2, 3,…

– Trường hợp 2: Người được hưởng án treo, người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo có mặt theo đúng lệnh triệu tập thì chuyển sang bước 3.

  • Bước 3: Bàn giao hồ sơ thi hành án cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.

Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày triệu tập người được hưởng án treo, người đại diện hợp pháp của người được hưởng án là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi treo thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phải giao hồ sơ thi hành án cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.

  • Bước 4: Tiếp nhận hồ sơ và tiến hành giám sát, giáo dục người được hưởng án treo

Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người được hưởng án treo sẽ tiếp nhận hồ sơ thi hành án và tiếp nhận người được hưởng án treo đó và tiến hành quá trình giám sát, giáo dục người thi hành án treo tại địa phương, đơn vị trong thời gian thử thách đã quy định.

* Nếu người được hương đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách của án treo có nhiều tiến bộ, được thể hiện bằng việc trong thời gian thử thách thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của người được hưởng án treo; chấp hành đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế nơi làm việc; tích cực lao động, học tập và sửa chữa lỗi lầm; thực hiện đầy đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ khác theo quyết định của bản án mà được Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát giáo dục người được hưởng án treo đề nghị rút ngắn thời gian thử thách thì Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người được hưởng án treo đang cư trú, Tòa án quân sự khu vực nơi người được hưởng án treo làm việc xem xét, quyết định có hay không chấp nhận đề nghị đó.

  • Bước 5: Bàn giao hồ sơ thi hành án và cấp giấy chứng nhận

Trước khi hết thời gian thử thách 03 ngày, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục phải bàn giao hồ sơ thi hành án cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để xem xét và cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách. Giấy chứng nhận phải gửi cho người được hưởng án treo, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ sở.

* Một số lưu ý trong quá trình người hưởng án treo chấp hành án treo:

1. Thứ nhất là trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc. Luật thi hành án hình sự 2010 có những quy định cụ thể tại điều 69 như sau:

– Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú trong phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được hưởng án treo đến cư trú để giám sát, giáo dục.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm làm thủ tục chuyển hồ sơ thi hành án treo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hưởng án treo đến cư trú để tổ chức việc thi hành án theo quy định tại Điều 62 của Luật này và thông báo bằng văn bản cho Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

– Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi làm việc trong phạm vi quân khu thì đơn vị quân đội có trách nhiệm thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án cho đơn vị quân đội nơi người được hưởng án treo đến làm việc để giám sát, giáo dục.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi làm việc ngoài phạm vi quân khu thì cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có trách nhiệm làm thủ tục chuyển hồ sơ thi hành án treo cho cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp nơi người được hưởng án treo đến làm việc để tổ chức việc thi hành án theo quy định tại Điều 62 của Luật này và thông báo bằng văn bản cho Tòa án quân sự khu vực và Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người được hưởng án treo đến làm việc.

Trường hợp người được hưởng án treo không tiếp tục làm việc trong quân đội thì cơ quan cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu làm thủ tục chuyển hồ sơ thi hành án treo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hưởng án treo cư trú để tổ chức việc thi hành án theo quy định tại Điều 62 của Luật này.

2. Thứ hai là trường hợp trong thời gian thử thách người được hưởng án treo đã có ý thức cải tạo tốt, chấp hành nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật thì sẽ được xem xét để được rút ngắn thời gian thử thách. Theo “Thông tư liên tịch số 08/2012 của BCA- BQP-TANDTC-VKSNDTC về việc hướng dẫn rút ngắn thời gian thử thách của án treo”, đối tượng áp dụng, nguyên tắc rút ngắn thời gian thư thách, điều kiện và mức rút ngắn thời gian thử thách của án treo cũng như trình tự, thủ tục rút ngắn thời gian thử thách của án treo được quy định cụ thể như sau:

* Về đối tượng áp dụng, nguyên tắc rút ngắn thời gian thử thách, điều kiện rút ngắn thời gian thử thách:

– Về đối tượng áp dụng: áp dụng đối với người được hưởng án treo; các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành án treo.

– Về nguyên tắc rút ngắn thời gian thử thách:

+ Tuân thủ quy định của pháp luật.

+ Bảo đảm chính sách khoan hồng, nhân đạo xã hội chủ nghĩa.

+ Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được hưởng án treo.

+ Khuyến khích người được hưởng án treo tự giác phấn đấu, tích cực học tập, lao động, chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định thi hành án và nghĩa vụ của người được hưởng án treo.

– Về điều kiện và mức rút ngắn thời gian thử thách:

+ Người được hưởng án treo có thể được Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo khi có đủ các điều kiện sau:

  • Đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách của án treo;
  • Có nhiều tiến bộ, được thể hiện bằng việc trong thời gian thử thách thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của người được hưởng án treo; chấp hành đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế nơi làm việc; tích cực lao động, học tập và sửa chữa lỗi lầm; thực hiện đầy đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ khác theo quyết định của bản án;
  • Được Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát giáo dục người được hưởng án treo đề nghị rút ngắn thời gian thử thách bằng văn bản.

+ Mức rút ngắn thời gian thử thách án treo như sau:  Người được hưởng án treo một năm chỉ được rút ngắn thời gian thử thách một lần từ một tháng đến một năm. Người được hưởng án treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần, nhưng phải bảo đảm thực tế chấp hành thời gian thử thách là ba phần tư thời gian thử thách Tòa án đã tuyên.

+ Trường hợp người được hưởng án treo đã được cơ quan có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo, nhưng không được Tòa án chấp nhận, nếu sau đó có tiến bộ mới thì Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát giáo dục người được hưởng án treo tiếp tục đề nghị rút ngắn thời gian thử thách cho họ.

+ Trường hợp người được hưởng án treo lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và có đủ các điều kiện nêu trên thì Tòa án có thể quyết định rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại.

* Trình tự thủ tục rút ngắn thời gian thử thách (Điều 5, Điều 6 Thông tư liên tịch số 08/2012 của BCA- BQP-TANDTC-VKSNDTC):

– Khi xét thấy người được hưởng án treo có đủ những điều kiện được rút ngắn thời gian thử thách như trên, UBND cấp xã, đơn vị quân đội nơi trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo sẽ lập hồ sơ và đề nghị cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu xem xét cho người đó được rút ngắn thời gian thử thách hay không. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ sau khi nhận được đề nghị của UBND cấp xã nơi người được hưởng án treo cư trú, đơn vị quân đội nơi người được hưởng án treo làm việc; Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cấp quân khu sẽ lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án hình sự, văn bản đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của cơ quan thi hành án và chuyển hồ sơ, văn bản đề nghị cho Tòa án cấp huyện nơi người được hưởng án treo cư trú, Tòa án quân sự khu vực nơi người được hưởng án treo làm việc xem xét, quyết định. Đồng thời sao gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp để thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc rút ngắn thời gian thử thách của án treo.

– Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người chấp hành án treo cư trú, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi người chấp hành án treo làm việc phải thành lập Hội đồng xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo và phân công Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo. Sau đó sẽ ấn định ngày tiến hành mở phiên họp xét rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo.

Trình tự, thủ tục tại phiên họp xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo tiến hành như sau:

  • Một thành viên của Hội đồng trình bày hồ sơ đề nghị;
  • Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến;
  • Hội đồng thảo luận và quyết định.

Trên cơ sở hồ sơ và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo có quyền:

  • Chấp nhận toàn bộ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo. Trường hợp chấp nhận toàn bộ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo mà thời gian thử thách còn lại không quá một tháng, thì Hội đồng có thể quyết định rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại;
  • Chấp nhận một phần đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo;
  • Không chấp nhận đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo.

4. Bình luận mở rộng

Luật Thi hành án hình sự năm 2010, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2011, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, thống nhất và điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án hình sự, trong đó, có quy định về chấp hành án treo. Qua hơn 06 năm thi hành Luật thi hành án hình sự năm 2010, công tác thi hành án hình sự đã đi vào nền nếp, thống nhất, phát huy được hiệu quả trong thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, vẫn còn một số vướng mắc, bất cập cần sớm được hoàn thiện hoặc hướng dẫn cụ thể hơn nhằm nâng cao hiệu quả công tác này, góp phần bảo vệ tốt hơn các quyền con người trong thi hành án hình sự. Trong phạm vi bài này, nhóm xin đề cập đến những vướng mắc trong quy định về chấp hành án treo và đề xuất kiến nghị.

Điều 62. Thi hành quyết định thi hành án treo

1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có nhiệm vụ triệu tập người được hưởng án treo, người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo là người chưa thành niên đến trụ sở cơ quan thi hành án để ấn định thời gian người được hưởng án treo phải có mặt tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú, đơn vị quân đội nơi người đó làm việc và cam kết việc chấp hành án, lập hồ sơ thi hành án. Hồ sơ bao gồm:
a) Bản án đã có hiệu lực pháp luật;

b) Quyết định thi hành án treo;

c) Cam kết của người được hưởng án treo. Đối với người được hưởng án treo là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bản cam kết của người đó phải có sự xác nhận của người đại diện hợp pháp;

d) Tài liệu khác có liên quan đến việc thi hành án.

2. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày triệu tập người được hưởng án treo, người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phải giao hồ sơ thi hành án cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.

3. Trước khi hết thời gian thử thách 03 ngày, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục bàn giao hồ sơ thi hành án cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để xem xét và cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách. Giấy chứng nhận phải gửi cho người được hưởng án treo, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ sở.

Từ quy định tại khoản 1 của Điều luật vừa trích dẫn: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có nhiệm vụ triệu tập người được hưởng án treo, người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo là người chưa thành niên đến trụ sở cơ quan thi hành án để ấn định thời gian người được hưởng án treo phải có mặt tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và cam kết việc chấp hành án, lập hồ sơ thi hành án.

Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định này luôn gặp nhiều vướng mắc, trở ngại trong công tác thi hành án treo. Dưới đây là một trong rất nhiều trường hợp xảy ra trong thực tế, nhóm xin được nêu lên để minh chứng: Trần Long H. ở xã T, huyện G, bị TAND thị xã B xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS. Do bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị. Ngày 20/6/2016 Chánh án TAND thị xã B ra Quyết định thi hành án. Ngày 19/7/2016, Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện G triệu tập bị án H. để làm thủ tục thi hành án nhưng không thấy H. đến. Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện G. tiến hành xác minh thì được biết  H. theo “tàu đánh cá làm ăn ngoài biển”. Trường hợp khác, ngày 10/10/2015 Nguyễn Văn Q. bị TAND huyện C xử phạt 12 tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thử thách 24 tháng về tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 BLHS. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, Tòa án đã ra quyết định thi hành án đối với Q. và chuyển quyết định kèm theo bản án đến Cơ quan thi hành án hình sự- Công an huyện để thi hành. Cơ quan thi hành án tiếp nhận hồ sơ, đồng thời triệu tập B đến trụ sở Cơ quan thi hành án hình sự để ấn định thời gian B phải có mặt tại Ủy ban nhân dân xã (nơi Q. đang cư tú), cam kết việc chấp hành án. Tuy nhiên, triệu tập nhiều lần nhưng Q. đều không đến cơ quan thi hành án để làm việc, tiến hành xác minh tại địa phương nơi Q.. cư trú, được gia đình cho biết, hiện Q. cùng nhóm bạn bè vào miền Nam làm thuê tại Bình Dương, Đồng Nai. Chính vì không có mặt ở địa phương, không đến để làm việc theo giấy triệu tập nên Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện không ấn định được thời gian người phải thi hành án treo đến Ủy ban nhân dân xã, cam kết việc chấp hành án và đương nhiên hồ sơ thi hành án treo của H. và Q. không được bàn giao cho Ủy ban nhân dân xã để tổ chức thi hành.

Thực tế, không ít trường hợp người phải thi hành án treo đi khỏi địa phương nơi cư trú, điều này gây khó khăn rất lớn đối với công tác quản lý, giám sát, giáo dục người thi hành án treo. Nhiều hồ sơ án treo Cơ quan thi hành án hình sự không bàn giao được cho UBND cấp xã để thi hành, lý do Cơ quan thi hành án hình sự không triệu tập được người được hưởng án treo. Bên cạnh đó đối với một số hồ sơ đã được bàn giao cho UBND cấp xã nhưng người được hưởng án treo thực tế cũng không thi hành, bỏ đi làm ăn xa,…. Tình trạng này không những ảnh hưởng đến công tác lập hồ sơ, quản lý, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo của các cơ quan được giao nhiệm vụ là Cơ quan thi hành án hình sự – Công an cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã mà thực tiễn trên còn cho thấy bản án của Tòa án không được người phải thi hành án tuân thủ nghiêm minh và chấp hành theo đúng quy định.

Người phải chấp hành án treo không được quản lý, giám sát giáo dục vẫn “nhởn nhơ” ngoài xã hội, coi thường pháp luật, từ đó, mục đích, ý nghĩa của biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo) mà BLHS quy định không đạt được. Bên cạnh đó, việc xác định bị án đã thi hành án xong phần hình phạt hay chưa cũng không rõ ràng, bởi, nếu hết thời gian chấp hành án treo và thời gian thử thách thì người đó có được coi là đã được xóa án tích hay không? Thực tế, các cơ quan tiến hành tố tụng trên cả nước cũng chưa đưa ra truy tố xét xử trường hợp nào đối với người đã có hành vi không chấp hành án treo mà Tòa án đã tuyên!. Theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành, người chấp hành nghiêm chỉnh bản án của Tòa án về hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đều được cấp giấy chứng nhận hết thời gian thử thách, chấp hành xong hình phạt. Suy cho cùng, người không chấp hành bản án, bỏ trốn khỏi địa phương có hậu quả pháp lý là như nhau, vì sau khi hết thời gian thử thách 01 năm của án đều được coi là đã xóa án tích, mà không căn cứ vào việc người đó có thực sự chấp hành bản án của Tòa án đã tuyên hay không?

Để tháo gỡ những vướng mắc, bất cập này trong thực tiễn thiết nghĩ cần sửa đổi, bổ sung:

+ Luật thi hành án hình sự hiện hành, theo hướng quy định bổ sung thêm thẩm quyền của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện có quyền ra lệnh áp giải thi hành án đối với những người phải chấp hành án treo bỏ trốn hoặc cố tình trốn tránh không đến cơ quan thi hành án làm việc theo giấy triệu tập; bổ sung thêm quyền xử phạt vi phạm hành chính cho Cơ quan thi hành án cấp huyện và Công an cấp xã khi những người này cố tình không đến Cơ quan thi hành án để làm việc theo giấy triệu tập;

+ Sửa đổi quy định về thời hiệu thi hành bản án theo quy định tại khoản 5 Điều 60 BLHS năm 2015 theo hướng rõ ràng hơn, chặt chẽ hơn, đối với những trường hợp không chấp hành bản án được hưởng án treo do trốn tránh (bỏ địa phương đi nơi khác) mà trên thực tế các cơ quan chức năng cũng không ra lệnh truy nã, thì không được áp dụng thời hiệu thi hành bản án.

C- KẾT LUẬN  

Nếu như nói chế định án treo là một chế định pháp luật tiến bộ, biểu hiện cụ thể nguyên tắc trừng trị kết hợp với khoan hồng, tính nhân đạo trong pháp luật hình sự của nước ta thì thi hành án treo là việc đảm bảo cho công tác giám sát, giáo dục, cải tạo người phạm tội được thực hiện trên thực tế và thể hiện được ý nghĩa trọn vẹn của mình.

D- TÀI LIỆU THAM KHẢO

– Luật Thi hành án hình sự 2010;

– Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn rút ngắn thời gian thử thách của án;

– Bài viết “Quy định của Luật thi hành án hình sự năm 2010,vướng mắc, bất cập và kiến nghị” được đăng tải trên Trang thông tin điện tử Bộ Tư Pháp (http://www.moj.gov.vn/);

– Bài viết “Một số hạn chế, bất cập trong Thi hành án treo” được đăng tải trên Chuyên trang học luật trực tuyến (https://hocluat.vn).

 


Các tìm kiếm liên quan đến Thi hành án treo: hướng dẫn thi hành án treo, mẫu quyết định thi hành án treo, thi hành án phạt tù, mẫu bản tự nhận xét chấp hành án, bất cập hạn chế của việc thi hành án treo, hoãn thi hành án phạt tù, luật thi hành án hình sự, nhận xét quá trình chấp hành án tại địa phương

 

đánh giá bài viết

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền