Chế định án treo theo quy định của pháp luật hiện hành

Chuyên mụcLuật hình sự Án treo

Chế định án treo theo quy định của pháp luật hiện hành

 

MỤC LỤC

A – MỞ ĐẦU

  1. Tính cấp thiết của đề tài
  2. Tình hình nghiên cứu đề tài
  3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
  4. Mục đích nghiên cứu của đề tài
  5. Phương pháp nghiên cứu
  6. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu
  7. Kết cấu của đề tài

 

B – NỘI DUNG

Chương I. Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam

1.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của án treo

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của án treo

1.1.2. Bản chất pháp lí của án treo

1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của án treo

1.2. Các căn cứ để cho hưởng án treo.

1.2.1. Về mức hình phạt tù

1.2.2. Về nhân thân người phạm tội

1.2.3. Có nhiều tình tiết giảm nhẹ

1.2.4. Thuộc trường hợp không cần bắt chấp hành hình phạt tù

1.3. Thời gian thử thách của án treo và cách tính thời gian thử thách của án treo

1.3.1. Thời gian thử thách của án treo

1.3.2. Cách tính thời gian thử thách

1.4. Tổng hợp hình phạt đối với người được hưởng án treo

1.4.1. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách

1.4.2. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp người được hưởng án treo đang trong thời gian thử thách lại bị đưa ra xét xử về một tội đã thực hiện trước khi có bản án treo

1.5. Điều kiện thử thách của án treo

Chương II. Một số bất cập và hạn chế của chế định án treo và thực tiễn áp dụng án treo tại Nghệ An. 34

2.1. Thực tiễn áp dụng án treo hiện nay

2.2. Thực tiễn áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Nghệ An

2.3. Một số bất cập và hạn chế của chế định án treo

2.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về án treo trong luật hình sự Việt Nam

2.4.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về án treo

2.4.2. Kiến nghị một số điểm về vận dụng án treo

C – KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

NHỮNG  TỪ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN

  1. BLHS: Bộ luật hình sự
  2. TAND: Tòa án nhân dân
  3. TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
  4. VKS: Viện kiểm sát
  5. VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  6. HĐTP: Hội đồng thẩm phán
  7. TNHS: Trách nhiệm hình sự
  8. NCPL: Nghiên cứu pháp luật
  9. NQ: Nghị quyết
  10. SL: Sắc lệnh
  11. CP: Chính phủ
  12. TTLT: Thông tư liên tịch
  13. HSST: Hình sự sơ thẩm

 


 

A MỞ ĐẦU

  1. Tính cấp thiết của đề tài.

          Án treo là một chế định pháp lí hình sự ra đời từ rất sớm, xuất hiện và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của Luật hình sự Việt Nam. Xuất phát từ nhiệm vụ của Luật hình sự và mục đích của việc buộc người phạm tội phải thi hành hình phạt thể hiện việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như mục đích răn đe, giáo dục, cải tạo người phạm tội hoàn lương, án treo là một trong các biện pháp tác động mà nhà nước đã sử dụng để tác động đến người phạm tội. Trải qua một lịch sử phát triển khá dài, án treo đã ngày càng khẳng định được tính ưu việt của nó. Chế định án treo là một biểu hiện rõ nét sự kết hợp hài hoà giữa phương châm trừng trị với khoan hồng, đồng thời cũng thể hiện sự tham gia của nhân dân vào việc giám sát người phạm tội tự giáo dục, cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, về mặt lí luận, cũng như về thực tiễn áp dụng, vẫn còn nhiều vấn đề chưa thống nhất trong quan điểm, quan niệm về án treo. Hơn nữa, xét về mặt lập pháp còn nhiều quy định về án treo chưa chặt chẽ, chưa rõ ràng, gây khó khăn cho việc áp dụng án treo.

Từ lí luận cũng như tình hình thực tế áp dụng án treo ở nước ta hiện nay cũng như những quan niệm khác nhau về án treo thì vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện, sâu rộng về chế định này là rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn góp phần đem lại một cách hiểu đúng đắn, toàn diện, và thống nhất trong lí luận cũng như trong thực tế áp dụng án treo. Đồng thời, góp phần vào việc hoàn thiện chế định án treo, phát huy một cách có hiệu quả nhất tác dụng của án treo trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bằng đề tài “Chế định án treo, thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Nghệ An” tác giả mong muốn góp phần lý giải về lý luận cũng như thực tiễn trong Pháp luật Việt Nam khi xây dựng và áp dụngk chế định này ở Việt nam.

  1. Tình hình nghiên cứu đề tài.

Án treo là một đề tài có nội dung phong phú được các nhà lập pháp, các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cán bộ nghiên cứu khoa học pháp lí cũng quan tâm. Trên thực tế, vấn đề án treo được đề cập rất nhiều ở một số giáo trình Đại học chuyên ngành luật, các bài tham luận tại các diễn đàn khoa học, các luận án, luận văn… Điển hình như giáo trình luật hình sự – trường đại học Luật Hà Nội; giáo trình luật hình sự –  Khoa luật trường đại học Quốc gia Hà Nội; Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam­ – Thạc sỹ Lê Văn Luật, NXB Tư pháp 2007; Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam – Luận án thạc sĩ luật học 1996 của tác giả Phạm Thị Học; Án treo và thực tiễn áp dụng ở tỉnh Bắc Ninh – Luận án thạc sĩ luật học 2004 của tác giả Nguyễn Hữu Xương… ngoài ra còn có các bài viết liên quan đến chế định án treo được đăng trên các tạp chí chuyên ngành.

Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau liên quan đến vấn đề này. Việc có nên giữ lại chế định án treo hay không, nếu giữ lại thì phải làm thế nào để nâng cao hiệu quả của việc áp dụng chế định án treo cũng như làm thế nào để khắc phục những khó khăn vướng mắc trong việc áp dụng cũng như hoàn thiện chế định này?… Đó chính là những điều mà rất nhiều nhà nghiên cứu pháp luật quan tâm. Chính vì vậy, hiện nay vấn đề nghiên cứu chế định này luôn nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu pháp luật, các thầy cô giáo và các sinh viên cũng như các tầng lớp khác nhau trong xã hội.

  1. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.

          Trên cơ sở việc xem xét các quy định liên quan đến án treo, cũng như tham khảo những tài liệu liên quan đến chế định này, đề tài nghiên cứu sẽ đi một cách khái quát nhất các nội dung cơ bản của chế định này thông qua việc nghiên cứu sự hình thành, phát triển của chế định án treo trong lịch sử và thực tiễn của việc áp dụng chế định án treo để giúp mọi người hiểu rõ hơn về chế định này, đồng thời cũng đưa ra những nhận xét, nhận định, những biện pháp tháo gỡ những vướng mắc còn tồn tại trong quá trình phát triển của án treo để từ đó đóng góp một số ý kiến nhằm làm hoàn thiện hơn chế định này.

4. Mục đích nghiên cứu của đề tài.

Mục đích của đề tài nghiên cứu là nhằm làm sáng tỏ một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam. Từ đó nêu ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng của án treo.

Về lí luận, đề tài nghiên cứu các khái niệm, tính chất pháp lí của án treo, phân tích các nội dung của chế định này, nêu ra các ưu điểm và hạn chế của nó.

Về thực tiễn : Đề tài nghiên cứu tập trung nghiên cứu, đánh giá tổng quát thực tiễn áp dụng trong những năm gần đây và lấy ví dụ cụ thể về việc áp dụng chế định án treo ở tỉnh Nghệ An.

  1. Phương pháp nghiên cứu.

          Trong quá trình nghiên cứu, tác giả dựa vào phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với việc sử dụng các phương pháp như: phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp thống kê và phương pháp so sánh, đối chiếu. Qua đó, rút ra những kết luận, đề xuất những biện pháp nhằm hoàn thiện chế độ án treo cả về mặt lí luận và thực tiễn áp dụng.

  1. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu.

Đề tài “Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam” có ý nghĩa quan trọng cả về lí luận và thực tiễn.

Về lí luận: Đề tài đã nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình hình thành và phát triển của chế định án treo, nội dung các vấn đề của án treo, phân biệt án treo với hình phạt cải tạo không giam giữ, qua đó góp phần nâng cao nhận thức, tạo tiền đề cho việc xây dựng và hoàn thiện chế định này.

Về thực tiễn áp dụng: Đề tài nghiên cứu góp phần đem lại cách hiểu đúng đắn về chế định án treo, từ đó giúp cho việc áp dụng pháp luật một cách chính xác, khách quan, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.

  1. Kết cấu của đề tài.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 2 chương:

Chương I : Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam

     ChươngII : Một số bất cập và hạn chế của chế định án treo và thực tiễn áp dụng án treo tại Nghệ An

 

 B- NỘI DUNG

Chương I. Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam

1.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của án treo.

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của án treo.

Án treo là chế định hình sự ra đời từ rất sớm, trải qua một lịch sử phát triển lâu dài, từ sắc lệnh 21/SL ngày 14 – 2 – 1946 tới nay, tuy có nhiều cách hiểu khác nhau. Đôi lúc án treo được hiểu là “tạm đình chỉ việc thi hành án”, hoặc là một biện pháp “hoãn hình có điều kiện” hoặc là “biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”. Tuy nhiên, dù có nhiều quan niệm khác nhau nhưng án treo chưa bao giờ được coi là hình phạt trong hệ thống hình phạt.

Có rất nhiều tác giả nghiên cứu đưa ra những khái niệm khác nhau về án treo như:

Tác giả Đinh Văn Quế : “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với người bị phạt không quá 3 năm tù, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù”.

PGS TS KH Lê Văn Cảm: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù kèm theo 1 thời gian thử thách nhất định đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định”.

Căn cứ vào Điều 60 BLHS 1999 cùng với những văn bản hướng dẫn thi hành và những phân tích nêu trên, theo tác giả “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng cho người đã bị kết án phạt tù không quá 3 năm, không buộc họ phải chấp hành hình phạt tù khi có đầy đủ những căn cứ và điều kiện nhất định do pháp luật hình sự quy định (nhằm khuyến khích họ tự giác cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội), đồng thời cũng cảnh cáo họ là nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì họ sẽ phải chấp hành hình phạt tù đã được hưởng án treo của bản án trước đó”.

Việc quy định án treo một mặt, thể hiện nội dung khoan hồng, tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong pháp luật hình sự của nhà nước ta, mặt khác cũng thể hiện chính sách nghiêm trị kết hợp với giáo dục, khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta khi xét thấy người phạm tội không nguy hiểm tới mức nếu để ngoài xã hội không những không ảnh hưởng xấu đến tình hình phòng ngừa và chống tội phạm, mà còn có tác dụng tốt đối với việc giáo dục họ, tạo điều kiện thuận lợi hơn để họ có thể cải tạo tốt để trở thành người có ích cho xã hội.

Từ khái niệm nêu trên, có thể thấy án treo có những đặc điểm sau:

– Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.

– Việc toà án quyết định án treo nhất thiết phải kèm theo thời gian thử thách nhất định.

– Án treo chỉ được áp dụng khi có đủ những căn cứ và những điều kiện do pháp luật quy định.

– Án treo không phải là một loại hình phạt.

1.1.2. Bản chất pháp lí của án treo.

Căn cứ vào định nghĩa và đặc điểm của án treo, ta có thể thấy bản chất pháp lí của án treo đó là:

– Án treo là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam.

– Là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.

– Được áp dụng đối với người bị phạt tù có thời hạn không quá 3 năm (bản án đã có hiệu lực trên thực tế), có nhân thân tốt, có những tình tiết giảm nhẹ (ít nhất phải có 1 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điều 46 BLHS 1999), và Tòa án xét thấy không cần thiết phải bắt buộc họ chấp hành hình phạt tù.

– Người được hưởng án treo sẽ phải chịu 1 thời gian thử thách nhất định do pháp luật quy định.

1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của án treo.

Hiện nay có rất nhiều ý kiến xoay quanh việc có nên cho phép tồn tại án treo hay không. Thậm chí còn có ý kiến đề xuất nên bỏ hẳn án treo và thay bằng hình phạt cải tạo không giam giữ. Như vậy chúng ta cần phải xem xét vai trò của án treo như thế nào đối với việc đấu tranh phòng chống tội phạm.

Trước hết, cần phải khẳng định rằng “án treo” và “cải tạo không giam giữ” hoàn toàn khác nhau.

Thứ nhất, “cải tạo không giam giữ” là một loại hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự Việt Nam. Còn “án treo” không phải là một loại hình phạt mà là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Một bên đang chấp hành án, thời hạn hình phạt rút ngắn từng ngày (cải tạo không giam giữ); bên kia là trong thời gian thử thách, hình phạt vẫn lơ lửng trên đầu, nếu tái phạm thì phải ngồi tù (án treo).

Thứ hai, “cải tạo không giam giữ” chỉ áp dụng đối với những người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội (tức là hành vi phạm tội chưa đến mức phải phạt tù, nhưng cũng cần phải giáo dục răn đe). Án treo được áp dụng với tất cả các loại tội phạm không phân biệt tội gì mà mức phạt tù không quá 3 năm, ngoài ra người được hưởng án treo còn phải đáp ứng một số điều kiện nhất định do pháp luật quy định (nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên…), nếu xét thấy không cần thiết phải buộc họ chấp hành hình phạt tù (tức là hành vi phạm tội đáng phạt tù, nhưng không nhất thiết phải bắt họ phải thi hành hình phạt, mà việc để họ ngoài xã hội cũng không ảnh hưởng xấu đến việc phòng và chống tội phạm, chẳng những thế lại còn có tác dụng tốt hơn trong việc cải tạo họ trở thành người lương thiện có ích cho xã hội).

Thứ ba, đối với “cải tạo không giam giữ” nếu người phạm tội thực hiện tội phạm mới trong thời gian thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ thì họ cũng không bị buộc phải chấp hành hình phạt tù của hình phạt trước. Còn đối với “án treo”, nếu người được hưởng án treo thực hiện tội phạm trong thời gian thử thách thì họ buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước mà không cho hưởng án treo nữa. Nghĩa là hình phạt tù của bản án trước luôn “treo lơ lửng” trên đầu họ, và luôn nhắc nhở họ rằng nếu còn phạm tội thì bản án trước đó cho phép họ hưởng án treo sẽ “rơi” xuống đầu họ.

Thứ tư, cải tạo không giam giữ có thời hạn sáu tháng đến ba năm, chỉ áp dụng với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Còn án treo được vận dụng đối với tất cả các loại tội, kể cả tội phạm ma túy, xâm phạm an ninh quốc gia. Chế định này đã giúp cá thể hóa hình phạt tới từng trường hợp phạm tội. Đó là tính ưu việt của án treo.

Qua những đặc điểm của cải tạo không giam giữ nêu trên có thể thấy rằng tính chất giáo dục của án treo dường như có tác dụng hơn đối với cải tạo không giam giữ. Bởi lẽ, án treo vừa có tính chất trừng phạt, răn đe, đồng thời cũng vừa có tính chất nhân đạo, khoan hồng, tạo điều kiện tốt hơn cho người phạm tội tự cải tạo mình thành người có ích cho xã hội hơn.

Cũng có người cho rằng áp dụng án treo là làm mất đi tính nghiêm minh của pháp luật, vì có những trường hợp không đáng cho hưởng án treo nhưng với ý định chủ quan của người thẩm phán muốn cho hưởng án treo ngay từ đầu nên toà án hạ thấp mức phạt tù xuống để đủ điều kiện cho hưởng án treo, có những trường hợp đáng cho hưởng án treo thì lại phạt tù giam v.v… Đó là việc con người cố ý làm sai pháp luật làm mất đi bản chất của án treo. Bởi lẽ, chúng ta đều biết, án treo không phải là một loại hình phạt mà nó chỉ là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Có nghĩa là, khi toà án xét xử một người phạm tội, thì toà án phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, cũng như hậu quả xảy ra để ấn định mức phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội, sau đó mới xét đến các điều kiện mà pháp luật quy định để xem xét có nên cho người đó được hưởng án treo hay không. Việc thi hành hình phạt tù đối với người phạm tội có nhiều mặt tốt trong việc cải tạo người phạm tội, nhưng bên cạnh đó không phải không có những hạn chế nhất định. Việc tước đi quyền tự do, cách ly tạm thời người phạm tội ra khỏi môi trường sống bình thường ngoài xã hội, cải tạo họ trong một môi trường đặc biệt ở trại cải tạo, bắt buộc họ phải tuân theo những nguyên tắc hầu như không thay đổi, sẽ làm cho phạm nhân trở nên thụ động. Nếu sống ở trong môi trường đặc biệt này ở một mức độ nhất định, thì tính thụ động đó sẽ trở thành một thói quen mà sau này ra tù không phải ai cũng có thể khắc phục được. Và nếu như những định kiến ngoài xã hội vẫn coi họ là những người bị tù, ngại hay sợ tiếp xúc với họ, hoặc các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế ngoài xã hội… không muốn nhận họ vào làm việc, cùng với những xáo trộn trong cuộc sống gia đình như vợ (chồng) xin ly hôn, kinh tế giảm sút… buộc họ phải tìm mọi cách để tự kiếm sống, thì điều này rất dễ tác động đến tâm lý của họ, rất dễ dẫn đến việc họ sẽ tiếp tục quay lại con đường phạm tội. Điều này cũng giải thích tại sao tỉ lệ tái phạm lại gia tăng trong giai đoạn hiện nay.

Từ những phân tích trên đây có thể thấy rằng, việc duy trì chế độ án treo là một việc làm đúng đắn và cần thiết. Thực tế đã chứng minh, trong những lần sửa đổi, bổ sung BLHS trước đây đã từng có tranh cãi về việc nên duy trì án treo hay không, cuối cùng các nhà làm luật thấy rằng không thể bỏ được chế định án treo. Chế định án treo đã tồn tại liên tục từ khi nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình thành cho tới nay. Việc áp dụng án treo đúng pháp luật, không những không làm mất đi tính nghiêm minh của pháp luật mà ngược lại nó còn có một vai trò rất lớn trong việc giáo dục cải tạo người phạm tội có thể nhanh chóng khắc phục, sửa chữa sai lầm, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

          Theo nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18-10-1990 của HĐTP TANDTC hướng dẫn về việc áp dụng án treo Điều 44 BLHS (năm 1985) thì ý nghĩa của án treo là:

– Án treo có tác dụng khuyến khích người bị kết án với sự giúp đỡ tích cực của xã hội, tự lao động cải tạo để trở thành người lương thiện, đồng thời cảnh cáo họ là nếu trong thời gian thử thách mà phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý thì họ phải chấp hành hình phạt tù đã được hưởng án treo của bản án trước.

– Án treo là một trong những biểu hiện cụ thể của phương châm trừng trị kết hợp với giáo dục và tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam. Áp dụng đúng đắn các quy định về án treo sẽ có tác dụng tốt là không bắt người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội mà cũng đạt được mục đích giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội; nhưng nếu áp dụng không đúng thì sẽ gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt như: không phát huy được tác dụng tích cực của án treo là khuyến khích người bị kết án tự cải tạo để trở thành người tốt, không thể hiện được tính công minh của pháp luật, không được nhân dân đồng tình ủng hộ, không đề cao được tác dụng riêng và phòng ngừa chung.

Án treo còn có tác dụng cảnh tỉnh, nhắc nhở người phạm tội, cũng như những người xung quanh lấy đó làm bài học để cố gắng tránh xa những cạm bẫy của đời thường, tránh được việc phạm tội. Đồng thời án treo cũng có tác dụng thu hút một bộ phận dân cư tham gia và việc giúp đỡ, giáo dục, giám sát người được hưởng án treo trong thời gian thử thách, làm cho họ không phân biệt, xa lánh người bị kết án mà tiến lại gần gũi, giúp đỡ họ để họ cải tạo tốt hơn và sớm hoà nhập với cộng đồng.

Với việc áp dụng án treo sẽ giúp cho nhà nước giảm bớt được chi phí trong công tác cải tạo, giáo dục người phạm tội mà vẫn đạt kết quả tốt.

1.2. Các căn cứ để cho hưởng án treo.

Những căn cứ để áp dụng án treo đối với người bị phạt tù là những yêu cầu, đòi hỏi bắt buộc do pháp luật hình sự quy định đối với người đó, mà chỉ khi nào có đầy đủ những căn cứ này thì tòa án mới được áp dụng án treo đối với người đó.

Theo quy định của Khoản 1 điều 60 Bộ luật hình sự, căn cứ vào những điều kiện sau để tòa quyết định cho hay không cho bị cáo hưởng án treo:

– Về mức phạt tù không quá 3 năm, không phân biệt tội gì.

– Về nhân thân, có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự.

– Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS 1999. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng nặng thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên.

– Thuộc trường hợp không cần bắt chấp hành hình phạt tù.

1.2.1. Về mức hình phạt tù.

Mức hình phạt tù là căn cứ đầu tiên để toà án xem xét cho người bị kết án tù có được hưởng án treo hay không.

Người bị xử phạt tù không quá 3 năm, không phân biệt tội gì có thể được xem xét cho hưởng án treo. Trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá ba năm tù, thì cũng có thể được hưởng án treo.

Khi toà án tuyên mức hình phạt tù phải dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, trên cơ sở tuân thủ những căn cứ để quyết định hình phạt, đồng thời tuân thủ những nguyên tắc của pháp luật hình sự Việt Nam để áp dụng hình phạt cho từng trường hợp cụ thể. Tránh trường hợp vì có ý định trước là sẽ cho người bị kết án hưởng án treo nên Tòa tuyên mức án thấp hơn thời hạn 3 năm tù giam để cho người đó được hưởng án treo; hoặc đáng lẽ bị cáo được hưởng án treo nhưng ý định từ trước không cho hưởng án treo nên tuyên mức án cao hơn 3 năm để không cho hưởng án treo.

Khoản 1, điều 60 của BLHS 1999 quy định mức phạt tù không quá 3 năm, không phân biệt tội gì, tuy nhiên trên thực tế xét xử, thường chỉ áp dụng đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng vì những tội này thường nằm ở mức phạt tù không quá 3 năm.

1.2.2. Về nhân thân người phạm tội.

Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu, các đặc tính thể hiện bản chất xã hội của người thực hiện hành vi phạm tội. Khi xem xét nhân thân người phạm tội với vai trò là một trong các cơ sở của việc quy định TNHS thì độ tuổi chịu TNHS, tiền án, tiền sự của người phạm tội và một số đặc điểm khác thuộc nhân thân người phạm tội là những vấn đề rất quan trọng (Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội – Nguyễn Thị Thanh Thuỷ – Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5/2001).

Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nguyên nhân thực hiện tội phạm. Cụ thể là khuynh hướng thể hiện tính chống đối xã hội của một con người cụ thể, trước hết là động cơ xử sự của người đó trong sự tác động qua lại với môi trường và hoàn cảnh thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm. Ở giai đoạn điều tra, những hiểu biết về nhân thân người phạm tội cho phép cơ quan điều tra có cơ sở để xác định phương pháp, phương hướng và chiến thuật điều tra để đề xuất và kiểm tra các giả thuyết điều tra của mình; Ở giai đoạn xét xử, các tài liệu về nhân thân người phạm tội là cơ sở quan trọng của việc truy cứu TNHS và quyết định hình phạt (lượng hình); Ở giai đoạn thi hành án, nhân thân người phạm tội là căn cứ để xác định chế độ giam giữ, cải tạo, giáo dục người phạm tội. (Nhân thân người phạm tội với việc quy định TNHS – Nguyễn Thị Thanh Thuỷ – Tạp chí toà án nhân dân số 8/2005).

Theo Nghị quyết số 01/ 2007/ NQ-HĐTP ngày 2-10-2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt có quy định: “Người được hưởng án treo phải có nhân thân tốt, được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng”.

Khi xem xét về nhân thân người phạm tội, trước hết cần xác định độ tuổi chịu TNHS của người phạm tội.

Đối với việc xét cho hưởng án treo thì độ tuổi là một vấn đề hết sức quan trọng. Án treo với mục đích là khuyến khích người phạm tội tự cải tạo và sửa chữa bản thân, đồng thời cũng tạo điều kiện cho người phạm tội học tập, hoà nhập với xã hội. Việc áp dụng án treo đối với những người còn ở lứa tuổi vị thành niên, những người trẻ tuổi khi họ mắc sai lầm là việc hết sức đúng đắn và có tác dụng lớn trong việc cải tạo. Tạo điều kiện cho họ không những có cơ hội làm lại cuộc đời, tiếp tục học tập, và làm việc, đóng góp sức mình cho đất nước.

Vấn đề thứ hai khi xem xét tới nhân thân người phạm tội đó là xem xét người phạm tội đã có hay chưa có tiền án, tiền sự.

Tiền án là việc một người đã từng bị kết án về một tội danh được quy định trong bộ luật hình sự mà chưa được xóa án tích theo quy định tại các điều 64, 65, 66, 67 của BLHS 1999.

Tiền sự là việc một người đã bị xử lí vi phạm hành chính, bị xử lí kỉ luật theo đúng quy định của pháp luật, nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lí vi phạm hành chính, xử lí kỉ luật.

Việc xem xét một người đã có hay chưa có tiền án, tiền sự là một trong những cơ sở quan trọng, cần thiết để Toà án cân nhắc, đánh giá nhằm xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do chủ thể tội phạm đã thực hiện, cũng như xem xét khả năng tự cải tạo của người phạm tội để từ đó Toà án ra quyết định hình phạt và ra quyết định cho hưởng án treo sau khi đã ra quyết định hình phạt.

Ngoài ra, một số đặc điểm khác thuộc về nhân thân như đặc điểm về lối sống của người phạm tội (sử dụng các chất có cồn hoặc các chất kích thích khác); đặc điểm về ý thức của người phạm tội (ý thức được việc mình phạm tội hay không); đặc điểm về thái độ, cách ứng xử của người phạm tội sau khi thực hiện tội phạm (tự thú, thành khẩn khai báo, khắc phục hậu quả…).

Tóm lại, khi xem xét để quyết định cho hưởng án treo thì Toà án phải dựa trên quan điểm toàn diện, hệ thống cũng như trong từng trường hợp cụ thể về người phạm tội. Mặt khác, khi áp dụng những căn cứ về nhân thân đòi hỏi phải có nhận thức đúng đắn về bản chất, nội dung và ý nghĩa pháp lý của từng căn cứ, cũng như mối liên hệ giữa các căn cứ này với nhau để có thể áp dụng được một cách đúng đắn điều kiện về nhân thân người phạm tội để có thể đưa ra được một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội cũng như biện pháp thi hành hình phạt tù một cách có hiệu quả để đạt được mục đích cải tạo, giáo dục, răn đe người phạm tội cũng như mục đích phòng chống tội phạm nói chung.

1.2.3. Có nhiều tình tiết giảm nhẹ.

Các tình tiết giảm nhẹ đã được xem xét để quyết định hình phạt vẫn được xem xét cùng với các căn cứ khác để quyết định việc cho hoặc không cho hưởng án treo( Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18 – 10 – 1990).

Các tình tiết giảm nhẹ để xem xét cho hưởng án treo là những tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS 1999 cũng như các tình tiết giảm nhẹ được toà án xác định trong từng vụ án cụ thể. Ngoài ra, các tình tiết giảm nhẹ còn được ghi nhận trong Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về Phần chung của BLHS năm 1999.

Tại điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 đã bỏ một số tình tiết giảm nhẹ mà Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định; cụ thể những tình tiết sau đây:

– Phạm tội vì bị người khác chi phối về mặt vật chất, công tác hay các mặt khác (điểm đ khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985).

– Phạm tội do trình độ nghiệp vụ non kém (điểm g khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985).

Tuy nhiên, căn cứ vào khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA ngày 5-7-2000 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an “Hướng dẫn thi hành Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 và Mục 2 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội” (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 02/2000/TTLT), thì vẫn có thể áp dụng những tình tiết giảm nhẹ nói trên đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 01-7-2000 mà sau thời điểm này mới bị xét xử, nếu họ có những tình tiết giảm nhẹ đó.

Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng quy định bổ sung một tình tiết giảm nhẹ mới; cụ thể là những tình tiết sau đây:

– Người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả (Điểm b khoản 1);

– Người phạm tội đã lập công chuộc tội (điểm r khoản 1);

– Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác (điểm s khoản 1).

Mặc dù những tình tiết giảm nhẹ nói trên được Bộ luật hình sự năm 1999 quy định bổ sung, nhưng trong thực tế thì các Toà án đã áp dụng những tình tiết này khi quyết định hình phạt theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01-89/HĐTP ngày 19 – 4 -1989 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự”. Tuy nhiên, nay Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định bổ sung các tình tiết này vào khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2000/TTLT, thì đối với người thực hiện hành vi phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 01-7-2000 mà sau thời điểm này mới bị xét xử và nếu họ có các tình tiết giảm nhẹ này, thì áp dụng các điểm tương ứng của khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với họ.

Mục 5 của Nghị quyết số 01/2000/NQ – HĐTP cũng nêu rõ: Để áp dụng đúng các điểm r, s khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 cần chú ý:

– “Đã lập công chuộc tội” là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm cho đến trước khi bị xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm), người phạm tội không những ăn năn hối cải, tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm do họ thực hiện, mà họ còn có những hành động giúp đỡ các cơ quan có thẩm quyền phát hiện, ngăn chặn các tội phạm khác, tham gia phát hiện tội phạm, bắt kẻ phạm tội, có hành động thể hiện sự quên mình vì lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích chính đáng của người khác… được cơ quan có thẩm quyền khen thưởng hoặc chứng nhận.

– Người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu học tập hoặc công tác là người được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng khen, bằng lao động sáng tạo hoặc có sáng chế phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sỹ thi đua…..

Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án”. Theo các văn bản hướng dẫn trước đây của Toà án nhân dân tối cao và của Toà án nhân dân tối cao với các cơ quan hữu quan khác cũng như thực tiễn xét xử trong thời gian qua, thì các tình tiết sau đây được coi là các tình tiết giảm nhẹ khác:

– Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước;

– Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sỹ;

– Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;

– Người bị hại cũng có lỗi;

– Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;

– Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;

– Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;

– Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.

Ngoài ra, khi xét xử, tuỳ từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

Theo hướng dẫn mới nhất của Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao tại Nghị quyết 01/2007/NQ – HĐTP trong đó có hướng dẫn về án treo có quy định: Khi xem xét về điều kiện có nhiều tình tiết giảm nhẹ để xét cho hưởng án treo thì người phạm tội phải “có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trong trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên”.

Việc xem xét các tình tiết giảm nhẹ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc áp dụng án treo. Bởi lẽ, một người có nhiều tình tiết giảm nhẹ cho thấy được khả năng tự giáo dục, cải tạo của họ cũng như khả năng có thể gây nguy hiểm cho xã hội nếu như để họ ngoài xã hội là cao hay thấp. Trên cơ sở đánh giá, xem xét các tình tiết giảm nhẹ, toà án có thể ra quyết định hình phạt cũng như xem xét cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo hay không.

Đối với quy định : “ Trong trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên”, thì cũng cần lưu ý, với người có nhiều tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 48 BLHS thì dù họ có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có thể hơn tình tiết tăng nặng hai tình tiết trở lên, thì việc áp dụng án treo với những người này cũng cần phải rất chặt chẽ, trên tinh thần chung là rất hạn chế việc xét hưởng án treo đối với những người này. Vì với người có nhiều tình tiết tăng nặng, cho thấy được phần nào thái độ phạm tội, ý thức phạm tội của họ cũng như khả năng tự cải tạo của họ là rất khó. Cần phải cách ly họ ra khỏi xã hội để đảm bảo được mục đích răn đe và phòng ngừa chung.

1.2.4. Thuộc trường hợp không cần bắt chấp hành hình phạt tù.

Khi xét việc cho người bị kết án được hưởng án treo, Hội đồng xét xử chủ yếu dựa vào 3 căn cứ mức phạt tù, nhân thân của người bị kết án và các tình tiết giảm nhẹ, phân tích từng căn cứ và đánh giá các căn cứ đó, đồng thời đối chiếu với yêu cầu phòng ngừa và chống tội phạm ở từng loại tội trong môi trường xã hội cụ thể của từng thời kì để có thể kết luận về khả năng tự giáo dục, cải tạo của người bị kết án phạt tù với sự giúp đỡ của gia đình và xã hội để từ đó xác định chính xác việc bắt người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù hay cho họ được hưởng án treo. Chỉ khi nào xét thấy nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì cũng không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mà ngược lại, còn có tác dụng tốt cho việc cải tạo, khuyến khích người phạm tội sửa chữa thì mới cho họ hưởng án treo. Cần tránh tình trạng cho người được hưởng án treo một cách tuỳ tiện, thiếu căn cứ, không được nhân dân đồng tình ủng hộ và làm giảm tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung của án treo.

Cần lưu ý rằng, đối với những người bị xử phạt tù đã bị tạm giam thì chỉ cho hưởng án treo khi thời gian đã bị tạm giam ngắn hơn thời hạn phạt tù.

1.3. Thời gian thử thách của án treo và cách tính thời gian thử thách của án treo.

1.3.1. Thời gian thử thách của án treo.

Trước đây, theo Điều 10 Sắc lệnh số 21/SL ngày 14-2-1946 về việc tổ chức toà án quân sự quy định: “… Nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị toà án quân sự làm tội một lần nữa về một việc mới…”. Như vậy, thời gian thử thách của án treo cố định là 5 năm.

Thực tiễn vận dụng án treo đã chứng tỏ việc ấn định thời gian thử thách cố định là cứng nhắc, không công bằng. Bởi vì, thời gian răn đe đối với người phạm tội bị kết án tù ở mức độ thấp và thời gian răn đe đối với người phạm tội bị kết án tù ở mức độ cao hơn lại bằng nhau. Ví dụ: A bị tòa án phạt 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 5 năm cũng bằng thời gian thử thách của B bị phạt tù 5 năm. Điều này rõ ràng là bất hợp lí đối với trường hợp của A. Có toà án muốn tránh sự bất bình đẳng đó, đã tự tuyên thời gian thử thách của án treo tuỳ theo từng trường hợp dài ngắn khác nhau, không tuyên cố định 5 năm như Sắc lệnh số 21/SL đã quy định. Trong phần đánh giá sơ bộ tình hình áp dụng án treo tại Thông tư số 2308/NCPL ngày 1-12-1961, Toà án nhân dân tối cao không coi đây là nhược điểm mà cho đó là sự linh hoạt: “Bên cạnh những nhược điểm và thiếu sót một số toà án cũng đã áp dụng những biện pháp linh hoạt như:

… Một số toà án đã không áp dụng thời gian cố định 5 năm như trước mà đã ấn định thời gian thử thách dài ngắn tuỳ theo hình phạt nặng nhẹ và tuỳ theo bản chất can phạm” (Thời gian thử thách của án treo theo luật hình sự Việt Nam – Phạm Thị Bích Học – Tạp chí Luật học số 1/1997).

Tại Thông tư số 2308/NCPL ngày 1-12-1961, Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn cách xác định thời gian thử thách của án treo cụ thể hơn: “ Khi cho hưởng án treo, toà án phải ấn định một thời gian thử thách trong khoảng từ 1 đến 5 năm dài ngắn tuỳ theo hình phạt và tuỳ theo bản chất của can phạm. Thời gian thử thách nói chung phải dài hơn mức hình phạt chính”. Theo đó, thời gian thử thách của án treo có thể được toà án tuyên bằng hoặc thậm chí ít hơn mức phạt tù đã cho hưởng án treo, điều này là bất hợp lí. Hướng dẫn này được sử dụng cho đến khi ban hành BLHS năm 1985.

* Trong BLHS 1985, thời gian thử thách của án treo được quy định tại khoản 1 Điều 44: “Khi xử phạt tù không quá năm năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm”.

Trên thực tế đã có nhiều Công văn, Nghị quyết được ban hành trong đó có hướng dẫn áp dụng khoản 1 điều 44 như: Nghị quyết 02/HĐTP ngày 5-1-1986, Công văn số 108/HĐNN ngày 19-6-1987, Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-1988. Tuy nhiên, những hướng dẫn này có nhiều điểm chưa hợp lý, chưa thể hiện được ý nghĩa, tầm quan trọng của thời gian thử thách của án treo. Ví dụ: Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-1988 có hướng dẫn: “… Thông thường thì thời gian thử thách phải bằng hoặc dài hơn hình phạt đã tuyên nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng không được dưới 1 năm hoặc quá 5 năm”, với hướng dẫn như vậy, người áp dụng có thể hiểu rằng trong một số trường hợp cụ thể, thời gian thử thách của án treo có thể bằng hoặc thấp hơn hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo. Nếu thời gian thử thách của án treo lại có thể thấp hơn mức hình phạt tù thì ý nghĩa đích thực của án treo cũng bị hạn chế bởi không thể có kết luận đúng đắn về người phạm tội, những nỗ lực tự giác cải tạo giáo dục của người đó trong điều kiện thời gian thử thách ít hơn hình phạt tù.

Để khắc phục những nhược điểm trong các văn bản hướng dẫn trước đây, Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 44 BLHS đã thống nhất: “Theo khoản 1 Điều 44 BLHS thì thời gian thử thách của án treo là từ 1 năm đến 5 năm, bất cứ trương hợp nào cũng không được dưới 1 năm hoặc quá 5 năm và không được ít hơn mức hình phạt tù. Thời gian thử thách của án treo là bắt buộc, không được cho hưởng án treo mà lại miễn thời gian thử thách”.

* BLHS 1999 ra đời quy định về thời gian thử thách của án treo tại khoản 1 Điều 60: “Khi xử phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 1 năm đến 5 năm”.

Để hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng thời gian thử thách của án treo, Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ban hành ngày 2-10-2007 quy định như sau:

“… Khi cho người xử phạt tù được hưởng án treo trong mọi trường hợp toà án phải ấn định thời gian thử thách từ 1 năm đến 5 năm và phân biệt như sau:

a, Trường hợp người bị xử phạt tù không bị tạm giam thì thời gian thử thách bằng 2 lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới 1 năm và không quá 5 năm.

b, Trường hợp người bị xử phạt tù đã bị tạm giam thì lấy mức hình phạt tù trừ đi thời gian đã bị tạm giam để xác định mức hình phạt tù còn lại phải chấp hành. Thời gian thử thách trong trường hợp này bằng 2 lần mức hình phạt tù còn lại phải chấp hành nhưng không được dưới 1 năm và không được quá 5 năm.

c, Trong trường hợp đặc biệt thì Toà án có thể ấn định thời gian ngắn hơn mức được hướng dẫn tại các điểm a và b nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.”

Như vậy, Nghị quyết trên đã hướng dẫn một cách cụ thể từng trường hợp giúp cho Toà án quyết định thời gian thử thách của án treo được chính xác, đúng đắn hơn.

1.3.2. Cách tính thời gian thử thách.

Chế định án treo chỉ có ý nghĩa và phát huy đúng tác dụng của nó khi trong bản án cho hưởng án treo có một thời gian thử thách được tuyên đúng, đủ cho người phạm tội tự khẳng định mình về tính tự cải tạo, giáo dục để hoà nhập với cộng đồng. Qua đó, toà án cũng có điều kiện để kiểm tra sự đúng đắn trong việc áp dụng án treo trên cơ sở phân tích, đánh giá những thông tin cần thiết từ hai chiều (phía cơ quan hoặc tổ chức xã hội và phía người phạm tội) về thái độ cải tạo, tu dưỡng của người phạm tội. Chính vì vậy mà cách tính thời gian thử thách như thế nào là hợp lí là một việc hết sức quan trọng trong việc ấn định thời gian thử thách của án treo.

Trong lịch sử phát triển của chế định án treo, cách tính thời gian thử thách có được quy định khác nhau qua từng thời kì.

Trước hết là sắc lệnh số 21/SL ngày 14-2-1946 quy định thời gian thử thách của án treo được tính “bắt đầu từ ngày tuyên án”.

Đến năm 1961 có thông tư số 2308/NCPL ngày 1-12-1961, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn: “Thời gian thử thách này bắt đầu từ khi bản án đã trở thành nhất định”(Hệ thống hoá luật lệ hình sự Tập I; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1975 tr.125).

Năm 1965, trong công văn số 1327/NCPL ngày 4-11-1965 gửi Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây, Toà án nhân dân tối cao lại hướng dẫn : “Thời gian thử thách có thể tính từ ngày tuyên án sơ thẩm…

          Cần nói rõ ngày bắt đầu tính thời gian thử thách (trong án) để cho việc chấp hành được dễ dàng”( Hệ thống hoá luật lệ hình sự Tập I; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1975 tr.125). Một trong những lí do khiến TANDTC có sự thay đổi này là “… sẽ có tác dụng thiết thực giáo dục, ngăn ngừa ngay đối với người bị kết án. Người bị kết án sẽ hiểu rằng nếu y lại phạm tội mới trong khi chờ xét xử lại, tức là y đã phạm tội mới trong thời gian thử thách…” (Hệ thống hoá luật lệ hình sự Tập I; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1975 tr.132).

Ở các giai đoạn này, việc tồn tại các cách tính thời gian thử thách của án treo cũng khác nhau cho thấy thiếu sự thống nhất trong thực tiễn xét, điều này rất dễ dẫn đến sự tuỳ tiện trong xét xử.

Đến khi BLHS 1985 được ban hành và có hiệu lực pháp luật thì cách tính thời gian thử thách của án treo cũng chưa được quy định cụ thể trong luật. Việc luật không quy định cụ thể cách tính thời gian thử thách của án treo đã gây không ít khó khăn trong công tác xét xử. Việc tính thời gian thử thách của án treo như thế nào lại phải dựa vào các văn bản hướng dẫn áp dụng BLHS.

Trong văn bản hướng dẫn đầu tiên ngay sau khi BLHS 1985 có hiệu lực pháp luật (Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986, Toà án NDTC đã hướng dẫn: “Thời gian thử thách là từ một năm đến năm năm, tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc bản án phúc thẩm cho hưởng án treo mới)”( Hệ thống các văn bản cần thiết cho công tác kiểm sát. Tập I. VKSNDTC xuất bản năm 1991, tr.196). Cách tính này giống với cách tính theo hướng dẫn tại Thông tư số 2308/NCPL ngày 1-12-1961. Tuy nhiên, việc hướng dẫn như vậy lại gặp phải khó khăn. Đó là trường hợp người bị toà án cấp sơ thẩm phạt tù nhưng cho hưởng án treo, bản án đó bị kháng nghị, kháng cáo. Trong thời gian chờ đợi toà phúc thẩm xét xử lại, người phạm tội lại phạm tội mới. Nếu toà án không coi đây là phạm tội mới trong thời gian thử thách thì sẽ không công bằng. Người bị kết án trong thời gian chờ xét xử phúc thẩm sẽ không bị coi là phạm tội trong thời gian thử thách nên không được buộc họ thi hành hình phạt tù mà họ đã được hưởng án treo. Như vậy, sẽ không đảm bảo được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tái phạm. Chính vì vậy, thời gian sau đó hướng dẫn này đã được thay thế bằng thông tư số 01/NCPL ngày 6-4-1988, Toà án NDTC đã sửa lại: “Thời gian thử thách của án treo được tính từ ngày tuyên án treo đầu tiên, cụ thể như sau:

          – Nếu xử sơ thẩm thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án và phải ghi rõ ngày, tháng, năm. Nếu bị cáo đang bị tạm giam thì phải tuyên tha ngày bị cáo. Nếu án sơ thẩm bị kháng cáo hay kháng nghị (kể cả trường hợp án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm) mà khi xử phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm vẫn y án treo của án sơ thẩm thì thời gian thử thách cũng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

 Nếu án sơ thẩm phạt tù giam, án phúc thẩm hoặc án giám đốc thẩm cải án sơ thẩm cho bị cáo hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm”( Hệ thống các văn bản cần thiết cho công tác kiểm sát. Tập I. VKSNDTC xuất bản năm 1991, tr.230).

Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-1988 của HĐTP TANDTC hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986, tại mục II của Nghị quyết quy định về thi hành án treo (tại Điều 44 BLHS 1985), có hướng dẫn về cách tính thời gian thử thách như sau: “Thông tư số 01/NCPL ngày 6- 4-1988 có hướng dẫn là thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án treo đầu tiên tức là tuỳ trường hợp có thể là ngày tuyên án sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm. Cách tính này nhằm giải quyết cho người bị kết án đỡ bị thiệt thòi vì xử phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm thường chậm. Nay Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, từ này thống nhất tính thời gian thử thách của án treo từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật…”. Hướng dẫn này lại nảy sinh những bất cập giống với hướng dẫn tại Nghị quyết 02/HĐTP ngày 5-1-1986.

Như vậy, cách tính thời gian thử thách của án treo lại được sửa lại tại Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18-10-1990 của HĐTP TANDTC. Theo văn bản này, cách tính thời gian thử thách được xác định như sau: “Để phát huy tác dụng phòng ngừa của án treo, tránh tình trạng người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm hoặc phạm tội mới trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm mà không bị coi là phạm tội mới trong thời gian thử thách, từ nay thời gian thử thách của án treo tính từ ngày tuyên bản án đầu tiên cho hưởng án treo. Nghĩa là: nếu Toà án cấp sơ thẩm cho người bị kết án hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; nếu Toà án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Toà án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm; nếu cả Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đều không cho hưởng án treo, nhưng Toà án cấp giám đốc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án giám đốc thẩm; nếu Toà án sơ thẩm cho hưởng án treo, Toà án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo. nhưng Toà án cấp giám đốc thẩm lại cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm”. Hướng dẫn tại Nghị quyết này đã được áp dụng cho tới năm 2007. Có thể nói, cách tính thời gian thử thách này là hợp lí hơn cả, và phát huy được tác dụng đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2-10-2007 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt đã một lần nữa hướng dẫn cách tính thời gian thử thách của án treo như sau: “Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án đầu tiên cho hưởng án treo; cụ thể như sau:

  1. a) Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Toà án cấp phúc thẩm cũng cho hưởng án treo (có thể mức hình phạt thay đổi) thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
  2. b) Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, Toà án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án phúc thẩm.
  3. c) Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Toà án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Toà án cấp giám đốc thẩm huỷ bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại và Toà án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
  4. d) Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, nhưng bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm bị huỷ để điều tra lại, Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm hoặc tuyên án phúc thẩm lần sau theo hướng dẫn tại các điểm a, b và c của tiểu mục 6.5 này” (Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2-10-2007 của HĐTP TANDTC). So với hướng dẫn tại Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18-10-1990 thì Nghị quyết này còn bổ sung thêm một trường hợp (điểm d tiểu mục 6.5), và việc quy định cách tính thời gian thử thách có phần rõ ràng hơn. Có thể nói, tính tới thời điểm này thì Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2-10-2007 là hoàn thiện nhất và hợp lí nhất từ trước tới nay. Nó đã khắc phục được mọi vướng mắc nảy sinh trong quá trình xét xử cũng như trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Ngoài ra, theo Nghị đinh 61/2000/NĐ-CP ngày 30-10-2000 của Chính phủ quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thì đối với những người được hưởng án treo là cán bộ, công chức, quân nhân, công nhân quốc phòng, người lao động làm công ăn lương, thì “thời gian thử thách  của án treo được tính từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người đó nhận được quyết định thi hành bản án và trích lục bản án”.

1.4. Tổng hợp hình phạt đối với người được hưởng án treo.

Trong BLHS 1985 cũng như trong BLHS hiện hành và văn bản hướng dẫn mới nhất (Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2-10-2007) đều không có quy định cụ thể về việc tổng hợp hình phạt đối với người có nhiều bản án trong đó có bản án bắt phải chấp hành hình phạt tù, có bản án cho hưởng án treo, mà chỉ quy định đối với người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định bắt chấp hành hình phạt tù của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới. Còn việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp một người đã bị xét xử và phạt tù nhưng cho hưởng án treo đang trong thời gian thử thách lại bị đưa ra xét xử về một tội đã thực hiện trước (hoặc sau tội đã bị xử và cho hưởng án treo), hoặc khi hết thời gian thử thách của bản án án treo mà bị đưa ra xét xử về một tội đã thực hiện trong thời gian thử thách thì vẫn áp dụng theo Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18-10-1990 như sau:

“… 2. Người được hưởng án treo chỉ phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước nếu trong thời gian thử thách họ đã phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý. Do đó, nếu trong thời gian thử thách, họ bị phạt tù về tội đã thực hiện trước khi bị phạt tù và được hưởng án treo thì tuỳ trường hợp, Toà án có thể cho hưởng án treo một lần nữa. Nếu Toà án không cho hưởng án treo một lần nữa và người bị kết án chấp hành hình phạt tù trong thời gian thử thách của án treo thì thời gian chấp hành hình phạt tù được tính vào thời gian thử thách của án treo. Nếu cho người bị kết án hưởng án treo một lần nữa, thì Toà án tổng hợp hình phạt tù của hai bản án và ấn định thời gian thử thách chung cho cả 2 bản án. Trong trường hợp này cần chú ý là chỉ khi hình phạt chung của hai bản án không quá 5 năm tù thì mới được cho hưởng án treo và thời gian thử thách chung cũng không dưới 1 năm, không được quá 5 năm và không được ít hơn mức hình phạt tù chung.

  1. Trong trường hợp sau khi hết thời gian thử thách của án treo mới phát hiện được tội phạm đã được thực hiện trong thời gian thử thách, vì việc xét xử và tổng hợp hình phạt vẫn tiến hành như trường hợp tội phạm đó được phát hiện trong thời gian thử thách của án treo. Toà án nào đã cấp giấy chứng nhận xoá án cho người bị kết án, thì Toà án đó phải ra quyết định huỷ giấy chứng nhận xoá án cấp sai”.

Việc hướng dẫn như vậy vẫn còn mang tính chất tuỳ nghi, và chung chung, phụ thuộc nhiều vào sự xét xử của Toà án. Khi xét xử, Toà án thường phải xem xét, cân nhắc, quyết định tổng hợp hình phạt đối với người được hưởng án treo trong những trường hợp sau: Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; Người được hưởng án treo đang trong thời gian thử thách lại bị đưa ra xét xử về một tội đã thực hiện trước khi có bản án phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

1.4.1. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 60 BLHS 1999, việc tổng hợp hình phạt của người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách được quy định như sau: “Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật này”. Như vậy, so với quy định tại khoản 5 Điều 44 BLHS 1985 thì BLHS 1999 có phần hà khắc hơn. Bởi lẽ, với BLHS 1999 thì người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách dù là phạm tội do lỗi cố ý hay vô ý, bị phạt tù hay không bị phạt tù thì họ vẫn buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án này. Còn đối với BLHS 1985 và hướng dẫn tại Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18-10-1990 thì người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách mà do lỗi vô ý và không bị phạt tù thì họ không phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước. Sự thay đổi này là hoàn toàn hợp lí và có cơ sở. Bởi lẽ, việc thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo cho thấy khả năng để ngoài xã hội để tự cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội của người được hưởng án treo là rất khó. Hành vi phạm tội dù với lỗi vô ý hay cố ý cũng thể hiện thái độ của người phạm tội với việc thực hiện tội phạm. Vấn đề đặt ra ở đây là Toà án có áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội mới trong thời gian thử thách hay không và việc tổng hợp nó như thế nào.

– Nếu tội mới mà người được hưởng án treo thực hiện bị Toà án tuyên hình phạt tù có thời hạn thì bị cáo buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước và tổng hợp với hình phạt tù của bản án mới. Ví dụ: Nguyễn Văn A đã bị Toà án phạt 30 tháng tù về tội cố ý gây thương tích nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 4 năm. Trong thời gian thử thách, A lại phạm tội cố ý làm trái các quy định về an toàn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng, Toà án phạt A 1năm tù. Toà án buộc A phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước và tổng hợp hình phạt của hai bản án buộc A phải chấp hành hình phạt chung là 3 năm 6 tháng tù.

Khi tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm tội mới trong thời gian thử thách, có một số thẩm phán nhầm lẫn khi tổng hợp thời gian thử thách còn lại của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của tội mới thành hình phạt chung. Tuy nhiên, trường hợp bị cáo đã bị tạm giam thì việc trừ thời gian tạm giam về tội cũ cũng như trừ thời gian tạm giam về tội mới thì do trước đây vẫn áp dụng nghị quyết 01/HĐTP ngày 18-10-1990 nên còn tồn tại một số bất cập đó là:

+ Người phạm tội chỉ được khấu trừ thời hạn tạm giam nếu họ phạm tội mới. Nếu thời hạn tạm giam bằng hoặc dài hơn mức phạt tù thì việc Toà án tuyên án treo cho họ lại làm xấu đi tình trạng của họ.

+ Việc tồn tại song song Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18-10-1990 và khoản 2 điều 51 BLHS 1999 lại nảy sinh mâu thuẫn. Theo nghị quyết thì “thời hạn tạm giam về tội cũ và thời hạn tạm giam về tội mới được khấu trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù”; còn theo khoản 2 Điều 51 thì “khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, Toà án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 50 của Bộ luật này”. Việc tổng hợp này nếu là hình phạt chung là dưới 30 năm thì kết quả không có gì khác nhau nhưng nếu hình phạt chung lớn hơn hoặc bằng 30 thì kết quả lại có sự khác biệt rất lớn. Ví dụ: A phạm tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. A bị tạm giam 2 tháng. Toà án xử A 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Trong thời gian thử thách, A lại phạm tội cố ý giết người và cướp tài sản. A bị Toà án xử 20 năm về tội cố ý giết người, 15năm về tội cướp tài sản (A bị tạm giam 4 tháng). Hình phạt chung là 30 năm.

Theo cách tổng hợp hình phạt của Nghị quyết trên thì A bị buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước là 30 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt tù của bản án mới là 30 năm tù, trừ đi thời hạn tạm giam của 2 bản án là 6 tháng. Hình phạt chung A phải chấp hành là 29 năm 6 tháng.

Theo cách tổng hợp hình phạt của BLHS 1999 thì A bị buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước là 30 tháng tù. Trừ đi 2 tháng tạm giam. Hình phạt còn lại phải chấp hành của bản án cũ là 28 tháng tù. Hình phạt tù của bản án mới là 30 năm tù. Tổng hợp hình phạt chung của hai bản án A phải chấp hành là 30 năm tù. Trừ đi thời hạn tạm giam là 4 tháng Hình phạt còn lại A phải chấp hành là 29 năm 8 tháng.

Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2-10-2007 có hướng dẫn về án treo đã thống nhất cách tổng hợp hình phạt trong trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách. Theo đó, sau khi tuyên án tù cho tội mới, Toà án sẽ tổng hợp với hình phạt tù còn lại của bản án trước (thời gian tạm giam của bản án trước được trừ vào hình phạt của bản án trước). Sau đó, lấy hình phạt tổng hợp trừ đi thời gian tạm giam của tội mới thành hình phạt còn lại buộc bị cáo phải chấp hành.

– Nếu tội mới bị Toà án tuyên phạt cải tạo không giam giữ thì Toà án phải buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước và phải đổi hình phạt mới từ cải tạo không giam giữ thành tù có thời hạn để tổng hợp hình phạt chung theo nguyên tắc cứ 3 ngày cải tạo không giam giữ bằng 1 ngày tù. Ví dụ: Lê Văn B phạm tội buôn lậu, bị Toà án xét xử 2 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 4 năm. Trong thời gian thử thách B lại phạm tội chiếm giữ trái phép tài sản. Toà án sơ thẩm phạt B 3 năm cải tạo không giam giữ. Toà án buộc B phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước là 2 năm. Đổi hình phạt cải tạo không giam giữ 3 năm thành 1 năm phạt tù. Tổng hợp hình phạt của 2 bản án B phải chấp hành hình phạt chung là 3 năm tù.

– Nếu tội mới bị Toà án tuyên không phải là cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn:

+ Nếu hình phạt của bản án mới là phạt tiền hoặc trục xuất thì theo Điều 51 BLHS hiện hành và hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2-10-2007 Toà án buộc người được hưởng án treo phạm tội trong thời gian thử thách phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước đồng thời không tổng hợp hình phạt tù với phạt tiền hoặc trục xuất mà buộc người bị kết án phải chấp hành đồng thời hai bản án, hình phạt tù của bản án trước và hình phạt của bản án mới.

+ Nếu tội mới là tù chung thân hoặc tử hình thì theo Điều 50 BLHS 1999 việc tổng hợp hình phạt được tiến hành theo nguyên tắc thu hút. Tức là, nếu hình phạt của tội mới là tù chung thì hình phạt chung của 2 bản án là tù chung thân, nếu hình phạt của tội mới là tử hình thì hình phạt chung của 2 bản án là tử hình.

1.4.2. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp người được hưởng án treo đang trong thời gian thử thách lại bị đưa ra xét xử về một tội đã thực hiện trước khi có bản án treo.

Việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp này thì ngay cả trong BLHS 1985 và BLHS hiện hành đều không đề cập tới. Cho tới nay vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về trường hợp này, do vậy, có rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề này. Nhưng thực tiễn xét xử hiện nay vẫn áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18-10-1990 là hoàn toàn đúng đắn. Cụ thể, theo hướng dẫn tại Nghị quyết này thì người đang trong thời gian thử thách của án treo, họ bị phạt tù về tội đã thực hiện trước khi bị phạt tù và cho hưởng án treo thì tuỳ từng trường hợp, Toà án có thể cho hoặc không cho hưởng án treo một lần nữa.

+ Nếu Toà án không cho hưởng án treo một lần nữa và người bị kết án chấp hành hình phạt tù trong thời gian thử thách của án treo thì thời gian chấp hành hình phạt tù được tính vào thời gian thử thách của án treo; Ví dụ: A bị phạt 2 năm tù về tội trộm cắp tài sản nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 4 năm. Đang trong thời gian thử thách, A bị Toà án đưa ra xét xử về tội cướp giật tài sản. A bị tuyên phạt 3 năm tù. Trong trường hợp này, A sẽ vừa phải chấp hành đồng thời hình phạt tù của bản án sau, vừa phải chấp hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo của bản án trước. Và thời gian phạt tù được tính và thời gian thử thách của án treo.

+ Nếu cho người bị kết án được hưởng án treo một lần nữa, thì Toà án tổng hợp hình phạt tù của hai bản án và ấn định thời gian thử thách chung cho cả hai bản án. Trong trường hợp này cần chú ý, hình phạt chung của hai bản án không vượt quá 5 năm tù thì mới được cho hưởng án treo và thời gian thử thách chung không được dưới 1 năm, không được quá 5 năm và không được ít hơn mức phạt tù chung. Ví dụ: A bị Toà án xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo vì tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý. Đang trong thời gian thử thách của án treo, A lại bị đưa ra xét xử về tội buôn lậu. Toà án xử phạt A 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Tổng hợp hình phạt chung của 2 bản án đối với A là 36 tháng tù. Thời gian thử thách chung cho cả hai bản án là 5 năm.

Việc tổng hợp hình phạt đối với người được hưởng án treo đang trong thời gian thử thách lại bị đưa ra xét xử về một tội đã thực hiện trước khi có bản án phạt tù nhưng cho hưởng án treo, mà hình phạt của bản án mới là phạt tiền, trục xuất, tù chung thân, tử hình thì cách tổng hợp vẫn được áp như trong trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách. Nếu hình phạt của bản án mới là cải tạo không giam giữ thì thời gian thử thách của án treo được tính vào thời gian cải tạo không giam giữ.

Trên đây là cách tổng hợp hình phạt đối với người được hưởng án treo. Qua nghiên cứu thực tiễn cũng như trong BLHS thì theo chúng tôi, việc tổng hợp hình phạt đối với người được hưởng án treo, áp dụng theo Nghị quyết 01/ HĐTP ngày 18-10-1990 cho đến nay vẫn phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, thời gian tới, chúng ta cần phải quy định nó cụ thể hơn, đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn và nên thể chế hoá vào trong BLHS hiện hành.

1.5. Điều kiện thử thách của án treo.

Án treo không phải là một loại hình phạt mà là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Chính vì vậy, án treo chỉ có thể phát huy được vai trò của nó khi người được hưởng án treo tuân thủ đầy đủ các điều kiện trong thời gian thử thách của án treo.

Qua từng thời kì, từng giai đoạn khác nhau trong lịch sử phát triển của chế định án treo thì điều kiện thử thách cũng có những thay đổi khác nhau.

* Trước đây, điều kiện thử thách của án treo được quy định tại Điều 10 Sắc lệnh số 21/SL ngày 14-2-1946: “Nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị Toà án quân sự làm tội một lần nữa về một việc mới thì bản án đã tuyên sẽ huỷ đi, coi như không có”. Như vậy, theo quy định của Sắc lệnh thì nếu trong thời gian thử thách là 5 năm mà người được hưởng án treo không bị Toà án quân sự tuyên án về bất cứ tội mới nào thì người được hưởng án treo đó sẽ được miễn việc chấp hành hình phạt tù và coi như chưa có tiền án.

* Ngày 1-12-1961 TANDTC ra thông thư số 2308/ NCPL có một số thay đổi về điều kiện thử thách của án treo: “Nếu hết thời gian thử thách mà người bị phạt án treo không phạm tội gì mới thì sẽ coi như không có tiền án… Nếu phạm tội mới không cùng tính chất và nhẹ hơn tội cũ thì hết thời gian thử thách, bản án treo cũ cũng vĩnh viễn không phải chấp hành nữa”. Có nghĩa là, nếu trong thời gian thử thách người được hưởng án treo không phạm tội mới thì sẽ đương nhiên được miễn chấp hành hình phạt tù và “coi như không có tiền án”. Và nếu họ không phạm tội mới có cùng tính chất và nặng hơn tội cũ thì họ cũng vĩnh viễn không phải chấp hành hình phạt tù của bản án treo cũ.

Như vậy, quy định như Thông tư số 2308/ NCPL là chưa hợp lí. Bởi vì, nếu trong thời gian thử thách của án treo mà người được hưởng án treo lại phạm một tội mới, cho dù là tội đó không cùng tính chất và nhẹ hơn tội cũ thì cũng cho thấy khả năng tự giáo dục và cải tạo của họ trong môi trường xã hội bình thường là không có hiệu quả, không phát huy được vai trò cũng như tính tích cực của án treo.

* BLHS 1985 được ban hành có quy định điều kiện thử thách của án treo tại khoản 5 Điều 44 BLHS: “Nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội  mới và bị xử phạt tù thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42”.

Việc quy định như trên chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao tác dụng giáo dục và phòng ngừa của án treo nên ngày 28-12-1989 Quốc hội đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS trong đó đã sửa đổi khoản 5 Điều 44 như sau: “ Nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý thì Toà án bắt buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước”. Theo đó, quy định như vậy có phần nghiêm khắc hơn so với khoản 5 Điều 44 BLHS 1985 chưa sửa đổi, bổ sung. Nhưng xét yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm thì quy định điều kiện thử thách của án treo như vậy chưa thật sự đầy đủ.

* Trên cơ sở kế thừa và phát huy những nguyên tắc, chế định pháp luật hình sự của nước ta, nhất là BLHS 1985 cũng như những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đã đạt được, BLHS 1999 đã ra đời. Trong BLHS 1999, điều kiện thử thách của án treo được quy định tại khoản 5 Điều 60 với sửa đổi như sau: “Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật này”. Nghĩa là, trong thời gian thử thách của án treo, nếu người được hưởng án treo phạm tội mới, không phân biệt do cố ý hay vô ý, bị phạt tù hay không bị phạt tù thì Toà án vẫn quyết định buộc họ phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước. Có thể thấy rằng, điều kiện thử thách của án treo được quy định tại BLHS 1999 nghiêm khắc hơn so với quy định tại BLHS 1985, giống với tinh thần của Điều 10 Sắc lệnh số 21/ NCPL ngày 14-2-1946 trước đây.

Theo tác giả, quy định như vậy là hợp lí, thể hiện được tính công minh của pháp luật, đề cao được tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung của án treo.


Chương II. Một số bất cập và hạn chế của chế định án treo và thực tiễn áp dụng án treo tại Nghệ An

 

2.1. Thực tiễn áp dụng án treo hiện nay.

Trong những năm vừa qua, tình hình áp dụng án treo có chiều hướng giảm dần cả về số lượng các bị cáo lẫn tỉ lệ áp dụng trên tổng số các bị cáo bị đưa ra xét xử. Chúng ta có thể nhận thấy điều này thông qua các số liệu sau:

* Theo số liệu thống kê của ngành Tòa án từ năm 2008 đến năm 2010 thì số bị cáo đã đưa ra xét xử và trong đó số bị cáo được hưởng án treo như sau:

TT Các tiêu chí Năm
2008 2009 2010
1 Tổng số bị cáo đã xét xử 98741 102577 86954
2 Trong đó, phạt tù cho hưởng án treo 27360 26843 20202
3 Tỷ lệ phần trăm của số bị cáo phạt tù cho hưởng án treo trên tổng số bị cáo đã xét xử 27.65% 26.17% 23.23%

Bảng 1: Thống kê của ngành Tòa án về số bị cáo đã đưa ra xét xử

 và số bị cáo được hưởng án treo từ năm 2008 đến năm 2010

Ta có thể biểu thị sự gia tăng này thông qua biểu đồ sau:

Bảng 2: Biểu đồ biểu thị tỷ lệ án treo

so với tổng số bị cáo đã xét xử trong cả nước

Nhìn vào số liệu thống kê cũng như biểu đồ biểu thị tỷ lệ bị cáo được hưởng án treo so với tổng số bị cáo đã xét xử trong cả nước có thể thấy rằng:

So với tổng số bị cáo đã xét xử trong mỗi năm, số lượng các bị cáo bị phạt tuf nhưng cho hưởng án treo đang có chiều hướng giảm dần, cụ thể như:

+ Năm 2008, số bị cáo đưa ra xét xử là 98.741, số lượng bị cáo bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo là 27.360, (chiếm 27.65% tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử).

+ Năm 2009, số bị cáo đưa ra xét xử là 102.577, số lượng bị cáo bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo là 26.843 bị cáo, (chiếm 26.17% tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử), trong đó: so với năm 2008, số bị cáo bị đưa ra xét xử tăng 3.836 bị cáo, nhưng số bị cáo được hưởng án treo lại giảm 517 bị cáo.

+ Năm 2010, số bị cáo đưa ra xét xử là 86.954 bị cáo, số lượng bị cáo bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo là 20.202 (chiếm chỉ còn 23.23% tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử), trong đó: so với năm 2009, số bị cáo đưa ra xét xử giảm 15.623 bị cáo, số bị cáo được hưởng án treo giảm 6.641 bị cáo. Một con số thấp hơn hẳn so với những năm về trước.

Số liệu trên cho ta thấy thực trạng áp dụng án treo ở nước ta trong những năm trở lại đây có chiều hướng ngày một giảm so với tổng số bị cáo được đưa ra xét xử, điều này chứng tỏ tính chất nguy hiểm của tội phạm ngày một nghiêm trọng hơn. So với những năm liền kề trở về trước, tỉ lệ áp dụng án treo đi theo chiều ngược lại. Cụ thể:

* Theo số liệu thống kê của ngành Tòa án từ năm 2004 đến năm 2007 thì số bị cáo đã đưa ra xét xử và trong đó số bị cáo được hưởng án treo như sau:

TT Các tiêu chí Năm
2004 2005 2006 2007
1 Tổng số bị cáo đã xét xử 75.453 79.318 91.379 92.954
2 Trong đó, phạt tù cho hưởng án treo 17.364 19.402 23.188 24.438
3 Tỷ lệ phần trăm của số bị cáo phạt tù cho hưởng án treo trên tổng số bị cáo đã xét xử 23.01% 24.46% 25.38% 26.29%

Bảng 3: Thống kê của ngành Tòa án về số bị cáo đã đưa ra xét xử

 và số bị cáo được hưởng án treo từ năm 2004 đến năm 2007

Từ thực tế nêu trên, đặt ra cho chúng ta một câu hỏi là: tại sao những năm trở lại đây tỉ lệ áp dụng án treo lại giảm đi như vậy? Liệu có phải việc áp dụng án treo là chưa hiệu quả, chưa cho thấy được tác dụng giáo dục, cải tạo người phạm tội, chưa được sự ủng hộ đồng tình của dư luận xã hội nên việc áp dụng biện pháp này có phần hạn chế hơn? Hay tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp và mang tính chất nghiêm trọng hơn nên số lượng tội phạm được hưởng án treo ngày càng hạn chế? Đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi trên cần sự phối hợp của các ngành chức năng có liên quan, đặc biệt là công tác thống kê tội phạm và khoa học xét xử. Việc áp dụng án treo phù hợp hay không có ý nghĩa rất quan trọng. Theo tác giả, việc áp dụng án treo phù hợp và đúng pháp luật, một mặt sẽ khuyến khích người phạm tội thấy được sự khoan hồng của Nhà nước mà tích cực tự cải tạo mình, giúp Nhà nước tiết kiệm được một khoản kinh phí đáng kể trong việc cải tạo, giáo dục người phạm tội so với việc cải tạo, giáo dục họ trong trại giam. Mặt khác, việc áp dụng án treo không phù hợp có khi cũng đem lại tác động xấu đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, không đạt được mục đích và ý nghĩa của hình phạt.

2.2. Thực tiễn áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

Nếu tính theo khu vực, số bị cáo được hưởng án treo ở khu vực miền Trung có phần ít hơn. Trong khi đó tại các Toà án ở khu vực miền Nam và miền Bắc thì số lượng bị cáo bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo lại chiếm số lượng lớn hơn. Khảo sát về việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong các năm từ năm 2008 đến năm 2010 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, theo số liệu thống kê về tổng số bị cáo được đưa ra xét xử; số bị cáo có hình phạt chính là từ 3 năm tù trở xuống, trong đó có số bị cáo bị phạt tù cho hưởng án treo như sau:

 

 

 

 

TT Các tiêu chí Năm
2008 2009 2010
1 Tổng số bị cáo đã xét xử 3.442 3.683 3.261
2 Số bị cáo có hình phạt tù từ 3 năm trở xuống 2.346 2.601 2.353
3 Trong đó, phạt tù cho hưởng án treo 826 967 698
4 Tỷ lệ phần trăm của số bị cáo phạt tù cho hưởng án treo trên tổng số bị cáo có hình phạt tù từ 3 năm trở xuống 35.2% 37.18% 29.6%
5 Tỷ lệ phần trăm của số bị cáo phạt tù cho hưởng án treo trên tổng số bị cáo đã xét xử 23.99% 26.26% 21.40%

Bảng 4: Thống kê của ngành Tòa án về số bị cáo

 đã đưa ra xét xử, số bị cáo có hình phạt tù từ 3 năm trở

xuống và số bị cáo được hưởng án treo từ năm 2008 đến năm 2010.

 

Từ bảng số liệu trên có thể biểu thị sự gia tăng này thông qua biểu đồ sau:

 

Bảng 5: Biểu đồ so sánh số bị cáo được hưởng án treo

so với số bị cáo có hình phạt tù từ 3 năm trở xuống và tổng số

 bị cáo đã xét xử tại tỉnh Nghệ An trong ba năm 2008, 2009, 2010

 

Qua số liệu trên cho thấy, số lượng các bị cáo được hưởng án treo ở Nghệ An chiếm tỉ lệ thấp hơn khá nhiều so với tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử. Và nếu so với tỉ lệ trên cả nước, thì Nghệ An cũng được xem là một trong những tỉnh có tỉ lệ áp dụng án treo khá thấp.

Theo báo cáo thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án sơ thẩm từ năm 2008 đến năm 2010 của Tòa hình sự TAND tỉnh Nghệ An cho thấy trong những năm gần đây nhóm tội được tòa xử cho hưởng án treo nhiều là nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu như trộm cắp tài sản, cướp, cướp giật tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau đây là một ví dụ điển hình về nhóm tội này theo bản án số 491/2010/HSST ngày 17/11/2010 của Tòa án nhân dân Thành phố Vinh về tội “Cướp giật tài sản”:

Khoảng 19h ngày 03/06/2010 Nguyễn Văn Đông rủ Nguyễn Văn Oanh đi cướp giật tài sản, Oanh đồng ý. Đông mượn xe môtô biển kiểm soát 37Z4 – 3913 của anh Nguyễn Văn Yên, Oanh điều khiển còn Đông ngồi phía sau. Khi đến đường Trường Chinh, thành phố Vinh, Đông và Oanh quan sát thấy anh Đảng Văn Dũng đi xe môtô chở bà Trần Thị Nguyệt đi cùng chiều, bà Nguyệt cầm túi xách, Oanh cho xe áp sát bà Nguyệt còn Đông giật túi xách của bà Nguyệt, cướp xong Oanh tăng ga bỏ chạy, anh Dũng, bà Nguyệt hô cướp và đuổi theo. Trên đường chạy trốn Đông mở túi xách cướp được vứt lại 1.500.000 đồng mục đích để anh Dũng dừng xe lại nhặt tạo cơ sở cho chúng chạy thoát. Khi xe mô tô của Oanh và Đông chạy đến cổng bến chợ Vinh thì bị anh Dũng đuổi bắt được Đông cùng tang vật vụ án, còn Oanh phóng xe chạy thoát. Đến ngày 6/6/2010 Nguyễn Văn Oanh đến Công an thành phố Vinh đầu thú về hành vi phạm tội của mình.

Tài sản các bị cáo chiếm đoạt của bà Trần Thị Nguyệt gồm 6.266.000 đồng, 02 điện thoại di động trị giá 1.800.000 đồng, tổng cộng 8.066.000 đồng. Số tiền 1.500.000 đồng không thu hồi được nay hai gia đình Đông và Oanh đã đền bù cho bà Nguyệt. Người bị hại không yêu cầu gì thêm.

Xét thấy hành vi của các bị cáo là nguy hiểm, sử dụng phương tiện xe mô tô cướp giật tài sản.

Với nội dung trên, sau khi đánh giá, xem xét toàn diện vụ án, Tòa án nhân dân Thành phố Vinh áp dụng điểm d khoản 2 điều 136, điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46 BLHS xử phạt Nguyễn Văn Đông 39 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời hạn tạm giữ.

Đối với bị cáo Nguyễn Văn Oanh, xét tính chất vụ án, bị cáo tham gia với vai trò thứ yếu, bị Đông rủ rê. Nhân thân bị cáo từ trước tới nay chưa có gì sai phạm. Vì vậy áp dụng điểm d khoản 2 điều 136, điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46, điều 60 BLHS xử phạt Nguyễn Văn Oanh 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 24/3/2011. Giao bị cáo Nguyễn Văn Oanh cho Uỷ ban nhân dân xã Hưng Yên, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An quản lý giáo dục trong thời gian thử thách của án treo, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc theo dõi giáo dục bị cáo.

Loại tội xâm phạm trật tự an toàn xã hội như đánh bạc, chống người thi hành công vụ, gây rối trật tự nơi công cộng, cố ý gây thương tích hay tội về vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ cũng là những tội mà chiếm tỉ lệ cho hưởng án treo cao trong các vụ án đã xét xử. Điển hình về loại tội này có các vụ án:

Theo bản án số 48/2010HSST ngày 25/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, vụ án có nội dung tóm tắt như sau: Khoảng 17 giờ 30 ngày 01.05.2010 Phan Văn Ngọc điều khiển xe công nông, loại xe tự lắp ráp không được kiểm định đăng ký lưu hành theo quy định pháp luật lưu thông trên tuyến đường giao thông chuyên dùng từ dốc Bốm thuộc vùng kinh tế mới xã Tiến Thành hướng về đường 22 xóm Tây Mã, xã Tiến Thành, huyện Yên Thành, trên xe chở 45 khúc gỗ( đường kính trung bình 15cm, dài 3m). Phan Văn Ngọc đã cho anh Hà Danh Diên ngồi bên phải tay lái xe. Khi xe xuống dốc Bốm được 50m thì Ngọc để xe lao sang bên phải đường theo hướng chuyển động và xe lật nghiêng sang mép đường bên phải làm anh Diên rơi xuống đất, số gỗ trên xe đổ xuống và đè lên người anh Diên làm anh Diên chết tại chỗ. Sau tai nạn bị cáo Ngọc cùng gia đình nạn nhân cấp cứu cho anh Diên nhưng anh Diên đã chết.

Sau khi xảy ra tai nạn bị cáo đã chi phí mai táng và trợ cấp cho gia đình bị hại 8.000.000đ. Gia đình bị hại yêu cầu bãi nại cho bị cáo và không yêu cầu thêm nội dung về phần dân sự.

Tại phiên toà bị cáo Phan Văn Ngọc khai nhận toàn bộ hành vi phạm  tội của mình. Xét vụ án thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, thuộc phạm vi truy tố tại khoản 2 điều 202 BLHS. Hành vi đó đã xâm phạm nghiêm trọng tình hình an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại về tính mạng và tài sản cho công dân. Tuy nhiên xét tổng thể vụ án thấy rằng: Sau khi phạm tội, bị cáo thật thà khai báo tỏ ra rất hối hận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tộ của mình, mặc dù hoàn cảnh gia đình rất khó khăn nhưng cũng đã lo mai táng chu đáo cho nạn nhân, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra. Đại diện hợp pháp cho bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo. Bị cáo có nhân thân tốt, mặt khác hậu quả vụ án phần nào có một phần lỗi của nạn nhân, đó là việc chủ phương tiện không đồng ý cho đi nhưng vẫn cố tình nhảy lên xe đi cùng.

Với nội dung trên, sau khi đánh giá xem xét toàn diện vụ án – Toà án nhân dân huyện Yên Thành đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Phan Văn Ngọc phạm tội “Vi phạm  quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ’’. áp dụng khoản 2 điều 202. điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điều 47 BLHS. Xử phạt: Phan Văn Ngọc 30 tháng tù cho bị cáo hưởng án treo tính  từ ngày bị bắt thi hành án.

Một vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ khác được tóm tắt từ bản án hình sự sơ thẩm số 49/2010/HSST ngày 29/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An: Bị cáo Phạm Văn Long không có giấy phép lái xe, điều khiển xe mô tô trên 100cm3. Hồi 21 giờ 45 phút ngày 21/6/2010 gây tai nạn tại km 660 + 700 trên đường mòn Hồ Chí Minh, khu vực dốc Hòn Mát, địa phận xóm Sơn Hải xã Nghiã Lộc, huyện Nghĩa Đàn, làm chị Tân 24 tuổi bị thương nặng, đã được cứu chữa nhưng do thương tích nặng đã qua đời vào ngày 27/6/2010. Hành vi của bị cáo Phạm Văn Long đã vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Tuy nhiên sau khi gây tai nạn chị Tân bị thương, Phạm Văn Long đã có trách nhiệm đưa chị Tân đi cứu chữa kịp thời, có trách nhiệm chăm sóc ngươì bị hại trong thời gian điều trị. Khi chị Tân qua đời lo liệu mai táng, khắc phục hậu quả chu đáo, đến đến cơ quan điều tra đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của mình đầy đủ. Giữa bị cáo với chị Tân là con của hai gia đình thông gia, có mối quan hệ tình cảm tốt đẹp. Ông Phạm Mạnh Thắng bố của chị Tân đã có đề nghị pháp luật khoan hồng cho anh Phạm Văn Long. Xem xét toàn bộ vụ án thấy bị cáo phạm tội được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, theo điểm b, p khoản 1, khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự. Nhân thân của bị cáo chưa có gì xấu, hiện có nơi cư trú rõ ràng, có nghề nghiệp lao động ổn định. Có căn cứ để cho bị cáo chấp hành hình phạt tù nhưng cho bị cáo Phạm Văn long được hưởng án treo.

Áp dụng điểm a khoản 2 điều 202 điểm b, p khoản 1 khoản 2 điều 46 điều 47 điều 60 bộ luật hình sự . Xử phạt bị cáo Phạm Văn Long 24 tháng tù về tội “vi phạm quy định về nđiều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Cho hưởng án treo thử thách 48 tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm . Giao bị cáo phạm Văn Long cho Uỷ ban nhân dân xã Nghĩa Lộc, Huyện Nghĩa Đàn, Tỉnh Nghệ An giám sát và giáo dục trong thời hạn thử thách. Gia đình có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục đối với Phạm Văn Long trong thời hạn thử thách.

Tuy nhiên bên cạnh đó, tình trạng áp dụng án treo cũng có những trường hợp chưa đúng pháp luật, chưa phù hợp với mức độ, tính chất nguy hiểm của tội phạm, chính vì vậy mà còn có những vụ án xét xử bị cáo phạt tù nhưng cho hưởng án treo đã bị Tòa án cấp trên kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo. Đa phần là những kháng nghị, kháng cáo theo chiều hướng chuyển sang phạt tù.

* Theo báo cáo tham luận của Tòa hình sự TAND tỉnh Nghệ An năm 2008 có đề cập đến việc áp dụng án treo không đúng pháp luật. Thực tế cho thấy, những trường hợp áp dụng án treo không đúng pháp luật như hiện nay xuất phát từ nguyên nhân là trong quá trình xét xử Hội đồng xét xử đã không xem xét kĩ về nhân thân người phạm tội cũng như những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên đã ra quyết định bản án không đúng. Ví dụ như vụ án Nguyễn Văn Thân và Nguyễn Hải Nam đều bị kết án tử hình về tội “giết người” đã bỏ trốn khỏi nơi giam, rồi đến nhà Nguyễn Hoàng Hà để xin tiền và nhờ Hà chở Nam, Thân đi trốn. Hà đã chở Nam và Thân đến trốn tại nhà Lê Thị Tuyết ở xã Diễn Trường, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; Hà còn cho Nam 200.000 đồng. Nguyễn Văn Thân và Nguyễn Hải Nam đã trốn ở nhiều nơi. Sau đó, cả hai đều bị bắt lại.

Tòa án cấp sơ thẩm phạt Nguyễn Hoàng Hà 9 tháng tù về tội “che giấu tội phạm”; Hà kháng cáo xin giảm hình phạt; Tòa án cấp phúc thẩm cho Hà hưởng án treo với thời gian thử thách là 2 năm.

Theo báo cáo tham luận thì: Tòa án cấp phúc thẩm cho bị cáo hưởng án treo là không đúng pháp luật; Bởi lẽ, Nguyễn Hoàng Hà biết rõ Nguyễn Văn Thân, Nguyễn Hải Nam là các tên tội phạm đặc biệt nguy hiểm bỏ trốn khỏi nơi giam, nhưng vẫn có hành vi giúp cho các tên này trốn tránh sự truy bắt của các cơ quan chức năng. Về nhân thân, bị cáo đã một lần bị kết án về tội “cướp tài sản của công dân”, một lần bị xử lí hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng; thái độ khai báo chưa thành khẩn.

Một ví dụ điển hình khác, vào khoảng 15 giờ ngày 01/7/2010 đến 16 giờ cùng ngày, công an huyện Quỳ Hợp đã phát hiện và bắt quả tang một nhóm đánh bạc gồm 24 đối tượng cùng với tang chứng, vật chứng của vụ án. Sau khi vụ án được điều tra làm rõ, Tòa hình sự sơ thẩm huyện Quỳ Hợp đã tuyên án về tội đánh bạc với mức hình phạt khác nhau tùy thuộc vào mức độ tham gia của các bị cáo. Một trong số đó Tòa tuyên án bị cáo Đào Xuân Đông 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là chưa hợp lý bởi xét thấy trong vụ án này bị cáo Đào Xuân Đông trước khi phạm tội lần này đã 2 lần bị kết án. Năm 1988 Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 15 tháng tù về tội cướp tài sản. Ngày 25/10/2004 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao xử phạt 9 tháng tù về tội đánh bạc; 12 tháng tù về tội gá bạc. Tổng hợp hình phạt 2 tội buộc bị cáo phải chấp hành án 21 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án; tính trừ 1 tháng 18 ngày cho bị cáo đã bị giam giữ trong giai đoạn điều tra. Nhưng cấp sơ thẩm điều tra, truy tố, xét xử không điều tra xác định bị cáo Đào Xuân Đông có hai lần phạm tội và trước khi phạm tội lần này đã được xóa án tích hay chưa; Lý lịch tư pháp của bị cáo; Kết luận điều tra vụ án; Bản cáo trạng truy tố bị cáo trong vụ án đều không phản ánh Đào Xuân Đông đã phạm tội. Như vậy việc xem xét đánh giá nhân thân, hay tiền án đối với bị cáo Đào Xuân Đông cấp sơ thẩm không đề cập là thiếu sót nghiêm trọng. Bản án sơ thẩm sử phạt Đào Xuân Thông 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là chưa tương xứng với tội phạm của bị cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An kháng nghị phần quyết định của bản án sơ thẩm số 84/2010/HSST ngày 30/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp đã xử phạt đối với Đào Xuân Đông về tội “ Đánh bạc”. Đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân Tỉnh Nghệ An xét xử theo trình tự giám đốc thẩm hủy phần quyết định của bản án sơ thẩm đã xét xử đối với Đào Xuân Đông.

Theo dõi những bị cáo sau khi được giao cho chính quyền địa phương và gia đình giám sát và giáo dục trong thời hạn thử thách có thể thấy được những hiệu quả nhất định. Chúng ta biết mục đích của việc thi hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với người phạm tội là: Tạo điều kiện cho người được hưởng án treo làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người được hưởng án treo làm việc, công tác, học tập hoặc cư trú và gia đình của người đó. Người được hưởng án treo phải chịu thử thách dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục và gia đình.

Khi người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ, thì được Toà án xét rút ngắn thời gian thử thách theo quy định tại khoản 4 Điều 60 của Bộ Luật Hình sự.

Như vậy, có thể thấy rằng chế định án treo có nhiều điểm tích cực và trên thực tế việc áp dụng chế định này đã mang lại những hiệu quả nhất định. Cụ thể:

– Án treo khi áp dụng đã có tác dụng khuyến khích người bị kết án cùng với sự giúp đỡ tích cực của xã hội để tự giác giáo dục, cải tạo để trở thành người lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, đồng thời cảnh cáo họ là nếu trong thời gian thử thách mà phạm tội mới thì họ sẽ bị Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt tù đã được hưởng án treo của bản án trước. Qua đó xã hội cũng thấy được trách nhiệm trợ giúp người phạm tội trong quá trình tự cải tạo, coi đó là nghĩa vụ đặc biệt của mỗi thành viên, còn tòa án thì có điều kiện kiểm tra sự đúng đắn trong việc áp dụng án treo trên cơ sở phân tích, đánh giá những thông tin cần thiết từ hai chiều (phía cơ quan hoặc tổ chức xã hội và phía người phạm tội).

– Việc cho người phạm tội được hưởng án treo cũng là có lợi ích cho họ, người phạm tội sẽ không bị cách li khỏi cộng đồng mà vẫn được hòa nhập với cuộc sống, được làm việc, học tập, sinh hoạt ngay trong môi trường xã hội bình thường, có thể tự cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội. Khi đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì người được hưởng án treo còn được rút ngắn thời gian thử thách. Như vậy, có thể nói chế định án treo là một trong những biểu hiện cụ thể của phương châm “trừng trị kết hợp với giáo dục” và tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Hơn nữa, việc áp dụng án treo còn tiết kiệm cho Nhà nước một khoản chi phí rất lớn cho việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, thu hút quần chúng nhân dân tham gia vào quá trình xã hội hóa việc cải tạo, giáo dục người phạm tội.

Trên thực tế cũng có không ít trường hợp đã thu được những kết quả tốt khi bị cáo được Toà cho hưởng án treo. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là áp dụng biện pháp án treo một cách phổ biến, tràn lan mà bắt buộc khi cho người bị kết án được hưởng án treo, Tòa án phải dựa trên những căn cứ cần và đủ theo luật định, bởi lẽ, chế định án treo trong Bộ luật Hình sự 1999 của ta còn chứa đựng một số điểm hạn chế.

2.3. Một số bất cập và hạn chế của chế định án treo.

Trước hết phải xét Chế định án treo trong Bộ luật hình sự hiện hành. Bên cạnh một số ưu điểm cũng chứa đựng những hạn chế nhất định của nó.

Theo khoản 1 điều 60 BLHS 1999 quy định một trong những điều kiện xét hưởng án treo là người phạm tội bị phạt tù không quá 3 năm, không phân biệt tội đó là tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Việc quy định như vậy là thiếu tính thực tế. Bởi lẽ, “trong BLHS 1999 quy định 347 cấu thành tội phạm với khung hình phạt có mức hình phạt tù thấp nhất là 3 tháng đến 2 năm, trong đó có 160 khung hình phạt là đến 3 năm tù, có 187 khung hình phạt có mức cao nhất của khung hình phạt đến 7 năm tù, chỉ có 4 khung hình phạt quy định mức hình phạt từ 2 năm đến 10 năm” (Phân loại tội phạm với việc quy định và áp dụng chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam_Trương Minh Hạnh, Tạp chí kiểm sát số 3/2002). Với cấu thành tội phạm có những khung hình phạt trên thì tương ứng với các loại tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. Và Toà án có thể áp dụng án treo đối với người phạm tội nếu xét thấy họ có đủ điều kiện luật định. Trong trường hợp cấu thành tội phạm có mức thấp nhất của khung hình phạt từ 3 năm trở lên thì việc Toà án xem xét cho người bị phạt tù cho hưởng án treo là không thể xảy ra. Trừ trường hợp, Toà án áp dụng quy định về việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS. Trên thực tế, trường hợp Toà án áp dụng án treo đối với những người này là rất ít, hầu như không có. Hơn nữa, việc áp dụng án treo đối với những người bị phạt tù vì các tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng sẽ làm cho sự bất bình đẳng giữa những người bị phạt tù trở lên trầm trọng hơn. Cụ thể, cũng là những người bị phạt tù, nhưng người này thì được miễn ngay việc chấp hành hình phạt, còn người khác thì thì phải chấp hành hình phạt. Ví dụ: một người chỉ bị phạt mấy tháng tù hoặc một năm tù thì phải ở tù, nhưng có người bị phạt hai, ba năm tù thì lại được hưởng án treo, miễn là trong thời gian thử thách họ không phạm tội mới. Điều này rất dễ dẫn đến suy nghĩ là luật pháp hình sự nước ta không nghiêm minh.

Hạn chế thứ hai khi áp dụng án treo đó là quy định về nhân thân người phạm tội. Việc quy định nhân thân tốt thì cho hưởng án treo, nhưng lại không quy định rõ nhân thân như thế nào thì được coi là nhân thân tốt. Liệu những yếu tố như ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền án, tiền sự thì đã đủ để khẳng định người đó có nhân thân tốt hay chưa? Chính việc quy định không chặt chẽ, rõ ràng như vậy dẫn đến tình trạng nhiều vụ án, tình tiết phạm tội, tình tiết giảm nhẹ tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo tương tự nhau nhưng có nơi thì Toà án áp dụng án treo có nơi Tòa án áp dụng hình phạt tù.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có quy định, nếu vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng nặng thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên. Có nghĩa là một người có nhiều tình tiết tăng nặng, nhưng chỉ cần đáp ứng là tình tiết giảm nhẹ nhiều hơn 2 tình tiết so với tình tiết tăng nặng và có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại điều 46 là đủ để Toà án có thể xem xét cho hưởng án treo. Quy định như vậy là bất hợp lí và không chặt chẽ. Bởi lẽ, một người đã có tình tiết tăng nặng đã cho thấy thái độ của họ trong việc thực hiện tội phạm và khả năng để họ tự cải tạo, tự giáo dục sẽ khó có thể đạt hiệu quả cao.

Quy định về điều kiện thử thách của án treo cũng chưa thật sự hợp lí. Người được hưởng án treo chỉ cần không phạm tội mới trong thời gian thử thách là đã đủ điều kiện để không bắt chấp hành hình phạt tù rồi. Nói là thử thách, nhưng trong thực tế thì hầu như chẳng thử thách gì, vì chỉ cần họ sống bình thường như những người lương thiện khác trong một thời gian nhất định là không phải chấp hành hình phạt tù mà họ được hưởng án treo. Khoản 4 điều 60 Bộ luật hình sự quy định việc rút ngắn thời gian thử thách cho người được hưởng án treo càng mở rộng thêm sự bất bình đẳng đó.

Người bị phạt tù mà được hưởng án treo là được hưởng sự khoan hồng đặc biệt đến mức vô lý, cho nên không tránh khỏi tình trạng những người phạm tội và thân nhân của họ chạy chọt, đưa hối lộ để được hưởng án treo và do đó khó tránh khỏi những việc làm tiêu cực trong vấn đề cho người bị kết án được hưởng án treo. Thực tế cũng cho thấy có nhiều trường hợp Tòa án cho hưởng án treo không đúng gây bất bình chính đáng trong nhân dân(Theo Nguyễn Khắc Công, Một số suy nghĩ về chế định án treo trong “Hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam”).

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do các quy định về án treo còn chưa cụ thể, rõ ràng; Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực xét xử còn hạn chế, thậm chí đạo đức nghề nghiệp của một số thẩm phán còn chưa cao…

Như vậy, nếu áp dụng không đúng và không chính xác trong việc cho người phạm tội được hưởng án treo sẽ gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt đó là: không phát huy được tính tích cực của án treo là khuyến khích, động viên người bị kết án tự cải tạo để trở thành người tốt, không thể hiện được tính công minh của pháp luật, không được nhân dân đồng tính ủng hộ và không đề cao được tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

2.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về án treo trong luật hình sự Việt Nam.

2.4.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về án treo.

Hiện nay, hệ thống các quy định của pháp luật về chế định án treo vẫn tồn tại nhiều bất cập. Để khắc phục được những hạn chế, tác giả xin đưa một vài kiến nghị như sau:

– Án treo chỉ áp dụng đối với những người phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng.

– Đối với người đã có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì không cho hưởng án treo.

– Điều kiện thử thách của án treo nên quy định một cách chặt chẽ hơn. Cụ thể, ngoài quy định điều kiện thử thách là không phạm tội mới trong thời gian thử thách thì còn bổ sung thêm một số quy định như:

+ Tuân thủ pháp luật, quy chế hành chính, không rời khỏi nơi cư trú, trừ trường hợp có lí do chính đáng. Nếu rời khỏi nơi cư trú thì phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền.

+ Đối với người được hưởng án treo mà trong thời gian thử thách lại vi phạm thường xuyên và có hệ thống các điều kiện (nghĩa vụ) quy định đối với họ, thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục người bị kết án Tòa án có thể quyết định kéo dài thời gian thử thách hoặc buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo.

+ Trong thời gian thử thách thì người phạm tội cũng phải thực hiện một số nghĩa vụ cho Nhà nước như: hàng tháng phải dành một ngày lao động công ích, đối với người đã có thu nhập thì sẽ bị khấu trừ thu nhập hàng tháng.

– Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách hoặc bị đưa ra xét xử về tội đã được thực hiện trước khi có bản án treo, thì vấn đề tổng hợp hình phạt được thực hiện như sau:

+ Trường hợp người được hưởng án treo mà lại phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Toà án sẽ quyết định buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đó và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định của Điều 51 của Bộ luật này.

+ Trường hợp người được hưởng án treo đang trong thời hạn thử thách bị đưa ra xét xử về tội đã được thực hiện trước khi có bản án treo này thì:

  • Nếu Tòa án tuyên hình phạt tù có thời hạn hoặc cải tạo không giam giữ đối với tội đang xét xử thì thời hạn chấp hành các hình phạt này được khấu trừ vào thời hạn thử thách còn lại của bản án treo.
  • Nếu Tòa án tuyên hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì người bị kết án chỉ phải chấp hành hình phạt tù chung thân hoặc tử hình.
  • Nếu Tòa án tuyên hình phạt tù cho hưởng án treo đối với tội đang xét xử thì người bị kết án phải chấp hành lần lượt các bản án cho hưởng án treo.
  • Nếu Tòa án tuyên hình phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền thì người bị kết án phải chấp hành đồng thời bản án này và bản án cho hưởng án treo.

2.4.2. Kiến nghị một số điểm về vận dụng án treo.

Thứ nhất, về việc xác định không có tiền án tiền sự, cần xác định trường hợp bị cáo có tiền án, đã được xóa án tích vẫn là căn cứ để đánh giá nhân thân bị cáo khi xem xét cho hưởng án treo. Ban Thanh tra đề xuất những trường hợp đã được xóa án tích đối với loại tội ít nghiêm trọng hoặc thời gian được xóa án tích đã lâu (có thể là năm năm trở lên) thì vẫn có thể xem xét cho bị cáo được hưởng án treo khi có đủ những điều kiện khác như đã hướng dẫn. Về tiền sự cũng tương tự.

Thứ hai, khi quyết định cho người bị kết án được hưởng án treo, Tòa án phải ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. Thời gian thử thách của án treo được tính từ ngày bản án tuyên cho hưởng án treo có hiệu lực pháp luật (nếu chỉ có một bản án) hoặc từ ngày bản án đầu tiên cho hưởng án treo có hiệu lực pháp luật (nếu có nhiều bản án và các bản án đó đều tuyên cho hưởng án treo). Việc ấn định thời gian thử thách nên thống nhất: Trường hợp bị tạm giữ một số ngày thì không cần thiết phải trừ đi trước khi ấn định thời gian thử thách. Còn trường hợp bị tạm giam thì thời gian đã tạm giam cũng nên làm tròn thành tháng (có lợi cho bị cáo) trước khi ấn định thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo phải chịu sự giám sát và giáo dục của cơ quan, tổ chức nơi làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi thường trú và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nhất định (có thể như quy định tại Điều 4 Nghị định số 61/2000/NĐ- CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ “Về việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo”).

Thứ ba, về việc xác định nơi làm việc, nơi thường trú của bị cáo, hiện có nhiều trường hợp người lao động có hộ khẩu ở địa phương khác về các đô thị thuê nhà trọ đi làm thuê cho các cơ sở tư nhân với hợp đồng ngắn hạn. Khi những người này phạm tội và bị kết án, nhiều trường hợp tòa cho hưởng án treo, giao họ cho UBND phường nơi họ ở trọ hay cơ sở nơi họ làm giám sát. Vì sau đó họ có thể bị đuổi việc hoặc đi nơi khác ở nên Ban Thanh tra đề xuất khi tòa cho hưởng án treo, giao họ cho UBND phường nơi họ ở hay cơ sở nơi họ làm việc thì bắt buộc phải có văn bản bảo lãnh của các nơi này.


C. KẾT LUẬN

Chế định án treo trong Luật Hình sự Việt Nam là một chế định quan trọng và có hiệu quả lớn trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm nếu áp dụng đúng nó. Trên thực tế, hiện nay chế định này còn nhiều vướng mắc về cả mặt lý luận, lập pháp và thực tiễn áp dụng. Về mặt lí luận, các nhà nghiên cứu pháp luật còn nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh vấn đề này. Có nhiều ý kiến cho rằng nên bãi bỏ chế định án treo nhưng theo tác giả việc duy trì chế định án treo là đúng đắn. Tuy nhiên, để phát huy được hiệu quả tối đa của nó chúng ta cần có những biện pháp cụ thể để khắc phục hạn chế, nâng cao tính tích cực. Về mặt lập pháp, các quy định về án treo trong Luật Hình sự Việt Nam còn chưa thống nhất. Chế định này được quy định tại Điều 60 BLHS 1999 và đã có rất nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, nhưng văn bản này lại có sự mâu thuẫn với văn bản kia, văn bản ban hành sau lại có sự chồng chéo với văn bản ban hành trước. Vì vậy, yêu cầu pháp điển hóa các quy định này là việc đáng được quan tâm. Chế định án treo nên được quy định lại cho rõ ràng, chặt chẽ hơn, cụ thể là nên tập hợp các quy định đã có về án treo thành một chương riêng trong BLHS. Tác giả hi vọng trong lần sửa đổi BLHS tiếp theo vấn đề này sẽ được xem xét.

Về thực tiễn áp dụng còn nhiều vấn đề vướng mắc cần giải quyết đó là các vấn đề về căn cứ xét hưởng án treo. Trước hết điều kiện về mức phạt tù để được hưởng án treo là không quá 3 năm tù không kể đó là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Đây là một vấn đề bất cập và thực tiễn áp dụng đã chứng minh. Theo tác giả đề tài chỉ nên áp dụng án treo đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Điều kiện về nhân thân của người phạm tội cũng chưa được quy định rõ ràng. Điều kiện về tình tiết giảm nhẹ TNHS còn bất hợp lí và chưa đáp ứng với yêu cầu trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Ngay cả điều kiện thử thách của án treo cũng quy định chưa được chặt chẽ. Do những hạn chế trên mà trong công tác xét xử Tòa án đã áp dụng án treo với tỷ lệ rất cao, nhưng liệu rằng nó đã đáp ứng được yêu cầu đấu tranh và phòng chống tội phạm hay chưa?.

Với vai trò, ý nghĩa to lớn của chế định án treo thì việc hoàn thiện nó là vấn đề cấp thiết. Trong đề tài nghiên cứu này tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp cơ bản để giải quyết vướng mắc còn gặp phải là: Chỉ nên áp dụng án treo đối với những tội phạm ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng; không cho hưởng án treo đối với người đã có tình tiết tăng nặng TNHS; quy định lại điều kiện thử thách của án treo v.v…Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng án treo cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng xét xử và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán.

Với đề tài nghiên cứu của mình, tác giả hi vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ nào đó trong việc nghiên cứu và áp dụng chế định án treo, đồng thời cũng mong rằng chế định án treo sẽ được hoàn thiện và đạt hiệu quả cao hơn trong thực tiễn, thể hiện được mục đích cũng như mặt tích cực của chế định này trong việc giáo dục riêng và phòng ngừa chung, góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh và phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay cũng như trong tương lai./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

Văn bản pháp luật:

  1. Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/2/1946 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà về tổ chức Toà án quân sự.
  2. Thông tư số 19/TATC của Toà án nhân dân tối cao ngày 2/10/1974 hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm.
  3. Nghị quyết số 01 – HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc áp dụng Điều 44 Bộ Luật Hình sự.
  4. Công Văn số 35/NCPL của Toà án nhân dân tối cao giải thích về án treo.
  5. Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000.
  6. Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo.
  7. Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 về việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ.
  8. Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 của hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
  9. Hệ thống hoá luật lệ hình sự tập I; Toà án nhân dân tối cao xuất bản 1975.
  10. Hệ thống các văn bản cần thiết cho công tác kiểm sát tập I; Viện kiểm sát nhân dân tối cao xuất bản 1991.
  11. Bộ luật hình sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1985, sửa đổi, bổ sung năm 1989. NXB Chính trị Quốc gia.
  12. Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1999 sửa đổi, bổ sung 2001. NXB Chính trị Quốc gia.
  13. Các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự 1999.
  14. Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng, Toà án nhân dân tối cao 2005.

 

Tài liệu tham khảo khác:

  1. Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Nguyễn Ngọc Hoà chủ biên, NXB Công an Nhân dân, H-2003.
  2. Bình luận khoa học BLHS 1999 (phần chung) – Thạc sĩ Đinh Văn Quế, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
  3. Chế định án treo trong Luật hình sự Việt Nam – Thạc sĩ Lê Văn Luật, NXB Tư pháp, H – 2007.
  4. Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam – Phạm Thị Học, luận văn thạc sĩ luật học 1996.
  5. Án treo và nâng cao hiệu quả áp dụng án treo trong xét xử của các toà án quân sự, luận văn thạc sĩ luật học, H-2003.
  6. Án treo và thực tiễn áp dụng ở tỉnh Bắc Ninh – Nguyễn Hữu Xương, luận văn thạc sĩ luật học, H-2004.
  7. Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia.
  8. Sự cần thiết của việc áp dụng án treo đối với người phạm tội – Lê Tiễn Dũng, Tạp chí Toà án nhân dân số 6/1994.
  9. Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội – Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5/2001.
  10. Thời gian thử thách của án treo theo Luật hình sự Việt Nam – Phạm Thị Bích Học, Tạp chí luật học số 1/1997.
  11. Một số nội dung mới của các quy định về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự – Thạc sĩ Đăng Xuân Đào, tạp chí Toà án nhân dân số 8/2000.
  12. Một số ý kiến về tổng hợp hình phạt đối với người được hưởng án treo – Thạc sĩ Nguyễn Văn Trương, Tạp chí Toà án  nhân dân số 18/2005.
  13. Về tổng hợp nhiều bản án treo – Đinh Văn Quế, Tạp chí Toà án nhân dân số 9/2003.
  14. Về các điều kiện cho hưởng án treo theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tháng 9/2003.
  15. Chế định án treo và mô hình lí luận của nó trong Luật hình sự Việt Nam – Lê Cảm, Tạp chí Toà án nhân dân số 2/2005.
  16. Phân loại tội phạm với việc quy định và áp dụng chế định án treo trong Luật hình sự Việt Nam – Trương Minh Hạnh, Tạp chí kiểm sát, số 3/2002.
  17. Tạp chí Toà án nhân dân số 4, 5, 6 năm 2008.
  18. Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn quyết định hình phạt – Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Toà án nhân dân số 10/2005.
  19. Một số ý kiến về việc tổng hợp hình phạt đối với người được hưởng án treo – Th.s Nguyễn Văn Trượng, Tạp chí Toà án nhân dân tháng 9/2005.
  20. Báo cáo tham luận của Toà Hình sự Toà án nhân nhân tối cao 2007.
  21. Nhân thân người phạm tội với việc quy định trách nhiệm hình sự – Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Toà án nhân dân tối cao số 8/2005.
đánh giá bài viết

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền