Pháp luật và thực tiễn Việt Nam về bảo lưu điều ước quốc tế

Chuyên mụcCông pháp quốc tế, Thảo luận pháp luật Pháp luật và thực tiễn Việt Nam về bảo lưu điều ước quốc tế

Bảo lưu điều ước quốc tế, theo quy định của Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế (gọi tắt là Công ước Viên), là hành vi pháp lí đơn phương của quốc gia nhằm tác động đến hiệu lực của điều khoản mà quốc gia tuyên bố bảo lưu trong việc áp dụng với quốc gia đó.

Trên cơ sở xem xét các vấn đề pháp lí và thực tiễn bảo lưu điều ước quốc tế của Việt Nam, bài viết tập trung vào hai vấn đề: 1) Pháp luật Việt Nam mà cụ thể là các quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 về bảo lưu điều ước quốc tế; 2) Thực tiễn bảo lưu điều ước quốc tế của Việt Nam. Thông qua đó, bài viết đánh giá về mức độ tương thích giữa các quy định của pháp luật Việt Nam và tính hợp pháp của các tuyên bố bảo lưu với các quy định của Công ước Viên mà Việt Nam là thành viên, đánh giá tác động, ý nghĩa của những tuyên bố bảo lưu với quá trình thực hiện điều ước của Việt Nam, từ đó kiến nghị xem xét việc rút lại một số tuyên bố bảo lưu không còn phù hợp với thực tiễn.

1. Những vấn đề pháp lí cơ bản về bảo lưu điều ước quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam

Với vai trò là cơ sở pháp lí quan trọng nhất trực tiếp điều chỉnh các vấn đề liên quan đến ký kết, thực hiện điều ước quốc tế, Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 (gọi tắt là Luật điều ước) của Việt Nam đã quy định những vấn đề pháp lí cơ bản về trình tự, thủ tục xây dựng tuyên bố bảo lưu cũng như chấp thuận hoặc phản đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài.

Thẩm quyền đề xuất và quyết định bảo lưu

Theo quy định tại Điều 54 Luật điều ước, cơ quan có thẩm quyền đề xuất về việc ký, phê chuẩn, phê duyệt gia nhập điều ước quốc, bao gồm Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ sẽ kiến nghị về bảo lưu trong tờ trình trình Chính phủ về việc ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập các điều ước quốc tế được phép bảo lưu sau khi đã lấy ý kiến kiểm tra bằng văn bản của Bộ ngoại giao, ý kiến thẩm định của Bộ tư pháp và ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan.
Trên cơ sở đề xuất của những cơ quan trên, cơ quan có thẩm quyền quyết định về việc ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập sẽ quyết định việc bảo lưu. Cụ thể:

– Trong trường hợp tuyên bố bảo lưu được đưa ra tại thời điểm ký điều ước quốc tế, Chủ tịch nước quyết định việc bảo lưu đối với điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước với người đứng đầu nhà nước khác; Chính phủ quyết định việc bảo lưu đối với điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, nhân danh Nhà nước, trừ trường hợp điều ước thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước.
– Trong trường hợp tuyên bố bảo lưu được đưa ra tại thời điểm phê chuẩn, phê duyệt điều ước quốc tế, Quốc hội có thẩm quyền quyết định việc bảo lưu nếu điều ước do Chủ tịch nước trực tiếp ký với người đứng đầu nhà nước khác hoặc theo đề nghị của Chủ tịch nước, các trường hợp còn lại do Chủ tịch nước quyết định (Điều 32); Chính phủ quyết định việc bảo lưu nếu điều ước phải phê duyệt (Điều 44).
– Trong trường hợp tuyên bố bảo lưu đưa ra tại thời điểm gia nhập điều ước quốc tế, Quốc hội quyết định việc bảo lưu đối với điều ước quốc tế gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước, Chủ tịch nước quyết định việc bảo lưu đối với điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước, điều ước quốc tế nhiều bên có quy định phải phê chuẩn, trừ trường hợp việc quyết định gia nhập thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Chính phủ quyết định bảo lưu đối với điều ước quốc tế gia nhập nhân danh Chính phủ (Điều 50).

Thông báo về bảo lưu

Cơ quan đề xuất phối hợp với Bộ ngoại giao thông báo cho cơ quan lưu chiểu điều ước về bảo lưu của Việt Nam khi ký điều ước quốc tế; trường hợp điều ước phải phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế, Bộ ngoại giao sẽ thông báo cho cơ quan lưu chiểu điều ước về tuyên bố bảo lưu của Việt Nam trong thời hạn 15 ngày kể từ khi nhận được quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc phê chuẩn, phê duyệt hay gia nhập điều ước. Trong thời hạn 15 ngày kể từ khi nhận được thông báo của cơ quan lưu chiểu điều ước, Bộ ngoại giao sẽ có trách nhiệm thông báo cho các cơ quan nhà nước có liên quan về ngày có hiệu lực của tuyên bố bảo lưu.

Chấp thuận, phản đối tuyên bố bảo lưu của một bên ký kết nước ngoài

Cơ quan đề xuất có trách nhiệm kiến nghị nội dung, thời điểm đưa ra tuyên bố chấp thuận, phản đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài cũng như hệ quả pháp lí cụ thể trong từng trường hợp trong tờ trình Chính phủ về việc ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế được phép bảo lưu nhưng phải được sự đồng ý của các bên tham gia. Trong trường hợp bên ký kết nước ngoài đưa ra bảo lưu đối với điều ước quốc tế nhiều bên sau khi cơ quan đề xuất trình Chính phủ về việc ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước nhiều bên thì cơ quan đề xuất có trách nhiệm trình bổ sung về việc chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu sau khi lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ ngoại giao, Bộ tư pháp và các cơ quan, tổ chức hữu quan. Hồ sơ của cơ quan đề xuất trình bổ sung bao gồm tờ trình của cơ quan đề xuất có những nội dung liên quan đến bảo lưu của bên ký kết nước ngoài, bản sao điều ước quốc tế nhiều bên, bản dịch điều ước quốc tế bằng tiếng Việt, ý kiến của Bộ ngoại giao, Bộ tư pháp và các cơ quan, tổ chức hữu quan cùng các tài liệu cần thiết khác (Điều 56).

Theo quy định tại Điều 57 Luật điều ước, Quốc hội quyết định chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài đối với điều ước quốc tế nhiều bên mà Quốc hội quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập; Chủ tịch nước quyết định chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài đối với điều ước quốc tế nhiều bên mà Chủ tịch nước quyết định ký, phê chuẩn hoặc gia nhập; Chính phủ quyết định chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài đối với điều ước quốc tế nhiều bên mà Chính phủ quyết định ký, phê duyệt hoặc gia nhập.
Trình tự chấp thuận hoặc phản đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài được thực hiện tương tự trình tự, thủ tục trình, quyết định phê chuẩn, phê duyệt điều ước quốc tế.(1)

Rút bảo lưu hoặc phản đối bảo lưu

Cơ quan đề xuất có trách nhiệm trình Chính phủ về việc rút bảo lưu hoặc rút phản đối bảo lưu sau khi lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ ngoại giao, Bộ tư pháp và các cơ quan, tổ chức hữu quan. Hồ sơ trình về việc rút bảo lưu hoặc rút phản đối bảo lưu bao gồm: Tờ trình về việc rút bảo lưu hoặc rút phản đối bảo lưu, hậu quả pháp lí của việc rút bảo lưu hoặc rút phản đối bảo lưu; Bản sao điều ước quốc tế, bản dịch điều ước quốc tế bằng tiếng Việt; Ý kiến của Bộ ngoại giao, Bộ tư pháp và các cơ quan, tổ chức hữu quan; Các tài liệu cần thiết khác.

Cơ quan có thẩm quyền quyết định đưa ra bảo lưu hoặc phản đối bảo lưu có thẩm quyền quyền quyết định rút bảo lưu hoặc rút phản đối bảo lưu theo trình tự tương tự như quyết định chấp thuận hoặc phản đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài.

Có thể thấy Luật điều ước về bảo lưu chỉ ghi nhận các vấn đề mang tính chất trình tự, thủ tục đối với cơ quan có thẩm quyền của quốc gia, những nội dung pháp lí khác, đặc biệt là hệ quả của tuyên bố bảo lưu hay chấp thuận, phản đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài sẽ theo các quy định của Công ước Viên. Cách quy định này đã tạo ra sự tương thích hoàn toàn giữa Công ước Viên và Luật điều ước của Việt Nam. Tuy nhiên, điều này cũng có thể gây ra những khó khăn nhất định đối với các cơ quan đề xuất bảo lưu và cơ quan có trách nhiệm thực thi các quy định của điều ước bởi khi cần thiết, đặc biệt trong trường hợp giải quyết những vấn đề về hệ quả của tuyên bố bảo lưu trong mối quan hệ với các thành viên khác, những cơ quan này sẽ phải căn cứ hoàn toàn vào các quy định của Công ước Viên. Trong trường hợp này,  lưu sẽ phụ thuộc không nhỏ vào việc hiểu chính xác các quy định của Công ước này.

2. Thực tiễn bảo lưu điều ước quốc tế của Việt Nam

Trên cơ sở các số liệu từ Ban thư ký Liên hợp quốc về các điều ước quốc tế đa phương được đăng ký tại Ban thư ký và văn kiện của các quốc gia thành viên,(2) có thể thống kê đến nay, Việt Nam đã bảo lưu với khoảng hơn 20 điều ước quốc tế trên nhiều lĩnh vực, từ quyền ưu đãi, miễn trừ quốc gia, y tế, thương mại quốc tế đến quyền con người, luật nhân đạo quốc tế… Nội dung các tuyên bố bảo lưu của Việt Nam thường tập trung vào những vấn đề sau:

– Thứ nhất là bảo lưu các điều khoản liên quan tới giải quyết tranh chấp.

Những bảo lưu của Việt Nam chủ yếu được đưa ra theo hướng loại trừ hiệu lực của điều khoản bảo lưu (điều khoản giải quyết tranh chấp) trong việc áp dụng với Việt Nam. Cụ thể với những điều ước có điều khoản quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Toà án công lí quốc tế Liên hợp quốc trong trường hợp phát sinh tranh chấp giữa các thành viên liên quan đến giải thích, áp dụng điều ước, Việt Nam thường tuyên bố không bị ràng buộc bởi điều khoản giải quyết tranh chấp này. Ví dụ, khi gia nhập Công ước về xoá bỏ các hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ, Việt Nam tuyên bố rằng: “Trong việc thực hiện Công ước này, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
(CHXHCN) Việt Nam không bị ràng buộc bởi các quy định tại khoản 1 Điều 29”.(3) Tương tự, các tuyên bố khi gia nhập Công ước Viên, Công ước về các chất gây nghiện, Công ước về các chất ma tuý, Công ước của Liên hợp quốc về chống vận chuyển trái phép ma tuý và các chất hướng thần, Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, Công ước về chống việc bắt con tin, Công ước chống tra tấn hoặc các hình thức đối xử tàn bạo, vô nhân đạo đều có nội dung là Chính phủ Việt Nam tuyên bố bảo lưu điều khoản về giải quyết tranh chấp. Ngoài ra còn có một số ít trường hợp tuyên bố bảo lưu của Việt Nam được đưa ra theo hướng thay đổi hiệu lực của điều khoản bảo lưu. Chẳng hạn trong tuyên bố bảo lưu khi gia nhập Công ước khung của WHO về kiểm soát thuốc lá, Việt Nam tuyên bố rằng:
“Bất kì tranh chấp nào phát sinh giữa CHXHCN Việt Nam và các thành viên khác của Công ước liên quan đến việc giải thích, áp dụng Công ước, nếu không giải quyết được thông qua thương lượng hoặc bất kì biện pháp hoà bình nào khác quy định tại
khoản 1 Điều 27 sẽ chỉ được giải quyết tại trọng tài trên cơ sở thoả thuận giữa Việt Nam và bên liên quan theo từng vụ việc” hoặc liên quan đến Công ước về quyền ưu đãi, miễn trừ của Liên hợp quốc, Công ước Viên năm 1963 về quan hệ lãnh sự Việt Nam đã đưa ra bảo lưu với nội dung: “Các ý kiến của Toà án công lí quốc tế Liên hợp quốc liên quan đến Điều 8 Mục 30 sẽ chỉ mang tính chất tư vấn và không có ý nghĩa quyết định nếu không có sự nhất trí của tất cả các bên”.

– Thứ hai là bảo lưu những điều khoản có sự khác biệt với các quy định của pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước hoặc điều kiện thực tiễn của Việt Nam chưa đáp ứng được.

Trong trường hợp này, Việt Nam thường đưa ra tuyên bố bảo lưu theo hướng loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực của điều khoản bảo lưu theo hướng tương thích với các quy định của pháp luật hoặc quan điểm của Việt Nam.

Điển hình cho nội dung bảo lưu này là những tuyên bố liên quan đến các điều khoản về dẫn độ trong các điều ước quy định việc các quốc gia thành viên có thể coi điều ước là cơ sở trực tiếp để dẫn độ như các điều ước quốc tế trong lĩnh vực hình sự quốc tế bao gồm Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, Công ước quốc tế về chống việc bắt giữ con tin, Công ước về cấm đánh bom khủng bố, Công ước về cấm tài trợ cho hoạt động khủng bố, Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia hoặc những điều ước trong lĩnh vực y tế như Công ước về các chất gây nghiện năm 1972, Công ước về các chất ma tuý năm 1961 được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định thư sửa đổi Công ước về các chất ma tuý năm 1964, Công ước về chống vận chuyển bất hợp pháp ma tuý và các chất hướng thần năm 1988. Những bảo lưu này đều có nội dung không thừa nhận Công ước là cơ sở pháp lí trực tiếp để tiến hành dẫn độ, việc dẫn độ được thực hiện trên cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tế về dẫn độ và nguyên tắc có đi có lại.

Bên cạnh đó, có thể kể đến một số trường hợp khác Việt Nam cũng đã bảo lưu những điều khoản mà việc thực hiện chúng chưa phù hợp với thực tiễn và pháp luật Việt Nam.

Chẳng hạn trong tuyên bố bảo lưu khi gia nhập Công ước về chống tham nhũng của Liên hợp quốc, bên cạnh bảo lưu điều khoản về dẫn độ trên cơ sở Công ước, Việt Nam còn tuyên bố không bị ràng buộc bởi các quy định về hình sự hoá hành vi làm giàu bất hợp pháp (Điều 20)(4) và quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân (Điều 26).(5) Nguyên nhân là do pháp luật Việt Nam, cụ thể là luật hình sự Việt Nam chưa quy định hành vi làm giàu bất hợp pháp là tội phạm cũng như chưa thừa nhận pháp nhân có thể trở thành chủ thể của tội phạm. Hay trong quyết định gia nhập Công ước New York về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, Việt Nam đã đưa ra hai nội dung bảo lưu.

Thứ nhất, Việt Nam chỉ áp dụng Công ước đối với việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ quốc gia là thành viên của Công ước này. Đối với quyết định của trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ của quốc gia chưa ký kết hoặc tham gia Công ước, Công ước được áp dụng tại Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại.

Thứ hai, Việt Nam sẽ chỉ áp dụng Công ước đối với tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật thương mại.(6) Hai bảo lưu này được đưa ra nhằm mục đích đảm bảo nghĩa vụ thành viên Công ước của Việt Nam trong việc công nhận, thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài không có sự khác biệt với các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến nội dung này.(7)

Đối chiếu với những quy định của Công ước Viên, có thể khẳng định những tuyên bố bảo lưu của Việt Nam đều phù hợp với các điều khoản của Công ước liên quan đến những trường hợp không được phép bảo lưu. Các điều khoản bảo lưu của Việt Nam hoặc là các điều khoản được phép bảo lưu theo quy định của điều ước hoặc không thuộc trường hợp cấm bảo lưu cũng như trường hợp không phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước. Chẳng hạn trong Công ước về xoá bỏ các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, khoản 2 Điều 29 cho phép các quốc gia có thể tuyên bố không bị ràng buộc bởi quy định trong khoản 1 Điều 29 (điều khoản về giải quyết tranh chấp). Phù hợp với quy định tại khoản 2, trong tuyên bố gia nhập, Việt Nam đã tuyên bố bảo lưu khoản 1 Điều 29 theo hướng không áp dụng điều khoản này với mình. Hoặc trong Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, khoản 3 Điều 1 cho phép các quốc gia có thể trên cơ sở có đi có lại, tuyên bố rằng quốc gia đó sẽ chỉ áp dụng Công ước đối với việc công nhận và thi hành các quyết định được đưa ra tại lãnh thổ một quốc gia thành viên khác cũng như quốc gia cũng có thể tuyên bố chỉ áp dụng Công ước đối với các tranh chấp từ các quan hệ pháp lí dù là hợp đồng hoặc không nhưng phải là quan hệ thương mại theo quy định của quốc gia này. Do đó, tuyên bố bảo lưu của Việt Nam hoàn toàn không trái với quy định của Công ước.

Thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đã tích cực hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, trong đó có pháp luật. Sự tham gia của Việt Nam vào không ít điều ước quốc tế trên nhiều lĩnh vực không chỉ là biểu hiện của một quốc gia đang ngày càng tích cực và trách nhiệm trong việc giải quyết những vấn đề chung của thế giới mà còn tạo điều kiện cho pháp luật Việt Nam có cơ hội tiến gần hơn với những tiến bộ, những chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, việc trở thành thành viên các điều ước quốc tế của Việt Nam tới nay hầu hết đều thông qua quá trình gia nhập. Do không có điều kiện tham gia trực tiếp vào quá trình đàm phán xây dựng nội dung của điều ước nên các tuyên bố bảo lưu chính là giải pháp hữu ích tạo điều kiện cho Việt Nam vừa tham gia các điều ước quốc tế nhưng cũng không phải thực hiện những điều khoản chưa thực sự phù hợp với mình. Có thể lấy điều khoản giải quyết tranh chấp tại Toà án công lí quốc tế Liên hợp quốc là ví dụ. Trong điều kiện Việt Nam chưa có một đội ngũ luật sư thực sự giỏi luật quốc tế, giàu kinh nghiệm tranh tụng trước các cơ quan tài phán nước ngoài cũng như vẫn còn những hạn chế trong hệ thống pháp luật và đảm bảo thực thi pháp luật thì việc bảo lưu theo hướng không áp dụng điều khoản giải quyết tranh chấp tại Toà án công lí có lẽ là một lựa chọn hợp lí.

Tuy vậy, Việt Nam cũng nên xem xét rút một số bảo lưu đã đưa ra nhằm phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Những bảo lưu này chủ yếu liên quan đến các điều khoản chưa tương thích với pháp luật hoặc điều kiện thực tiễn của Việt Nam hoặc chưa phù hợp với quan điểm, chủ trương của Nhà nước.

Có thể kể ra một trong những bảo lưu mà Việt Nam nên xem xét rút là tuyên bố bảo lưu đối với Công ước New York về công nhận, thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài với nội dung chỉ áp dụng Công ước đối với những tranh chấp phát sinh từ quan hệ thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam. Với tuyên bố bảo lưu này nếu một tranh chấp không phát sinh từ quan hệ pháp luật thương mại hoặc một tranh chấp mà theo luật của quốc gia nơi trọng tài ra phán quyết hoặc theo hệ thống pháp luật mà các bên lựa chọn, tranh chấp đó là thương mại nhưng theo pháp luật Việt Nam thì không do cách quy định khác nhau về quan hệ thương mại thì phán quyết đó cũng không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Với sự gia tăng của các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài cũng như thực tiễn phong phú và phức tạp của các quan hệ thương mại thì bảo lưu này sẽ là một trở ngại đối với các tổ chức, cá nhân khi muốn được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài không liên quan đến quan hệ pháp luật thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Bên cạnh đó còn có thể kể đến những tuyên bố bảo lưu điều khoản về dẫn độ trong các điều ước có quy định rằng việc dẫn độ sẽ được thực hiện trực tiếp trên cơ sở điều ước này. Việt Nam đã từ chối không áp dụng điều khoản trên trong nhiều điều ước đa phương trong lĩnh vực hình sự quốc tế nhưng lại chấp nhận điều khoản này trong Công ước của ASEAN về chống khủng bố năm 1997. Khoản 3 Điều 13 Công ước của ASEAN quy định rằng: “Nếu một quốc gia thành viên quy định việc dẫn độ chỉ được thực hiện trên cơ sở có một điều ước, nhận được yêu cầu dẫn độ từ quốc gia thành viên khác mà giữa hai quốc gia này không có điều ước về dẫn độ, quốc gia được yêu cầu, phù hợp với pháp luật quốc gia, có thể coi Công ước này là cơ sở pháp lí cho việc dẫn độ loại tội phạm quy định tại Điều II Công ước này”. Do những loại tội phạm được dẫn độ trên cơ sở Công ước của ASEAN theo quy định tại Điều II thực chất hoàn toàn dẫn chiếu đến các điều ước quốc tế đa phương, trong đó gồm cả những điều ước mà Việt Nam cũng là thành viên như Công ước về chống khủng bố bằng bom, Công ước về chống việc tài trợ cho hoạt động khủng bố, Công ước về chống việc bắt cóc con tin… nên tuyên bố bảo lưu này của Việt Nam có thể sẽ tạo ra sự phân biệt đối xử giữa một nước là thành viên của ASEAN và một nước không phải là thành viên khi có thể sẽ dẫn độ cho một nước trong ASEAN trên cơ sở Công ước của ASEAN nhưng lại từ chối một nước không phải thành viên ASEAN nếu nước đó sử dụng các điều ước đa phương trong lĩnh vực này làm cơ sở pháp lí trực tiếp để yêu cầu dẫn độ. Mặt khác, trong bối cảnh những hành vi khủng bố ngày càng nghiêm trọng cả về tính chất và hậu quả không còn là nguy cơ đối với chỉ riêng một vài quốc gia thì việc chỉ dẫn độ trên nguyên tắc có đi có lại hoặc trên cơ sở điều ước về dẫn độ giữa hai bên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như lợi ích của chính quốc gia. Vì thế, trong thời gian tới, Việt Nam nên cân nhắc rút lại những tuyên bố bảo lưu với nội dung này trong các điều ước về hình sự quốc tế.

Không thể phủ nhận ý nghĩa và những lợi ích mà tuyên bố bảo lưu đem lại khi tạo điều kiện cho một quốc gia được thực thi các nghĩa vụ pháp lí của mình trên cơ sở phù hợp với thực tiễn và điều kiện quốc gia. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, bên cạnh việc nghiên cứu để đưa ra một tuyên bố bảo lưu sao cho đảm bảo lợi ích của quốc gia để quốc gia có thể thực hiện điều khoản đó theo thực tiễn và pháp luật nước mình, thì quan trọng hơn là pháp luật cũng như thực tiễn của quốc gia cũng cần đến những sự đổi mới, những cách tiếp cận mới để tương thích nhiều hơn với pháp luật quốc tế, pháp luật của các quốc gia tiên tiến, đồng thời quốc gia có thể tận dụng được chính những điều khoản mà quốc gia phải đưa ra tuyên bố bảo lưu đó làm công cụ bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình./.

 


(1). Xem thêm: Điều 58 Luật điều ước.

(2).Xem: Website của Ban thư ký Liên hợp quốc, nguồn: https://treaties.un.org/Pages/ParticipationStatus.aspx, truy cập ngày 15/8/2015.

(3). Khoản 1 Điều 29 quy định: “Mọi tranh chấp giữa hai hoặc nhiều quốc gia thành viên xung quanh việc giải thích hoặc áp dụng Công ước này, nếu không giải quyết được bằng thương lượng thì một trong các quốc gia đó có thể yêu cầu đưa ra hoà giải. Nếu trong vòng 6 tháng k ể từ khi yêu cầu hoà giải được đưa ra mà các bên vẫn không đi đến thống nhất được về  cách tổ chức hoà giải thì một bên bất kỳ có thể đệ  trình vấn đề tranh chấp với Toà án công lí quốc tế  bằng cách nộp đơn theo đúng quy chế của Toà án”.

(4). Điều 20 Công ước chống tham nhũng quy định:
“Trên cơ sở tuân thủ hiến pháp và các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật nước mình, mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng các biện pháp lập pháp và các biện pháp cần thiết khác nhằm quy định là tội phạm, nếu được thực hiện một cách cố ý, hành vi làm giàu bất hợp pháp, nghĩa là việc tài sản của một công chức tăng đáng kể so với thu nhập hợp pháp của công chức mà công chức này không giải thích được một cách hợp lí về lí do tăng đáng kể như vậy”.

(5). Điều 26 quy định: “1. Mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng các biện pháp cần thiết, phù hợp với các
nguyên tắc pháp luật của mình, để quy định trách nhiệm của pháp nhân về việc tham gia vào các tội phạm được quy định theo Công ước này. 2. Phụ thuộc vào các nguyên tắc pháp luật của quốc gia thành viên, trách nhiệm của pháp nhân có thể là trách nhiệm hình sự, dân sự hoặc hành chính. 3. Trách
nhiệm này không ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của cá nhân đã thực hiện tội phạm. 4. Cụ thể, mỗi quốc gia thành viên sẽ đảm bảo các pháp nhân chịu trách nhiệm theo quy định của Điều này phải chịu chế tài hình sự hoặc phi hình sự hiệu quả, tương xứng và có tác dụng ngăn ngừa, kể cả hình phạt tiền”.

(6).Xem: Quyết định của Chủ tịch nước số 453/QĐ-CTN ngày 28/7/1995 phê chuẩn việc tham gia Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài.

(7). Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam khi quy định về công nhận, cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài đều ghi nhận trong trường hợp các phán quyết của trọng tài nước ngoài mà Việt Nam và nước đó chưa ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về công nhận và cho thi hành phán quyết, pháp luật Việt Nam sẽ áp dụng nguyên tắc có đi có lại để xem xét công nhận và cho thi hành.

5/5 - (1 bình chọn)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền