Pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng

Chuyên mụcThảo luận pháp luật Hợp đồng tín dụng

Tiểu luận: Pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu về vốn để sản xuất, kinh doanh là một trong những nhu cầu rất lớn. Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có thể có nguồn vồn này từ nhiều nguồn khác nhau như tự tích lũy vốn, vay mượn bạn bè…Trong đó, có một giải pháp có thể đem lại nguồn vốn dồi dào cho họ, đó là việc vay vốn thông qua hợp đồng tín dụng tại các tổ chức tín dụng. Sự phát triển của quan hệ tín dụng ngày càng phong phú, đa dạng, là động lực mãnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, hiện nay ngân hàng chỉ quan tâm tới việc cho vay của các nhà sản xuất, kinh doanh lớn mà chưa quan tâm tới những người sản xuất nhỏ. Nếu chỉ cho vay sản xuất nhiều mà khách hàng không tiêu thụ được do người dân không có nhu cầu về hàng hóa đó hoặc có nhu cầu nhưng lại không có khả năng thanh toán thì tất yếu sẽ dẫn tới cung vượt quá cầu, hàng hóa bị tồn kho, nhà sản xuất khó thu hồi vốn. Từ thực tế đó cho thấy, khi xã hội ngày càng phát triển, không chỉ có các công ty, doanh nghiệp là cần vốn để sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường mà hiện nay, các cá nhân là những người không chỉ cần vốn để khởi nghiệp mà còn có nhu cầu chi tiêu phục vụ các nhu cầu cá nhân. Cuộc sống ngày càng hiện đại, khi mức sống của người dân cũng được nâng cao, nhu cầu về sở hữu tài sản cũng tăng lên. Xét về bản chất, việc đi vay là việc chủ thể mong muốn được sở hữu và khai thác có hiệu quả nguồn vốn mà bản thân chủ thể này không có quyền sở hữu ngay từ trước thời điểm giao kết hợp đồng. Do đó, để đáp ứng nhu cầu của các chủ thể, các ngân hàng thương mại luôn gắng thực hiện chức năng chính là cho vay để làm hiệu quả nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường. Vay là một hình thức khá phổ biến hiện nay đặc biệt là ở một số nước phát triển trên thế giới, theo đó việc vay tài sản sử dụng vào nhiều mục đích hợp pháp là sự cần thiết và được xem là điều bình thường trong xã hội phát triển. Tuy nhiên, hình thức vay tài sản ở Việt Nam, có thể được xem là việc bất đắc dĩ của nhiều người, do đó hoạt động vay và cho vay là mảng thị trường lớn nhưng vẫn còn sơ khai và vì nhiều lý do chưa được khai thác nhiều. Kinh tế thị trường ngày càng phát triển, cùng với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, thu nhập của người dân cũng tăng lên và nhu cầu về đời sống của con người ngày càng cao và đa dạng hơn. Vì thế, nhu cầu của người dân ngày càng nhiều, nhất là đối tượng khách hàng trẻ. Bên cạnh đó, khi nền kinh tế phát triển thì sản phẩm hàng hóa sẽ tăng lên và đa dạng hơn. Điều đó sẽ khiến cho xu hướng cần vốn ngày càng tăng. Đây là xu hướng không chỉ riêng ở Việt Nam mà cũng là xu hướng chung của những nước đang trong thời kỳ hội nhập. Đặc biệt, khi thị trường ngân hàng Việt Nam mở cửa cho các Ngân hàng và doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư theo tiến trình hội nhập làm cho thị trường vay và cho vay trở nên sôi động hơn. Tuy nhiên không phải chủ thể nào cũng có thể tiếp cận được các khoản vay, nhất là đối với chủ thể cá nhân. Thực tế người dân, đặc biệt các tiểu thương ở chợ rất ngại tiếp xúc với nguồn vốn ngân hàng vì họ nghĩ nó phức tạp, thậm chí việc vay tài sản được xem là bất đắc dĩ và phải chấp nhận nhiều thiệt thòi. Còn về phía ngân hàng thì ngại cho vay nhỏ, lẽ, vì sợ rủi ro cao nên hợp đồng thường có nhiều điều khoản ràng buộc đối với bên vay. Thực tế, vay tài sản đã trở nên phổ biến và theo quy định pháp luật tất cả mọi khách hàng cá nhân đều có thể đến ngân hàng để vay vốn phục vụ cho nhu cầu cá nhân của mình như: từ việc vay vốn để sản xuất kinh doanh đến việc vay vốn để xây nhà, mua sắm vật dụng sinh hoạt…Có thể xem cho vay là hoạt động tất yếu và là xu hướng phát triển chung của cả hệ thống ngân hàng. Khách hàng tư nhân đã và đang là mảng khách hàng tiềm năng, được nhiều ngân hàng chú trọng khai thác. Tuy nhiên, trong quan hệ tín dụng này, khi lợi ích giữa các bên không đạt được, sẽ xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên. Khi đó làm thế nào để bảo vệ được quyền lợi của bên vay đóng vai trò là bên yếu thế? Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài “Pháp luật về bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng” để trả lời cho câu hỏi này. Từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, theo tìm hiểu, tác giả nhận thấy, vấn đề: “Bảo vệ quyền của người đi vay trong hợp đồng tín dụng đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể. Các kết quả nghiên cứu mà tác giả tìm được về pháp luật bảo vệ quyền của người đi vay trong hợp đồng tín dụng ở Việt Nam còn hết sức khiêm tốn. Phần lớn các công trình khoa học về lĩnh vực này được công bố dưới hình thức các bài viết được đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành luật, kinh tế hoặc tham luận trong các Hội thảo khoa học. Có thể kể đến các bài viết như: “Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng dịch vụ ngân hàng” của Trương Thanh Đức đăng trên tạp chí ngân hàng số 1 (1/2011), hay Hội thảo Pháp ngữ “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” từ hai góc nhìn Á Âu, do nhà pháp luật Việt Pháp phối hợp với Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương Việt Nam tổ chức tại Hà Nội (9/2010), nội dung hội thảo tập trung vào những vấn đề về bảo vệ quyền lợi của người của tiêu dùng, một lĩnh vực khá mới đối với thị trường Việt Nam, bên cạnh đó trong hội thảo còn đề xuất các vấn đề về xây dựng khung chính sách bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng nói chung. “Pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng”, luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Trần Thị Hiền Lương, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2014, nội dung luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng được quy định trong Bộ luật dân sự 2005. Bên cạnh đó, nội dung luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hợp đồng tín dụng tiêu dùng, cụ thể bảo vệ quyền lợi của người đi vay chưa đi sâu vào nghiên các vấn đề liên quan bảo vệ quyền của bên vay, vốn là nội dung nhằm đảm bảo những quyền và lợi ích khác của bên vay cũng như nhằm mục tiêu cân bằng lợi ích của cả hai bên. Mặc dù chưa nhiều nhưng bài viết, luận văn nêu trên là tài liệu quý báu giúp tác giả có thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu và hoàn thiện bài viết của mình.

3. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ những bất cập của pháp luật bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng và thực trạng áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này, đề tài đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng. Bài viết tập trung làm rõ các vấn đề về bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng, từ đó rút ra được những kết luận nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền của người vay trong hợp đồng tín dụng. Xuất phát từ mục tiêu của đề tài, tác giả chọn đối tượng và phạm vi nghiên cứu không phải tất cả các hợp đồng tín dụng giữa các chủ thể trong quan hệ cho vay với ngân hàng mà chỉ tập trung phân tích những quy định pháp luật về bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng. Nội dung đề tài cũng chỉ đề cập đến quy định pháp luật về bảo vệ quyền của bên vay, với tư cách là bên yếu thế trong quan hệ pháp luật hợp đồng này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề liên quan đến hợp đồng tín dụng, pháp luật về bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Vấn đề bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng và pháp luật về bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng là vấn đề rất rộng. Trong khuôn khổ của một báo cáo thực tập, phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn như sau: Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Dân sự 2015, Luật ngân hàng Nhà nước năm 2010. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và các văn bản dưới luật có liên quan về đảm bảo quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng bao gồm các quy định về nghĩa vụ của bên cho vay, nghĩa vụ quản lý của cơ quan Nhà nước và nghĩa vụ tự bảo vệ mình của bên vay.

5. Phương pháp nghiên cứu

Bài báo cáo chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp phân tích luật viết, so sánh luật, bình luận án,…Bên cạnh đó, bài báo cáo cũng có sử dụng các phương pháp phân tích, quy nạp, diễn dịch,… để làm sáng tỏ đề tài.

6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng

Đề tài: “Pháp luật về bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng” là một sản phẩm nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề bảo vệ quyền lợi của bên vay trong hợp đồng tín dụng. Đề tài này không những góp phần hoàn thiện pháp luật tạo một hành lang pháp lý vững chắc hơn trong lĩnh vực tín dụng mà còn giúp những người ở vị trí bên vay có cái nhìn tổng quát nhất về quyền của họ, về những rủi ro mà họ có thể chịu. Đồng thời, đề tài cũng là cơ sở để các nhà làm luật xem xét bổ sung, sửa đổi các quy định của pháp luật.

7. Kết cấu bài viết

Bài báo cáo bao gồm phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và ba chương:

  • Chương 1: Giới thiệu về công ty TNHH Verity Law
  • Chương 2: Lý luận chung về hợp đồng tín dụng, tổng quan về quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng và sự cần thiết bảo vệ quyền lợi của bên vay trong hợp đồng tín dụng
  • Chương 3: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của bên vay trong hợp đồng tín dụng

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY TNHH VERITY LAW

1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty

VERITY LAW là một trong những hãng luật đang sở hữu hơn 20 Luật sư và chuyên gia pháp lý có chuyên môn cao, chuyên nghiệp và đặc biệt là giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp luật toàn diện hàng đầu tại Việt Nam – có trụ sở chính tại Thành phố Hồ Chí Minh, văn phòng Hà Nội và Nha Trang. Các Luật sư của VERITY LAW có khả năng dự đoán, đánh giá các rủi ro pháp lý cho khách hàng và đưa ra những giải pháp mang tính thực tế nhằm giải quyết, loại bỏ hoặc giảm thiểu đến mức tối đa những rủi ro đó.

VERITY LAW là một đối tác tư vấn pháp luật coi trọng tính chính trực và có tinh thần trách nhiệm cao. Từ nhiều năm nay, khách hàng của VERITY LAW đã đặt niềm tin vào VERITY LAW bởi phong cách làm việc nghiêm túc, cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật một cách chính xác, trung thực và có trách nhiệm nhất.

Trong quá trình hoạt động, VERITY LAW đã khẳng định mình là một trong những hãng luật luôn cam kết và đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của khách hàng cũng như không ngừng phát triển các mối quan hệ với các cơ quan Nhà nước Việt Nam và các chuyên gia trong lĩnh vực luật pháp. Trên cơ sở đó, VERITY LAW cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng với mức chi phí hợp lý. Mục tiêu lâu dài và trên hết của VERITY LAW là trở thành người cộng sự đích thực và đáng tin cậy của khách hàng để cùng nhau phát triển bền vững.

1. 2. Lĩnh vực hoạt động của công ty

VERITY LAW cung cấp đầy đủ các dịch vụ pháp lý và luôn đặt tiêu chí chất lượng lên hàng đầu. Chúng tôi luôn duy trì mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các công ty luật, công ty tư vấn trong và ngoài nước để trao đổi kinh nghiệm, cập nhật thông tin trong thời kỳ hội nhập mở cửa hiện nay. Ngoài ra, VERITY LAW luôn sẵn sàng phát triển những lĩnh vực chuyên môn khác nhằm hỗ trợ hiệu quả và kịp thời nhất cho khách hàng.

Với đội ngũ luật sư và chuyên gia dày kinh nghiệm, VERITY LAW cung cấp dịch vụ pháp lý trong các lĩnh vực sau đây:

  • Đầu tư và thành lập doanh nghiệp;
  • Tư vấn pháp lý thường xuyên;
  • Mua bán và sáp nhập doanh nghiệp;
  • Sở hữu trí tuệ;
  • Lao động;
  • Tư vấn bất động sản;
  • Tư vấn hợp đồng;
  • Giải quyết tranh chấp và tranh tụng;
  • Hôn nhân và gia đình;
  • Tư vấn thuế;
  • Dịch thuật pháp lý;
  • Thu hồi nợ.

1. 3. Cơ cấu tổ chức, bộ máy của công ty

Công ty với đội ngũ luật sư có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề:

Luật sư Nguyễn Ngọc Phú là luật sư điều hành của VERITYLAW với hơn 11 năm kinh nghiệm hành nghề trong cả lĩnh vực tư vấn và tranh  tụng. Luật sư Nguyễn Ngọc Phú có hiểu  biết  sâu rộng trong các mảng về Kinh doanh thương mại, Tài chính ngân hàng, Sở hữu trí tuệ, Lao động, Doanh nghiệp với bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư dự án, mua bán và sáp nhập doanh nghiệp.

Trước khi sáng lập ra VERITYLAW, Luật sư Nguyễn Ngọc Phú đã làm việc tại nhiều đơn vị và đảm nhiệm những vị trí sau:

  • Trưởng phòng Hành  chính  – Pháp chế Công ty CP Bệnh viện Máy tính Quốc tế iCARE (iCARE).
  • Phó giám đốc kiêm Trưởng phòng Pháp chế Công ty CP Đầu tư và Phát triển Trường Phát (Trường Phát IDC).
  • Luật sư thành viên tại Văn phòng luật sư Kim Ngân (Nha Trang – Khánh Hòa)
  • Luật sư thành viên tại Công ty Luật UniLaw (TP.Hồ Chí Minh).
  • Luật sư thành viên tại Công ty Luật SBLaw (TP.Hồ Chí Minh).

Ngoài ra, đồng hành cùng luật sư Nguyễn Ngọc Phú còn có Luật sư Nguyễn Như Hải, Lê Phương Toàn, Cao Như Ý, Nguyễn Thị Bích Ngọc, Hồ Ngọc Hiền Thảo, Phạm Trân Nhật Thảo.

1. 4. Khách hàng tiêu biểu của công ty

VERITY LAW cung cấp dịch vụ pháp lý cho các đối tác sau đây:

Mối liên hệ giữa đơn vị thực tập và đề tài báo cáo thực tập: “Pháp luật bảo vệ quyền của bên vay”

Thực tập tại Công ty TNHH Verity Law, vụ việc liên quan đến ngân hàng không nhiều nhưng tôi may mắn được cọ xác với khá nhiều bản án có liên quan đến việc cần phải bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế. Cụ thể là bên đi vay tiền, người lao động,… Vì thế, tôi có cơ hội thấu hiểu hoàn cảnh cũng như những rủi ro mà họ có thể gánh phải. Từ đó rút ra được những bất cập và hướng hoàn thiện để bảo vệ được các quyền chính đáng của họ trong tất cả các mối quan hệ.

CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG, TỔNG QUAN VỀ QUYỀN CỦA BÊN VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ SỰ CẦN THIẾT BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA BÊN VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

2.1. Lý luận chung về hợp đồng tín dụng

2.1.1 Khái niệm hợp đồng tín dụng

Theo quy định tại Điều 385 – Bộ luật dân sự 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”[1], hợp đồng nói chung là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Bên cạnh đó, một loại hợp đồng thông dụng được nhắc đến đó là hợp đồng cho vay tài sản với khái niệm: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy đinh”[2].

Từ các khái niệm trên có thể thấy về bản chất hợp đồng tín dụng là những hợp đồng cho vay tài sản. Theo đó, hợp đồng tín dụng được hiểu là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (đóng vai trò là bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện do luật định (đóng vai trò là bên vay), trong đó tổ chức tín dụng giao hoặc cam kết cho bên vay vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một khoản thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.

Với khái niêm này, hợp đồng tín dụng bao gồm hai yếu tố:

Thứ nhất, về phương diện hình thức, sự thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với khách hàng (bên đi vay) phải được thể hiện bằng văn bản.

Thứ hai, về phương diện nội dung, bên cho vay đồng thuận để bên vay được sử dụng số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả, dựa trên sự tín nhiệm.

2.1.2  Đặc điểm của hợp đồng tín dụng

Hợp đồng tín dụng là một dạng hợp đồng vay, vì vậy nó cũng mang những đặc điểm của hợp đồng nói chung. Đặc điểm này thể hiện ở chỗ hợp đồng tín dụng là hợp đồng song vụ theo quy định tại Điều 410 Bộ luật Dân sự 2015. Điều đó có nghĩa là trong hợp đồng tín dụng khi các bên đã thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn; không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình trừ trường hợp hoãn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, do hoạt động ngân hàng có những đặc thù so với các hoạt động kinh doanh khác nên hợp đồng tín dụng cung có những đặc điểm riêng. Ngoài những đặc điểm chung của mọi hợp đồng, hợp đồng tín dụng còn có một số dấu hiệu đặc trưng sau đây để phân biệt với các hợp đồng khác trong giao dịch dân sự và thương mại.

Thứ nhất, hợp đồng tín dụng luôn luôn được ký kết dưới hình thức văn bản và thường theo mẫu chung do Ngân hàng ban hành tương ứng với phương thức cho vay.

Thứ hai, về chủ thể hợp đồng tín dụng, một bên tham gia hợp đồng tín dụng luôn là tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng, có đủ các điều kiện luật định với tư cách là bên cho vay, còn chủ thể kia có thể là các tổ chức, cá nhân thỏa mãn những điều kiện vay vốn nhất định.

Thứ ba, đối tượng của hợp đồng tín dụng, đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền (bao gồm tiền mặt và bút tệ). Về nguyên tắc, đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là một số tiền thỏa thuận và phải được các bên thỏa thuận, ghi rõ trong văn bản hợp đồng.

Thứ tư, hợp đồng tín dụng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro rất lớn có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của bên cho vay. Sở dĩ như vậy là vì theo cam kết trong hợp đồng tín dụng, bên cho vay chỉ có thể đòi tiền của bên vay sau một thời gian nhất định. Nếu thời gian cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn. Vì thế mà các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng cũng thường xảy ra với số lượng và tỷ lệ lớn hơn so với đa phần các loại hợp đồng khác.

Thứ năm, về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tín dụng, trong hợp đồng tín dụng, nghĩa vụ chuyển giao tiền vay (nghĩa vụ giải ngân) của bên cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước, làm cơ sở, tiền đề cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay. Do đó, chỉ khi nào bên cho vay chứng minh được rằng họ đã chuyển giao tiền vay theo đúng hợp đồng tín dụng cho bên vay thì khi đó họ mới có quyền yêu cầu bên vay phải thực hiện các nghĩa vụ đối với mình (bao gồm các nghĩa vụ chính như sử dụng tiền vay đúng mục đích; nghĩa vụ hoàn trả tiền đúng hạn cả gốc và lãi…).

Thứ sáu, hợp đồng tín dụng là hợp đồng luôn nhằm mục đích thu lợi nhuận: Tại hợp đồng tín dụng các bên luôn có thỏa thuận một tỷ lệ phần trăm (%) tiền lãi nhất định. Theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 thì ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng nên mục tiêu lợi nhuận là mục đích kinh doanh chính mà các ngân hàng thương mại hướng tới.

Thứ bảy, hợp đồng tín dụng thường kèm theo biện pháp bảo đảm, các biện pháp bảo đảm cho các nghĩa vụ nợ phát sinh từ hợp đồng tín dụng thường dựa theo ý chí của các bên từ việc xác định các tiêu chí về rủi ro tín dụng và xếp hạng khách hàng dẫn đến việc bên vay có được vay số tiền mình có nhu cầu hay không? Do hợp đồng tín dụng vốn chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn cho quyền lợi của bên cho vay nên việc thiết lập cơ sở pháp lý để có thêm nguồn thu nợ thứ hai dựa trên biện pháp bảo đảm thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền sở hữu của người đi vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba nhằm bảo vệ quyền lợi của người cho vay, khi nguồn thu nợ thứ nhất không xảy ra. Thông thường nguồn thu nợ thứ nhất, nếu là cho vay để kinh doanh là từ doanh thu thực tế nếu cho vay ngắn hạn, từ lợi nhuận và khấu hao nếu cho vay trung và dài hạn. Trong cho vay tiêu dùng, là từ thu nhập cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập từ các sản phẩm tài chính, như cổ tức, lợi tức trái phiếu, lãi tiền gửi…

2.1.3 Phân loại hợp đồng tín dụng:

Việc phân loại cho vay của tổ chức tín dụng có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Điều đó thể hiện ở chỗ, dựa vào kết quả phân loại cho vay mà các nhà làm luật có thể xây dựng thành những quy chế cho vay phù hợp với hoạt động thực tiễn nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng. Mặt khác cũng dựa trên kết quả phân loại cho vay mà mỗi tổ chức tín dụng có thể xây dựng, hoạch định cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp, mang tính khả thi và hiệu quả. Đặc biệt việc phân loại cho vay còn giúp cho các tổ chức tín dụng có cơ sở lý luận để xây dựng thành các quy tắc kỹ thuật nghiệp vụ tương ứng với từng loại hình nghiệp vụ cho vay nhằm phục vụ cho việc triển khai các hoạt động cho vay của mình trong thực tiễn. Ngoài ra, việc phân loại hợp đồng tín dụng như trên có ý nghĩa thực tiễn như sau: Xác định đúng bản chất quan hệ tranh chấp từ quan hệ vay vốn hay quan hệ bảo đảm tiền vay, quan hệ hợp đồng kinh tế hay quan hệ hợp đồng dân sự. Và xác định đúng bên nào trong quan hệ  hợp đồng tín dụng có lỗi để từ đó mới có những phương án để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của bên đi vay.

Thứ nhất, phân loại hợp đồng tín dụng dựa vào thời hạn vay:

  • Hợp đồng tín dụng ngắn hạn: Loại hợp đồng này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với ngân hàng thương mại, tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất.
  • Hợp đồng tín dụng trung hạn và dài hạn: Loại hợp đồng tín dụng này có thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thỏa thuận từ trên một năm trở lên. Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hợp đồng tín dụng trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng. Mục đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định như: đầu tư mua máy móc trang thiết bị …
  • Hợp đồng tín dụng dài hạn: là các khoản vay có thời hạn vay từ trên 60 tháng trở lên. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ, đầu tư vào các dự án đầu tư. Thời gian thu hồi vốn của các chủ thể có nhu cầu vay là tương đối lâu do các chủ thể này phải có thời gian kinh doanh lâu dài như: vay vốn để đầu tư xây dựng khách sạn để kinh doanh, xây dựng cơ sở sản xuất…

Thứ hai, phân loại hợp đồng tín dụng dựa vào tính chất có bảo đảm của khoản vay:

  • Hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản là sự thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng với khách hàng vay, theo đó tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn với điều kiện phải có tài sản cầm cố, thế chấp của bên vay hoặc của bên thứ ba (bên bảo lãnh) để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay.
  • Hợp đồng tín dụng không bảo đảm bằng tài sản là hợp đồng tín dụng không có biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh kèm theo. Việc cho vay này được thực hiên trên cơ sở đánh giá, xếp loại uy tín của khách hàng.

Thứ ba, phân loại hợp đồng tín dụng dựa vào mục đích sử dụng vốn vay:

  • Hợp đồng tín dụng với mục đích vay vốn kinh doanh: đây là hợp đồng tín dụng mà trong đó các bên cam kết số tiền vay sẽ được bên vay sử dụng vào mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình.
  • Hợp đồng tín dụng với mục đích vay tiêu dùng: đây là hợp đồng tín dụng mà trong đó các bên cam kết số tiền vay sẽ được bên vay sử dụng vào việc thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu dùng như mua sắm đồ gia dụng, mua sắm nhà cửa.

Ngoài các căn cứ trên để phân loại hợp đồng tín dụng, thì theo các quy định của pháp luật một số nước trên thế giới còn phân loại hợp đồng tín dụng theo một số căn cứ khác.

2.1.4 Hình thức của hợp đồng tín dụng

Hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch. Thông qua phương tiện này, bên đối tác cũng như người thứ ba có thể biết được nội dung của giao dịch đã được xác lập. Hình thức của giao dịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tố tụng dân sự . Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa các bên, qua đó xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm xảy ra.

Giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản. Người xác lập giao dịch có quyền lựa chọn hình thức của giao dịch đó. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới yêu cầu về hình thức buộc các chủ thể phải tuân thủ theo (yêu cầu phải lập bằng văn bản, phải công chứng, chứng thực, đăng kí, xin phép). Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng kí, xin phép thì phải tuân theo quy định đó

Theo đó, hình thức của hợp đồng tín dụng phải được lập thành văn bản, có các nội dung đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Thỏa thuận cho vay này được lập dưới hình thức thỏa thuận cho vay hoặc thỏa thuận khung và thỏa thuận cho vay cụ thể. Để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của khách hàng vay, thực hiện quy định tại Điều 405, Điều 406 Bộ luật dân sự 2015, Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng, quy định rõ: Trường hợp sử dụng hợp đồng mẫu hoặc điều kiện giao dịch chung trong giao kết thỏa thuận cho vay, tổ chức tín dụng phải thực hiện:

  • Niêm yết công khai hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung về cho vay tại trụ sở và đăng tải trên trang thông tin điện tử của tổ chức tín dụng;
  • Cung cấp đầy đủ thông tin về hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung cho khách hàng biết trước khi ký kết thỏa thuận cho vay và có xác nhạn của khách hàng về việc đã được tổ chức tín dụng cung cấp đầy đủ thông tin; Đồng thời, Tổ chức tín dụng có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin theo quy định cho khách hàng trước khi kí kết hợp đồng vay vốn.

Theo quy định của pháp luật, thì chỉ có hợp đồng tín dụng nhưng do truyền thống, do yêu cầu thực tế nên bên cạnh hợp đồng tín dụng, các ngân hàng thường đưa ra thêm một loại văn bản nữa là khế ước nhận nợ, là một loại giấy nhận nợ. Khế ước nhận nợ thường cũng đủ các yếu tố chủ yếu của một hợp đồng tín dụng.

2.1.5 Chủ thể hợp đồng tín dụng

Quan hệ pháp luật tín dụng ngân hàng là quan hệ tài sản – hàng hóa phát sinh trong quá trình sử dụng vốn tạm thời giữa các tổ chức tín dụng và các tổ chức, cá nhân theo nguyên tắc có hoàn trả, dựa trên cơ sở tín nhiệm hoặc có sự bảo đảm, được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Tham gia quan hệ này có ít nhất gồm hai chủ thể là bên vay và bên cho vay.

2.1.5.1 Bên cho vay

Bên cho vay là tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, bao gồm[3]:

  • Ngân hàng thương mại;
  • Ngân hàng hợp tác xã;
  • Tổ chức tín dụng phi ngân hàng;
  • Tổ chức tài chính vi mô;
  • Quỹ tín dụng nhân dân;
  • Chi nhánh ngân hàng nước ngoài;

2.1.5.2 Bên vay

Khách hàng vay vốn tại tổ chức tín dụng (sau đây gọi là khách hàng) là pháp nhân, cá nhân, bao gồm[4]:

  • Pháp nhân được thành lập và hoạt động tại Việt Nam, pháp nhân được thành lập ở nước ngoài và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam;
  • Cá nhân có quốc tịch Việt Nam, cá nhân có quốc tịch nước ngoài.

Khách hàng là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi sự theo quy định của pháp luật. Quá trình tìm hiểu, so sánh với Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Ngân hàng nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, Thông tư 39/2016/TT-NHNN bổ sung thêm đối tượng là cá nhân vay vốn là cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. (Theo quy định tại các Khoản 2, 3 Điều 2 và Khoản 1, Điều 7 – Thông tư 39/2016/TT-NHNN)

Như vậy, có thể thấy, quy định về chủ thể là khách hàng vay tại tổ chức tín dụng tại Khoản 3, Điều 2 thông tư 39/2016/TT-NHNN là một điểm sửa đổi đáng chú ý so với quy định tại Điều 2, Khoản 2 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN. Theo quy định mới, ba chủ thể là hộ gia đình, tổ hợp tác và doanh nghiệp tư nhân không còn thỏa mãn là khách hàng vay vốn tại tổ chức tín dụng nữa. Quy định này được hiểu, không phải hộ gia đình, tổ hợp tác và doanh nghiệp tư nhân không tiếp cận được nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng mà là không đủ tư cách chủ thể vay vốn tại tổ chức tín dụng và chủ sở hữu hộ gia đình, chủ sở hữu doanh nghiệp không đương nhiên làm người đại diện giao dịch như trước đây nữa. Trường hợp vay phục vụ hoạt động kinh doanh, hoạt động khác, khách hàng vay là cá nhân có thể vay để đáp ứng nhu cầu vay vốn của chính cá nhân đó và nhu cầu vay vốn của cơ sở kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân mà cá nhân đó là chủ hộ kinh doanh, chủ hộ doanh nghiệp tư nhân. Lúc này, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân sẽ phải xác định dưới tư cách của một hoặc một số cá nhân xác định.

2.2. Tổng quan về quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng và sự cần thiết bảo vệ quyền lợi của bên vay trong hợp đồng tín dụng

2.2.1 Khái niệm bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng

Ai sinh ra trên thế giới đều được hưởng món quà của tạo hóa, đó là quyền của con người, đây không còn là khái niệm xa lạ trong lịch sử pháp luật của nhân loại[5]. Bên vay gồm cá nhân, tổ chức,… và đại diện cũng là con người nên họ có quyền được hưởng những gì thuộc về họ. Vậy khái niệm bảo vệ quyền vủa bên vay trong hợp đồng tín dụng là những hoạt động của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc của chính bên vay để giúp bên vay bảo vệ được các quyền vốn dĩ thuộc về mình. Góp phần hạn chế những rủi ro mà họ có thể gặp phải khi có tranh chấp xảy ra.

2.2.2 Các quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng

Quyền của bên vay trong hợp đồng tín dung là thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ các quyền hợp pháp mà bên vay có trong hợp đồng tín dụng. Trên cơ sở Hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng, Chính phủ nhiều nước đã đưa nội dung 8 quyền của người tiêu dùng vào pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của nước mình. Đó là các quyền: Quyền được thoả mãn những nhu cầu cơ bản; Quyền được an toàn; Quyền được thông tin; Quyền được lựa chọn; Quyền được lắng nghe còn được gọi là quyền được đại diện hay quyền được bày tỏ ý kiến của người tiêu dùng; Quyền được khiếu nại và bồi thường; Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng; Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững. Trong 8 quyền nói trên, quyền quan trọng nhất là quyền được thông tin của người tiêu dùng. Bởi vậy, bảo vệ quyền được cung cấp đầy đủ thông tin là cơ sở rất quan trọng để hiện thực hóa các quyền khác của người tiêu dùng.

Vậy, trong hợp đồng tín dụng, bên vay có các quyền sau:

2.2.2.1 Quyền được giải ngân của bên vay

Để hiểu được quyền giải ngân của bên vay trước hết ta tìm hiểu khái niệm thế nào là “giải ngân”. Có rất nhiều cách khác nhau để định nghĩa từ “giải ngân”.

Nếu giải thích từ “giải ngân” theo cách giải thích từ ngữ thì “giải” là “chi”, “ngân” là “tiền”. “Giải ngân” là đưa tiền mặt, đưa vốn vào hoạt động, lưu thông hoặc thực hiện dự án[6].

Ngoài ra, còn có cách giải thích khác của từ “giải ngân”. “Giải ngân” là nhận được tiền khi hoàn thành từng bước trong kế hoạch hoặc dự án, là giải quyết tiền bạc theo từng bước công việc, “giải ngân” chỉ được thực hiện khi hoàn thành xong công việc của mỗi bước trước rồi sau đó mới được nhận tiền[7].

Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư Thông tư số 09/2012/TT-NHNN Quy định việc sử dụng các phương tiện thanh toán để giải ngân vốn cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng: “Giải ngân vốn cho vay là việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài giao cho khách hàng vay một khoản tiền để thanh toán, chi trả cho bên thụ hưởng theo mục đích vay vốn ghi trong hợp đồng tín dụng được ký kết giữa khách hàng vay với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”.

Hay “giải ngân” là thuật ngữ được sử dụng nhiều trong ngân hàng. “Giải ngân” vốn nghĩa là “ngân hàng” xuất (giải quyết) tiền bạc, tài chính (ngân) theo hợp đồng thoả thuận vay mượn cho “khách hàng” để giải quyết một công việc đã được tính toán theo một kế hoạch cụ thể.

“Giải ngân” được sử dụng trong quá trình vay vốn ngân hàng. Sau khi thực hiện các thủ tục vay, đã được ngân hàng chấp thuận, bước giải ngân là việc ngân hàng chi tiền cho từng đợt nhận nợ của khách hàng. Đối với một  hợp đồng vay có thể xảy ra các trường hợp, giải ngân một lần hoặc giải ngân từng lần.

“Giải ngân” là một trong năm bước chính của quy trình tín dụng tức là khách hàng nộp hồ sơ vay vốn cho ngân hàng, sau đó ngân hàng sẽ kiểm tra tính hợp pháp hợp lệ của hồ sơ, điều kiện tài chính, khả năng sinh lời của dự án…nếu đồng ý thì lập hợp đồng tín dụng với khách hàng trong hợp đồng tín dụng sẽ có ghi rõ điều kiện giải ngân (xuất tiền) cho khách hàng một cách cụ thể do hai bên thoả thuận với nhau (một hay nhiều lần), khi đến kỳ thì người vay sẽ làm công văn thông báo tới ngân hàng yêu cầu giải ngân.Tác giả sẽ đưa ra một ví dụ về “giải ngân” để chúng ta có thể hiểu rõ hơn về khái niệm này:

“Bạn có quyết định cho một người khác mượn một số tiền lớn với lãi suất rất thấp, hầu như lãi suấ́t là cho có lệ, với điều kiện là người mượn phải cam kết sử dụng số tiền được vay vào một mục đích cụ thể có lợi ích thiết thực cho nhiều người, như đầu tư xây dựng một khu chung cư chẳng hạn , và bạn giao số tiền cần thiết cho kế hoạch đó cho một đại diện, người hay tổ chức đại diện này sẽ giữ số tiền đó, ́do đó bạn yêu cầu người vay mượn phải đưa ra một kế hoạch chi tiết cụ thể, và trong kế hoạch đó, người thực vay phải cụ thể từng bước thực hiện công việc, mỗi bước như vậy cần bao nhiêu tiền trong tổng số tiền được vay, và tổ chức hay người đại diện của bạn sẽ căn cứ vào kế hoạch đó để giao số tiền cần cho từng bước thực hiện, cứ thế, khi người vay thực hiện xong bước này, mới tiếp tục bước tiếp theo, không chồng tréo lẫn nhau,  và số tiền được cho vay sẽ được giao cho họ cho kịp tiến độ công việc, cho tới khi hoàn thành hoàn toàn kế hoạch thì đồng thời số tiền được vay mượn cũng vừa hết. Như vậy tiền cần cho kế hoạch thì có sẵn, nhưng để lấy được tiền thì cần phải hoàn thành từng bước kế hoạch, đó gọi là giải ngân, giải quyết tiền bạc theo từng chặng công việc, chỉ khi hoàn thành chặng trước mới được nhận tiền cho chặng sau”[8].

Các trường hợp được giải ngân quy định tại Thông tư 09/2012/TT-NHNN. Cụ thể tại khoản 2 Điều 3: “2. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài xem xét quyết định việc sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, hoặc bằng tiền mặt, hoặc thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng vay để giải ngân vốn cho vay đối với các trường hợp:

a) Thanh toán cho bên thụ hưởng là tổ chức với số tiền dưới 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) cho một lần giải ngân;

b) Thanh toán cho bên thụ hưởng là cá nhân có tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán với số tiền dưới 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) cho một lần giải ngân;

c) Thanh toán cho bên thụ hưởng là cá nhân không có tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán;

d) Để bù đắp phần vốn tự có, nguồn tài chính mà khách hàng vay đã sử dụng để thực hiện dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống;

đ) Để trả lương cho người lao động;

e) Chuyển tiền vay vào tài khoản thanh toán của khách hàng để khách hàng thanh toán cho các mục đích mà pháp luật quy định phải thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng vay”.

Theo Dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 09/2012/TT-NHNN quy định việc sử dụng các phương tiện thanh toán để giải ngân vốn cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng, chỉ còn hai trường hợp được giải ngân vốn vay bằng tiền mặt. Để phù hợp với chủ trương của Chính phủ về đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, dự thảo Thông tư quy định theo hướng thu hẹp. Cụ thể, các tổ chức tín dụng chỉ giải ngân trong trường hợp thanh toán cho bên thụ hưởng là cá nhân có tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán với số tiền vay dưới 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng); Thanh toán cho bên thụ hưởng là tổ chức sử dụng vốn nhà nước được thanh toán bằng tiền mặt theo quy định của pháp luật.

2.2.2.2 Quyền được bảo đảm bí mật thông tin của bên vay

Quy định về vấn đề bảo vệ thông tin của bên vay trong tín dụng ngân hàng đóng vai trò rất quân trọng. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã đưa nguyên tắc bảo vệ thông tin của người tiêu dùng thành một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật, trong đó khẳng định: Người tiêu dùng được bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. Trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm: thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với người tiêu dùng về mục đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng; sử dụng thông tin phù hợp với mục đích đã thông báo với người tiêu dùng và phải được người tiêu dùng đồng ý; bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ khi thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng; tự mình hoặc có biện pháp để người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông tin khi phát hiện thấy thông tin đó không chính xác; chỉ được chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trong pháp luật ngân hàng, đảm bảo bí mật thông tin bên vay là một trong những vấn đề quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Thực tế, việc rò rỉ thông tin khách hàng đã khiến một số tổ chức tín dụng mất đi nhiều khách hàng tiềm năng mà họ đã phải mất khá nhiều thời gian để xây dựng mối quan hệ ấy[9]. Đứng trên phương diện bên vay, việc rò rỉ thông tin sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy đặc biệt là trong việc kinh doanh của họ. Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và truyền thông, các tổ chức tín dụng đã triển khai nhiều dịch vụ thanh toán mới phù hợp với xu thế thanh toán của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Nội dung của đảm bảo bí mật thông tin khách hàng được ghi nhận ở nhiều cấp độ văn bản khác nhau. Hiến pháp Việt Nam hiện hành đã có quy định về quyền được đảm bảo bí mật thông tin của cá nhân: “Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác”[10]. Mặc dù quy định này chỉ ghi nhận quyền của cá nhân đối với bí mật thư tín, điện thoại, điện tín nhưng nó có ý nghĩa cho phép các nhà làm luật trên cơ sở này xây dựng những quy định về đảm bảo bí mật thông tin trong nhiều lĩnh vực khác, trong đó có lĩnh vực ngân hàng.

Trên cơ sở của Hiến pháp Việt Nam, Quốc hội – cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với các hoạt động của nhà nước3 đã ban hành nhiều đạo luật đảm bảo thực hiện hóa quyền được đảm bảo bí mật thông tin của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực chuyên biệt – lĩnh vực hoạt động ngân hàng. (Bảng 1)[11]

Bảng 1. Nội dung các quy định về đảm bảo bí mật thông tin khách hàng trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng trong các đạo luật do Quốc hội ban hành

STT Tên đạo luật Nội dung điều chỉnh bảo mật thông tin khách hàng
1 Bộ luật Dân sự năm 2015 – Ghi nhận nghĩa vụ chung về đảm bảo bí mật thông tin khách hàng: các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 38)

– Đảm bảo bí mật thông tin được đề cập cụ thể trong các quy định về giao kết hợp đồng, cung ứng dịch vụ bao gồm:

+ Trách nhiệm đảm bảo bí mật thông tin và không được sử dụng thông tin cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác trong quá trình giao kết hợp đồng (Điều 387)

+ Bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong thời gian thực hiện công việc, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định (Điều 517)

+ Bên được ủy quyền có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong khi thực hiện việc uỷ quyền (Điều 565)

– Quy định chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ, cách thức xác định trách nhiệm dân sự đối với những chủ thể vi phạm: Điều 387, Điều 517, Điều 565, Điều 351, 361, 364, 584

2 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010 – Ghi nhận quyền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được từ chối cung cấp thông tin trong một số trường hợp luật định.

– Quy định trách nhiệm của cán bộ, công chức Ngân hàng Nhà nước phải giữ bí mật thông tin hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước, của các Tổ chức tín dụng và bí mật tiền gửi của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật (Điều 38)

3 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 – Ghi nhận nghĩa vụ phải bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng tại Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; không được cung cấp thông tin này cho tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng (Điều 13, Điều 14)

– Quy định trách nhiệm từ chối việc điều tra, phong tỏa, cầm giữ, trích chuyển tiền gửi của khách hàng, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng (Điều 10)

4 Luật Công nghệ thông tin năm 2006 – Ghi nhận nghĩa vụ phải tiến hành các biện pháp quản lý, kỹ thuật cần thiết để bảo đảm thông tin cá nhân không bị mất, đánh cắp, tiết lộ, thay đổi hoặc phá huỷ khi thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân trên môi trường mạng (Điều 21); không được cung cấp thông tin cá nhân của người khác cho bên thứ ba, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc có sự đồng ý của người đó (Điều 22)

– Nghĩa vụ phải bảo đảm bí mật thông tin riêng hợp pháp của tổ chức, cá nhân trao đổi, truyền đưa, lưu trữ trên môi trường mạng theo quy định của pháp luật (Điều 72)

– Ghi nhận quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm trong việc cung cấp thông tin cá nhân (Điều 22).

– Quy định về hình thức xử lý khi vi phạm nghĩa vụ, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật (Điều 77)

5 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 – Ghi nhận quyền của người tiêu dùng được bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng (Điều 6)

– Quy định các biện pháp chế tài tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm: bị xử lý kỷ luật, phạt vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, phải bồi thường thiệt hại (Điều 11)

6 Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 – Ghi nhận nguyên tắc bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng:

Chủ thể xử lý thông tin cá nhân có trách nhiệm bảo đảm an toàn thông tin mạng đối với thông tin do mình xử lý; phải xây dựng và công bố công khai biện pháp xử lý, bảo vệ thông tin cá nhân của tổ chức, cá nhân mình (Điều 16)

– Quy định trách nhiệm của các chủ thể thu thập và sử dụng thông tin cá nhân: thu thập thông tin cá nhân sau khi có sự đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân về phạm vi, mục đích của việc thu thập và sử dụng thông tin đó; chỉ sử dụng thông tin cá nhân đã thu thập vào mục đích khác mục đích ban đầu sau khi có sự đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân; không được cung cấp, chia sẻ, phát tán thông tin cá nhân mà mình đã thu thập, tiếp cận, kiểm soát cho bên thứ ba, trừ trường hợp có sự đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân đó hoặc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Điều 17)

– Quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng như: thiết lập kênh thông tin trực tuyến để tiếp nhận kiến nghị, phản ánh của tổ chức, cá nhân liên quan đến bảo đảm an toàn thông tin cá nhân trên mạng. Định kỳ hằng năm tổ chức thanh tra, kiểm tra đối với tổ chức, cá nhân xử lý thông tin cá nhân; tổ chức thanh tra, kiểm tra đột xuất trong trường hợp cần thiết (Điều 20)

7 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 Quy định về chủ thể, mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng từ đó làm cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm hành chính có liên quan trong hoạt động đảm bảo bí mật thông tin khách hàng của tổ chức hoạt động ngân hàng[12]
8 Bộ luật Hình sự năm 2015 – Ghi nhận tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn; tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ Điều 356, Điều 357; tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác (Điều 361); tội vô ý làm lộ bí mật công tác; tội làm mất tài liệu bí mật công tác (Điều 362)

– Ngoài ra, BLHS năm 2015 cũng đã quy định cụ thể về tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291).

 

Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản để cụ thể hóa hoạt động quản lý trong lĩnh vực ngân hàng.
(Bảng 2)

Bảng 2. Tên văn bản hướng dẫn về hoạt động đảm bảo bí mật thông tin của khách hàng trong hoạt động ngân hàng

STT Tên văn bản Nội dung
1 Nghị định số 70/2000/NĐ-CP ngày 22/11/2000 Giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng
2 Nghị định 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng
3 Thông tư số 02/2001/TT-NHHH ngày 04/4/2001  Hướng dẫn thực hiện nghị định số 70/2000/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2000 của Chính phủ về việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng
4 Quyết định số 1004/2001/QĐ-NHNN ngày 08/8/2001 Về việc sửa đổi tiết a điểm 2.2 Mục II Thông tư số 02/2001/TT-NHNN
5 Thông tư số 08/VBHN-NHNN ngày 21/5/2014 Văn bản hợp nhất Thông tư hướng dẫn Nghị định 70/2000/NĐ-CP về giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành
6 Thông tư 03/2013/TT- NHNN ngày 28/1/2013 Hoạt động thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
7 Quyết định số 35/2006/QĐ-NHNN ngày 31/7/2006 Các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện tử
8 Thông tư số 29/2011/TT-NHNN ngày 21/9/2011 Quy định về về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên mạng Internet
9 Thông tư số 35/2016/TT-NHNN ngày 29/12/2016 Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên internet
10 Thông tư 36/2012/TT-NHNN ngày 28/12/2012 Quy định về trang bị, quản lý, vận hành và đảm bảo an toàn hoạt động của máy giao dịch tự động
11 Thông tư số 31/2015/TT-NHNN ngày 28/12/2015 Quy định về đảm bảo an toàn, bảo mật hệ thống công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng

2.2.2.3 Quyền được khiếu nại, khởi kiện của bên vay

Khái niệm “khiếu nại” đã được quy định trong Luật khiếu nại 2011. Cụ thể tại khoản 1 Điều 2 như sau: “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.

Khái niệm “khởi kiện” được quy định trong Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Cụ thể được quy định tại khoản 8 Điều 2: “Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, danh sách cử tri trưng cầu ý dân. Nói tóm lại, khiếu kiện – khởi kiện là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính đến Tòa án hay còn gọi là khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính”.

Quyền khiếu nại, khởi kiện là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận tại khoản 1 Điều 30 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”

Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao tại Văn bản số 152/TANDTC-PC về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, xử lý nợ xấu, thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ (Điều 184 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Thời điểm phát sinh tranh chấp dân sự quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 103/2015/QH13 là ngày khởi kiện. Việc xác định ngày khởi kiện được thực hiện theo quy định tại khoản 2, 3 và 4 Điều 190 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Quy định về thời hiệu khởi kiện tại Điều 159 và điểm h khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 được áp dụng đến hết ngày 31-12-2016 để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự.

Từ ngày 01/01/2017, Tòa án áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, Bộ luật Dân sự năm 2015 và luật khác có liên quan về thời hiệu khởi kiện để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự (Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành BLTTDS và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính).

2.2.2.4 Quyền đàm phán, thương lượng trong hợp đồng tín dụng

Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể các điều khoản do các bên có đủ tư cách chủ thể cam kết với nhau một các tự nguyện, bình đẳng và không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Nội dung của hợp đồng tín dụng phải do các bên tự định đoạt trên nguyên tắc đồng thuận về ý chí và thõa mãn các điều kiện.

Theo đó, quyền đàm phán, thương lượng các nội dung trong hợp đồng tín dụng của bên vay là việc bên vay có quyền thỏa thuận với bên cho vay – tổ chức tín dụng các vấn đề của hợp đồng rằng bên vay đồng ý hay không đồng ý với các điều khoản mà bên cho vay đã đưa ra.

Để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động cho vay, bảo vệ quyền lợi của người vay, Thông tư 39/2016/TT-NHNN đã bổ sung nhiều quy định về trách nhiệm của tổ chức tín dụng như về công khai hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung, thực hiện quy định tại Điều 405, 406 Bộ luật Dân sự 2015, Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định trường hợp sử dụng hợp đồng theo mẫu hoặc điều kiện giao dịch chung trong giao kết thỏa thuận cho vay, Tổ chức tín dụng phải thực hiện: (i) Niêm yết công khai hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung về cho vay tại trụ sở và đăng tải trên trang thông tin điện tử của Tổ chức tín dụng; (ii) Cung cấp đầy đủ thông tin về hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung cho khách hàng biết trước khi ký kết thỏa thuận cho vay và có xác nhận của khách hàng về việc đã được Tổ chức tín dụng cung cấp đầy đủ thông tin.

2.2.2.5 Quyền được trả nợ trước hạn của bên vay

Trả nợ trước hạn là việc bên vay trả số tiền mà bên vay đã vay của các tổ chức tín dụng trước thời hạn theo quy định của hợp đồng tín dụng.

Việc trả nợ trước hạn được quy định tại khoản 2 Điều 18 Thông tư 39/2016/TT-NHNN: “Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về việc trả nợ trước hạn”. Theo đó, tổ chức tín dụng và bên vay có quyền thỏa thuận về mức phí phải trả trong trường hợp bên vay trả nợ trước hạn.

2.2.2.6 Quyền được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ của bên vay

Để tìm hiểu về quyền được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ của bên vay trước tiên ta phải hiểu kỳ hạn trả nợ là gì? Khái niệm này quy định rất rõ tại khoản 9 Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN: “Kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã thỏa thuận mà tại cuối mỗi khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay cho tổ chức tín dụng”. Vậy, “a) Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ là việc tổ chức tín dụng chấp thuận kéo dài thêm một khoảng thời gian trả nợ một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay của kỳ hạn trả nợ đã thỏa thuận (bao gồm cả trường hợp không thay đổi về số kỳ hạn trả nợ đã thỏa thuận), thời hạn cho vay không thay đổi;”[13]

Theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 19: Tổ chức tín dụng xem xét quyết định việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên cơ sở đề nghị của khách hàng, khả năng tài chính của tổ chức tín dụng và kết quả đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, như sau:

Khách hàng không có khả năng trả nợ đúng kỳ hạn nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay và được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay theo kỳ hạn trả nợ được điều chỉnh, thì tổ chức tín dụng xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay đó phù hợp với nguồn trả nợ của khách hàng; thời hạn cho vay không thay đổi.

Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ được thực hiện trước hoặc trong thời hạn 10 (mười) ngày kể từ ngày đến kỳ hạn, thời hạn trả nợ đã thỏa thuận.

Điều đó có nghĩa là khi khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn và được tổ chức tín dụng đành giá là có khả năng trả đầy đủ nợ theo kỳ hạn được điều chỉnh thì tổ chức tín dụng sẽ xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho bên vay.

Còn “Gia hạn nợ là việc tổ chức tín dụng chấp thuận kéo dài thêm một khoảng thời gian trả nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay, vượt quá thời hạn cho vay đã thoả thuận.”[14]

Để đảm bảo được quyền lợi của bên vay khi đến kỳ hạn trả nợ mà bên vay vẫn chưa có đủ tiền để trả cho bên cho vay thì bên vay có quyền đề nghị tổ chức tín dụng gia hạn nợ cho mình. Và tùy từng trường hợp mà tổ chức tín dụng sẽ ra quyết định có chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị của bên vay. Nhưng dù sao, pháp luật tín dụng vẫn tạo điều kiện cho bên vay trả nợ được thông qua quyền được gia hạn nợ.

2.2.2.7 Quyền được miễn, giảm lãi suất cho vay

Lãi suất là biểu hiện giá cả khoản tiền mà người cho vay đòi hỏi khi tạm thời trao quyền sử dụng của mình cho người khác. Lãi suất luôn luôn hàm chứa mâu thuẫn là người cho vay luôn muốn có lãi suất cao nhất, trong khi người vay luôn muốn có lãi suất thấp nhất vì vậy lãi suất được xác định chủ yếu bởi quy luật cung và cầu.

Lãi suất cho vay được quy định tại Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN Quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Tại khoản 1 quy định: “1. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng, trừ trường hợp Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quy định về lãi suất cho vay tối đa tại khoản 2 Điều này”. Khoản 2 quy định: “2. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam nhưng không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn:

a) Phục vụ lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn theo quy định của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;

b) Thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu theo quy định tại Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn Luật thương mại;

c) Phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;

d) Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ theo quy định của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ;

đ) Phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy định tại Luật công nghệ cao và các văn bản hướng dẫn Luật công nghệ cao”.

“3. Nội dung thỏa thuận về lãi suất cho vay bao gồm mức lãi suất cho vay và phương pháp tính lãi đối với khoản vay. Trường hợp mức lãi suất cho vay không quy đổi theo tỷ lệ %/năm và/hoặc không áp dụng phương pháp tính lãi theo số dư nợ cho vay thực tế, thời gian duy trì số dư nợ gốc thực tế đó, thì trong thỏa thuận cho vay phải có nội dung về mức lãi suất quy đổi theo tỷ lệ %/năm (một năm là ba trăm sáu mươi lăm ngày) tính theo số dư nợ cho vay thực tế và thời gian duy trì số dư nợ cho vay thực tế đó”.

Khi đến hạn thanh toán mà khách hàng không trả hoặc trả không đầy đủ nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay theo thỏa thuận, thì khách hàng phải trả lãi tiền vay như sau:

a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất cho vay đã thỏa thuận tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả;

b) Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi theo quy định tại điểm a khoản này, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả;

c) Trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi trên dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất áp dụng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn.

Trường hợp áp dụng lãi suất cho vay điều chỉnh, tổ chức tín dụng và khách hàng phải thỏa thuận nguyên tắc và các yếu tố để xác định lãi suất điều chỉnh, thời điểm điều chỉnh lãi suất cho vay. Trường hợp căn cứ các yếu tố để xác định lãi suất điều chỉnh dẫn đến có nhiều mức lãi suất cho vay khác, thì tổ chức tín dụng áp dụng mức lãi suất cho vay thấp nhất”.

Theo đó, việc miễn, giảm lãi tiền vay được quy định tại khoản 4 Điều 21 Thông tư 39/2016/TT-NHNN: “4. Tổ chức tín dụng có quyền quyết định miễn, giảm lãi tiền vay, phí cho khách hàng theo quy định nội bộ của tổ chức tín dụng”. Điều đó có nghĩa là việc miễn, giảm tiền lãi vay cho bên vay sẽ được thực hiện theo quy định nội bộ của tổ chức tín dụng.

2.2.3 Nội dung pháp luật bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng

2.2.3.1 Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng

Pháp luật bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa bên vay và bên cho vay trong hợp đồng tín dụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bên vay.

2.2.3.2 Nội dung pháp luật bảo vệ quyền của bên vay

Pháp luật bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng có nội dung cơ bản bao gồm các quy định về quyền và nghĩa vụ của bên vay, trách nhiệm của bên cho vay đối với bên vay khi có tranh chấp xảy ra, phương thức giải quyết tranh chấp và vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của bên vay.

2.2.4 Sự cần thiết bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng

Bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng bởi lẽ bên vay gồm nhiều đối tượng như cá nhân, doanh nghiệp,… Và không hẳn ai cũng có kiến thức tốt, am hiểu tường tận những rủi ro pháp lý có thể xảy đến trong quá trình họ đi vay của tổ chức tín dụng. Với danh nghĩa là bên yếu thế hơn trong quan hệ hợp đồng mà cụ thể là trong quan hệ vay tài sản, pháp luật bảo vệ quyền của bên vay ra đời để “cứu cánh” cho bên vay trong những tình huống khó khăn nhất.

CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA BÊN VAY TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

3.1. Các phương thức bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng

Tranh chấp hợp đồng tín dụng có thể giải quyết theo nhiều phương thức khác nhau, có thể thông qua thương lượng, hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua cơ quan tài phán là trọng tài hoặc Tòa án.

– Phương thức thương lượng:

Luôn được các bên ưu tiên khi xảy ra tranh chấp. Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp theo đó các bên tranh chấp tự thỏa thuận, bàn bạc với nhau nhằm chấm dứt tranh chấp phát sinh giữa họ. Phương thức này có ưu điểm là linh hoạt, đơn giản, giữ được tình cảm, ít tốn kèm và không ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý phức tạp. Uy  tín và bí mật kinh doanh của các bên sẽ được đảm bảo tối đa.

– Hòa giải:

Hòa giải là việc các bên tiến hành thương lượng giiar quyết tranh chấp với sự hỗ trợ của bên thứ ba là hòa giải viên. Kết quả hòa giải phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng trung gian hòa giair, quyết định cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp không phải của hòa giải viên mà là của bên tranh chấp. phương thức này được tiến hàng nhanh gọn, chi phí thấp, các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kì người nào làm tung gian hòa giải cũng như địa điểm tiến hành hòa giải.

– Phương thức trọng tài

Là một phương thức pháp lý để giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án, theo đó các bên tranh chấp hợp đồng tín dụng thỏa thuận đưa tranh chấp của mình đến một trọng tài viên hay một hội đồng trọng tài để giải quyết theo quy định của luật áp dụng và chịu sự ràng buộc về mặt pháp lý, tuân thủ phán quyết của trọng tài viên hay hội đồng trọng tài . Hình thức này có ưu điểm là linh hoạt, mềm dẻo. các bên được quyền chọn trọng tài viên, được quyết định ngôn ngữ, địa điểm, thời gian xét xử, tạo quyền chủ động cho các bên. Trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc Tòa án, quyết định trọng tài không được công bố công khai, rộng rãi, Theo nguyên tắc này, họ có thể giữ bí mật kinh doanh cũng như danh dự, uy tín của mình.

– Phương thức Tòa án:

Phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng thông qua Tòa án là hìnnh thức cuối cùng mà các bên lựa chọn trong trường hợp việc áp dụng phương thức thương lượng, hòa giải không có hiệu quả và các bên tranh chấp cũng không có thỏa thuận đưa vụ việc ra giiar quyết tại trọng tài. Việc nhờ đến quyền lực nhà nước để giiar quyết mẫu thuẫn là lúc các bên không còn phương thức nào khác nữa. ưu điểm của hình thức này có tính cưỡng chế cao tuy nhiên thiếu linh hoat, cản trở đối với những doanh nghiệp đi vay khi thông tin bí mật kinh doanh bị tiết lộ.

3.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng

3.2.1 Thực tiễn áp dụng quyền được giải ngân cho bên vay

Tranh chấp trong hợp đồng tín dụng là lĩnh vực xảy ra nhiều tranh chấp nhất trong kinh doanh thương mại. Bởi vì, bản chất của hoạt động tín dụng là sự tín nhiệm lẫn nhau giữa một bên là tổ chức tín dụng và bên còn lại là khách hàng vay tiền. Hơn nữa đối tượng trong quan hệ này cũng khá đặc biệt đó là một lượng tiền nhất định, hoạt động này được xem là có rủi ro cao thường xảy ra các tranh chấp do khách hàng vay không thanh toán được nợ hoặc bên cho vay bội ước khi không thực hiện đúng các cam kết của mình, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.

Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng liên quan đến việc giải ngân không đúng quy định phát sinh từ bên cho vay là tổ chức tín dụng xảy ra do có sự vi phạm thể hiện một cách gián tiếp. Tác giả sẽ đưa ra một ví dụ cụ thể như sau:

“Khi khách hàng vay 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) và trong hợp đồng có thỏa thuận là giải ngân một lần bằng tiền mặt hoặc chuyển vào tài khoản của khách hàng, tuy nhiên ít khách hàng nào để ý đến hoặc thắc mắc về quy định giải ngân một cách chung chung đó. Thực tế, thì thời gian nào sẽ giải ngân và số tiền thực tế được giải ngân có đúng với số tiền vay ghi trong hợp đồng hay không? Nếu họ không giao đúng với số tiền ghi trong hợp đồng thì có được gọi là vi phạm hợp đồng không? Ở đây, đa số các tổ chức tín dụng lẩn tránh các quy định này, họ thường vi phạm ở hình thức tinh vi hơn. Nghĩa là với số tiền vay 100 triệu đồng đó với lãi suất 1,00%/tháng, thời hạn vay là 24 tháng và thỏa thuận rằng lãi suất sẽ được trả hàng tháng. Tuy nhiên, trên thực tế ngân hàng giải ngân cho khách hàng chỉ 95 triệu đồng với lý do họ đã thu trước bốn tháng lãi suất cộng với các chi phí thẩm định phương án sản xuất kinh doanh, thẩm định tài sản bảo đảm, công chứng chứng thực…”. Cách giải thích như vậy có đúng không?

Cách giải thích như vậy không đúng nguyên tắc cũng như thỏa thuận trong hợp đồng. Mặt khác, không phù hợp với quy định của pháp luật, bởi các lý do sau:

– Thứ nhất, người đi vay đề nghị vay với số tiền cụ thể để thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, số tiền vay mà người vay đề nghị ít khi nào được tổ chức tín dụng đáp ứng 100%, tổ chức tín dụng thường chấp nhận ở mức thấp hơn đề nghị rất nhiều. Với việc chấp nhận cho vay với mức thấp hơn mức đề nghị đó ít nhiều cũng ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Vô hình chung tổ chức tín dụng đưa khách hàng vay vào chỗ khó khăn, dẫn đến khả năng trả nợ của khách hàng cũng bị ảnh hưởng. Đồng thời, với việc Ngân hàng giải ngân 100 triệu đồng nhưng đã trích lãi suất vốn vay và các chi phí là 5 triệu  thì thực lãnh của người đi vay chỉ là 95 triệu đồng. Số tiền thực lãnh này có thể không đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng, dẫn đến khách hàng sử dụng nguồn vốn vào một mục khác so với ban đầu. Đây cũng là nguyên nhân phát sinh tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng về sau.

Thứ hai, việc quy định các loại phí và buộc bên vay phải trả như vậy không hợp lý. Người đi vay là người đang cần vốn còn người cho vay là người đang có vốn và cũng mong muốn được cho vay khoản vốn đó để thu lãi suất. Quan hệ này là quan hệ hợp tác, bình đẳng cùng có lợi. Trong quan hệ đó thì người đi vay có nghĩa vụ cung cấp các thông tin cần thiết theo yêu cầu của tổ chức tín dụng và phù hợp với pháp luật về phương án sản xuất kinh doanh, phương án sử dụng vốn, chứng từ hợp pháp chứng minh quyền sở hữu tài sản bảo đảm hoặc quyền sử dụng đối với bất động sản. Còn việc thẩm định các phương án sản xuất kinh doanh đó là việc của người cho vay chứ không phải là nghĩa vụ của người vay. Vì thế trong chừng mực nào đó tổ chức tín dụng bắt buộc người vay trả các chi phí nêu trên là không hợp lý và cũng không phù hợp với quy định của pháp luật.

Thứ ba, tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận giải ngân một lần và khách hàng sẽ hoàn trả vốn cộng lãi suất hàng tháng, việc tổ chức tín dụng tự động ứng trước tiền lãi mà đáng lẽ ra khách hàng phải trả vào một khoản thời gian sau nữa là trái quy định của pháp luật, vi phạm nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng. Mặt khác, với việc không quy định cụ thể thời gian giải ngân có thể là một hạn chế lớn của hợp đồng tín dụng.

Tóm lại, giải ngân là nghĩa vụ cơ bản nhất của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên trên thực tế nghĩa vụ này không được các tổ chức tín dụng thực hiện một cách đầy đủ biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau mà doanh nghiệp vay không phát hiện hoặc cho rằng mình đang cần vốn nên sẵn sàng chấp nhận. Đây là yếu tố dẫn đến tranh chấp trong quan hệ hợp đồng tín dụng giữa hai bên.[15] 

3.2.2. Thực tiễn áp dụng quyền được bảo đảm thông tin của bên vay 

Thứ nhất, pháp luật về đảm bảo bí mật thông tin khách hàng chỉ mới quy định về sự cần thiết phải đảm bảo bí mật thông tin khách hàng, các quy định này còn chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể, các điều luật trong các luật chuyên ngành đều được quy định theo hướng “không được cung cấp thông tin này cho tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng”[16]. Vậy, các cơ quan theo luật định nào được quyền cầu các tổ chức tín dụng phải cung cấp thông tin của khách hàng thì chưa được liệt kê một cách cụ thể. Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 và Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 đã có quy định các Tổ chức tín dụng cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước[17] thông qua CIC (CIC: The Credit Information Centre – là một đơn vị sự nghiệp thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)[18] được trao đổi thông tin với nhau về hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài[19] mục đích của việc cung cấp thông tin khách hàng cho các chủ thể trên là nhằm giúp các tổ chức tín dụng hạn chế rủi ro hoạt động nhưng lại không có bất cứ quy định nào về các cơ quan khác theo luật định được yêu cầu các tổ chức tín dụng cung cấp thông tin của khách hàng.

Ngoài ra, pháp luật ngân hàng cũng không hướng dẫn rõ cần có sự đồng ý của khách hàng là như thế nào, trong trường hợp nào, bằng hình thức nào để có thể cung cấp thông tin cho khách hàng hay các chủ thể có liên quan[20]. Có thể thấy rằng pháp luật Việt Nam chưa có quy định một cách bao quát các trường hợp được yêu cầu các tổ chức tín dụng cung cấp thông tin của khách hàng và cũng chưa hướng dẫn cụ thể hình thức được coi là có sự chấp thuận của khách hàng trong việc yêu cầu cung cấp thông tin bí mật của khách hàng[21].

Thứ hai, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 và Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 và các văn bản hướng dẫn hiện hành chỉ mới dừng lại ở việc quy định về đảm bảo bí mật thông tin và cung cấp thông tin có liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng, các thông tin khác của khách hàng như thông tin trong hoạt động cung cấp dịch vụ ủy thác, tư vấn tài chính, thông tin bên vay… hiện chưa được đề cập và điều chỉnh.

Thứ ba, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 và Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2010 đều ghi nhận nghĩa vụ giữ bí mật thông tin về khách hàng[22] và các chế tài mà các tổ chức tín dụng sẽ gánh chịu tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm: bị xử lý kỷ luật, phạt vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, phải bồi thường thiệt hại nhưng lại chưa có quy định để khách hàng có thể bảo vệ mình trong trường hợp có vi phạm xảy ra. Đây là nội dung quan trọng bởi nếu pháp luật chỉ ghi nhận quyền được đảm bảo bí mật thông tin khách hàng, nhưng cũng cần có quy định khách hàng biết phải làm gì trong trường hợp quyền của mình bị xâm phạm. Cụ thể, pháp luật phải quy định rõ ràng trình tự, thủ tục để khách hàng có thể thực hiện quyền của mình khi bị các chủ thể nắm giữ thông tin vi phạm. Hơn nữa, để yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền được đảm bảo bí mật thông tin của mình, khách hàng phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình nhưng với những trường hợp như vậy khách hàng sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc cung cấp các chứng cứ.

3.2.3. Thực tiễn áp dụng quyền khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật

Trong một số hợp đồng tín dụng, thông thường sẽ có các điều khoản hạn chế, loại trừ quyền khiếu nại, khởi kiện của người tiêu dùng. Ngân hàng quy định như sau:

“Khách hàng thừa nhận rằng tại một số thời điểm nhất định có thể sẽ không truy cập, sử dụng và thực hiện được một số hoặc tất cả các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp do việc bảo trì hệ thống hoặc vì bất kỳ lý do nào khác…..mà không có bất kỳ sự khiếu nại nào.”

Đây là quy định hạn chế quyền khiếu nại, khởi kiện của người tiêu dùng. Điều khoản này dẫn đến quy định trên không có hiệu lực.

3.2.4. Thực tiễn áp dụng quyền đàm phán, thương lượng trong hợp đồng tín dụng

Bên vay cần nhận thức rằng giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình bao gồm nhiều khâu: Đề nghị vay vốn và lập hồ sơ tín dụng; Thẩm định hồ sơ tín dụng; Quyết định cho vay; Đàm phán các điều hoản trong hợp đồng và ký kết hợp đồng. Trong đó việc đề nghị vay vốn và lập hồ sơ tín dụng, thẩm định hồ sơ tín dụng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với bên vay.

Thông thường, hợp đồng tín dụng là các hợp đồng mẫu, do đó việc kí kết các hợp đồng mẫu như vậy thường dẫn đến một số bất cập khi áp dụng quy định về lãi suất vay trong Bộ luật Dân sự 2015; về mối quan hệ giữa lãi suất cơ bản với lãi suất vay trong Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 cụ thể:

Thứ nhất, tranh chấp lãi suất nợ quá hạn và cách tính lãi suất đối với khoản nợ quá hạn giữa quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và Quy chế cho vay của Ngân hàng Nhà nước.

Thứ hai, tranh chấp về mức lãi suất trong hạn và cách tính lãi suất trong hạn giữa quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và các quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Quyết định áp dụng hợp đồng mẫu cho các tổ chức tín dụng được Bộ Công thương đưa ra nhằm bảo vệ NTD. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia nhận định, nếu chính những người đi vay không chuẩn bị sẵn cho mình kiến thức tài chính thì dù hợp đồng vay có theo một mẫu chung cũng không phát huy được hết hiệu quả như mong muốn.

Ở Việt Nam, khái niệm giáo dục kiến thức tài chính vẫn còn rất mới mẻ, từ việc xây dựng, quản lý, đến chi tiêu tài chính cá nhân. Do vậy, nâng cao kiến thức tín dụng tiêu dùng chính là việc hướng dẫn người dân kiến thức về tiền, cách làm ra tiền và chi tiêu sao cho đúng và hiệu quả. TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) cho rằng, bên cạnh việc khuyến khích các công ty tài chính mở rộng cho vay đối với tín dụng tiêu dùng, việc đào tạo kiến thức về tín dụng tiêu dùng ngay từ trên ghế nhà trường là một bước đi mang tính lâu dài.

“Việc làm này sẽ giúp người học ý thức được việc quản trị chi tiêu cá nhân ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Những kiến thức học được sẽ giúp hình thành thói quen quản trị tín dụng tiêu dùng và sẽ giúp ích rất nhiều cho cuộc sống sau này của mỗi người dân”, TS. Nguyễn Đức Thành nói.

Theo ThS. Nguyễn Tiến Thành, giảng viên khoa Tài chính – ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế – Đại học Quốc gia Hà Nội, tín dụng tiêu dùng đóng một vai trò quan trọng không chỉ đối với các cá nhân mà còn đối với tổng thể nền kinh tế – xã hội.

“Khi tín dụng tiêu dùng được quan tâm hơn, các cá nhân sẽ có kế hoạch quản lý tài chính phù hợp, khi đó, từ việc chi tiêu, tiết kiệm cho đến đầu tư trở nên hiệu quả hơn rất nhiều. Đây sẽ là đòn bẩy thúc đẩy phát triển các sản phẩm dịch vụ tài chính trên thị trường như: Tiết kiệm, bảo hiểm hay các sản phẩm đầu tư tài chính và nhất là tín dụng tiêu dùng. Thông qua các nhà quản lý hay tư vấn tín dụng tiêu dùng, thông tin về sản phẩm sẽ được đưa tới các nhà đầu tư hay các cá nhân một cách nhanh nhất. Nhờ đó, nền kinh tế một lần nữa được hưởng lợi, phát triển nhanh và bền vững hơn”, ThS. Nguyễn Tiến Thành cho biết.[23]

Quyết định 35/2015/QĐ-TTg  ngày 20/8/2015 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg về việc ban hành Danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung. Theo Bộ Công Thương, đến nay, khoảng 60% tổ chức tín dụng đã nộp hồ sơ đăng ký tại Bộ Công Thương và khoảng 30% tổng số tổ chức tín dụng nộp hồ sơ đã hoàn thành nghĩa vụ đăng ký theo quy định. Tuy nhiên, vẫn còn khoảng 40% tổ chức tín dụng chưa thực hiện thủ tục đăng ký.

Phải kể đến một số nguyên nhân như sau:

Thứ nhất, chữ nhỏ, từ ngữ khó hiểu. Theo Bộ Công Thương, nếu như việc vi phạm về cỡ chữ không xảy ra nhiều ở các lĩnh vực khác thì các hợp dồng vay của ngân hàng có số lượng vi phạm quy định về cỡ chữ rất lớn. Thông thường các ngân hàng sử dụng cỡ chữ chỉ từ 8 -10, với lý giải là “để thiết kế nhỏ gọn, thuận tiện cho khách hàng trong việc cất giữ tài liệu, hoàn thiện thủ tục nhanh gọn vì không phải ký nhiều vào các trang và cũng giúp tiết kiệm một chi phí không nhỏ. Tuy nhiên, đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho khách hàng không đọc, không muốn đọc và thậm chí là không thể đọc những tài liệu do ngân hàng đưa ra. Vì vậy, quy định về cỡ chữ là một trong những tiêu chí bắt buộc đầu tiên mà đơn vị xử lý hồ sơ đã yêu cầu doanh nghiệp phải điều chỉnh. Cho đến nay, tất cả các hồ sơ được thông qua tại Bộ Công Thương đều đã đáp ứng cỡ chữ tối thiểu là 12, bảo đảm khả năng tiếp cận nội dung cho bên vay – người tiêu dùng .

Thứ hai, hợp đồng tín dụng chứa những cụm từ chưa rõ ràng (nhất là những quy định liên quan tới quyền của tổ chức tín dụng, nghĩa vụ của bên vay) như “theo quy định/yêu cầu của ngân hàng”; “các chi phí có liên quan”. Những dạng quy định này đều được cơ quan kiểm soát yêu cầu làm rõ bằng cách bổ sung quy định/ yêu cầu cụ thể vào hợp đồng hoặc dẫn chiếu tới nguồn thông tin khách hàng có thể tìm hiểu được các quy định/ yêu cầu này (ví dụ như được công bố công khai tại trang web/quầy giao dịch của ngân hàng). Một số các quy định khác được ghi trong hợp đồng cũng không rõ ràng, dễ hiểu. Ví dụ: “Khách hàng có nghĩa vụ trả các khoản phí, chi phí được NH quy định trong từng thời kỳ phù hợp với quy định của pháp luật”. Quy định này không đảm bảo được khả năng tiếp cận thông tin của khách hàng trong việc tìm hiểu các loại phí, chi phí mà mình phải gánh chịu trước khi quyết định ký kết hợp đồng. Trong khi đó, đối với hợp đồng vay vốn, phí trả nợ trước hạn hay các khoản phạt vi phạm hợp đồng là những thông tin quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định vay vốn của bên vay. Hoặc điều khoản “ngân hàng được quyền thay đổi lãi suất bằng một thông báo gửi tới khách hàng 30 ngày trước ngày áp dụng/NH được quyền thay đổi lãi suất theo quyết định của ngân hàng”  cũng đặt khách hàng vào trạng thái bị động, thậm chí là rủi ro khi không lường được thời gian hay biên độ điều chỉnh lãi suất.

Thứ ba, hợp đồng chứa đựng điều khoản không có hiệu lực. Dạng điều khoản phổ biến nhất trong hồ sơ của các tổ chức tín dụng là cho phép các đơn vị này chuyển giao hoặc chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng cho bên thứ ba mà không cần bên vay đồng ý. Ví dụ, “Ngân hàng có toàn quyền chuyển giao hoặc chuyển nhượng cho bên thứ ba thực hiện toàn bộ hoặc một phần các quyền, quyền lợi và nghĩa vụ của NH theo quy định trong bản hợp đồng này.” Đối với dạng điều khoản không có hiệu lực này, Bộ Công Thương đã yêu cầu các ngân hàng cần giới hạn rõ trường hợp nào pháp luật chuyên ngành cho phép chuyển nhượng hợp đồng cho bên thứ ba, ví dụ trường hợp mua bán nợ hoặc xử lý nợ. Những trường hợp còn lại, Bộ Công Thương đều yêu cầu chỉnh sửa nội dung điều khoản theo hướng chỉ được chuyển nhượng khi bên vay đồng ý, ví dụ: “ngân hàng không được chuyển giao quyền, nghĩa vụ cho bên thứ ba mà không được người tiêu dùng đồng ý, trừ trường hợp xử lý nợ hoặc mua bán nợ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”.

Thứ tư, đối với điều khoản cho phép ngân hàng đơn phương thay đổi điều kiện của hợp đồng, điều kiện giao dịch chung, ví dụ như quy định về việc ngân hàng có quyền sửa đổi, bổ sung Bản Điều kiện, điều khoản lãi suất mà chỉ cần thông báo trên trang web, các ngân hàng cũng được yêu cầu phải quy định rõ các các hình thức thông báo trực tiếp tới khách hàng theo các địa chỉ mà khách hàng đăng ký, ví dụ sms, email và đăng tải công khai trên trang web, công khai thời gian cụ thể để khách hàng phản hồi ý kiến kể từ thời điểm khách hàng tiếp nhận được thông tin và quyền chấm dứt hợp đồng nếu khách hàng không đồng ý với những nội dung thay đổi và chỉ phải thanh toán tiền cho phần dịch vụ đã sử dụng (theo Điều 18 Nghị định 99/2011/NĐ-CP).

Tất cả những vấn đề nêu trên, bên vay trên thực tế vẫn chưa được có cơ hội phát huy quyền của mình. Dẫn đến nhiều bất cập trên thực tế do không thể cùng đám phán, thương lượng về hợp đồng. Mặc dù ký hợp đồng vay hàng chục trang, ràng buộc các điều kiện pháp lý chặt chẽ trong nhiều năm cũng như chuyển hết chứng từ sở hữu tài sản dành dụm cả đời cho ngân hàng quản lý… nhưng thực tế là, nhiều khách hàng ít khi đọc hết và hiểu đầy đủ về nội dung hợp đồng. Khách hàng chủ yếu tin tưởng cán bộ ngân hàng là chính chứ chưa thực sự cặn kẽ về quyền lợi và nghĩa vụ của cả bên vay. Một số khách hàng khác giao dịch ngân hàng thường xuyên thì cẩn trọng hơn. Có tìm hiểu thông tin, so sánh giữa các ngân hàng, đánh giá các phương án và cân nhắc kỹ hơn trước khi quyết định. Tuy nhiên, khó khăn cho khách hàng là quy định mỗi nơi mỗi khác nhau, muốn so sánh giữa các sản phẩm vay từ các ngân hàng khác nhau là điều chẳng dễ. Riêng đối với lãi suất và các khoản phí – nếu không được tư vấn tường tận, khách hàng hẳn cũng sẽ thấy bối rối. Dẫn chứng như sau: Lãi suất tính là trên dư nợ giảm dần hay dư nợ ban đầu? Do mỗi ngân hàng có cách công bố khác nhau, nên khách hàng nếu không để ý thì tưởng rằng được vay lãi suất rẻ nhưng sau mới biết, nếu tính trên dư nợ ban đầu thì thực ra lại cao hơn. Rồi lãi suất cố định hay thả nổi? Nếu thả nổi thì bao lâu điều chỉnh một lần? Cơ sở để điều chỉnh là gì (tham chiếu thông số thị trường hay theo quy định riêng của ngân hàng)? Tiền lãi thanh toán hàng tháng/hàng quý hay đầu kỳ/cuối kỳ?…

Yếu tố nữa cũng rất đáng lưu ý là biên độ lãi suất. Nếu chưa có đầy đủ thông tin, khách hàng có thể nhầm ngân hàng A có biên độ chỉ 3.5% thì thấp hơn 4% của ngân hàng B. Tuy nhiên biên độ mới chỉ là một tham số trong công thức lãi suất. Quan trọng hơn đó là ‘biên độ’ cộng với gì nữa? Đa số ngân hàng dùng ‘lãi suất cơ sở’ tự quy định (thường theo mức lãi suất sản phẩm huy động nào đó) – cái này rất khác nhau giữa các ngân hàng mà khách hàng rất cần được biết rõ. Vì nếu ‘lãi suất cơ sở’ của A là 8% còn của B là 7% thì cuối cùng lãi suất khoản vay thành ra 11.5% của A cao hơn 11% tương ứng của B.

Ngoài ra, khách hàng vay cũng thường bị hấp dẫn bởi các chương trình khuyến mãi với lãi suất ưu đãi rất thấp áp dụng từ 1 tháng cho đến 36 tháng – thấp hơn nhiều so với lãi suất thông thường. Tuy nhiên, bao giờ cũng vậy – các gói ưu đãi của ngân hàng đi kèm với các ràng buộc chặt chẽ mà khách hàng vay rất nên hiểu rõ, ví như: Điều kiện áp dụng? Lãi suất tính sau thời gian khuyến mãi? Quy định về bồi hoàn lại phần ưu đãi? vv…

Liên quan đến các loại phí của khoản vay thì càng rối hơn nữa, nhiều khoản mục như phí làm hồ sơ, phí thu xếp vốn, phí định giá, phí trả nợ trước hạn, phí phạt chậm trả vv… mà cách gọi tên, cách áp dụng, cách tính và cách thu ở mỗi ngân hàng cũng quy định mỗi khác. Việc so sánh sản phẩm giữa các ngân hàng, vì vậy – chẳng dễ chút nào.

Chưa kể, ngoài các yếu tố định lượng nói trên thì các yếu tố định tính sau đây khách hàng cũng nên quan tâm: thủ tục vay, chứng từ yêu cầu, thời gian xử lý, chăm sóc sau giải ngân, tính đa dạng của sản phẩm và chất lượng dịch vụ khách hàng nói chung… Vì trực quang thì thấy lãi suất niêm yết 11% của ngân hàng X hấp dẫn hơn 12% của ngân hàng Y – nhưng nếu tính toán đầy đủ các yếu tố chi phí cơ hội này thì có thể ngược lại.

Thực tế, trong giao dịch tín dụng – những khách hàng vay kinh nghiệm thường xem xét đầy đủ ‘chi phí khoản vay’ chứ không dừng lại ở ‘lãi suất khoản vay’. Vấn đề là, với đa số khách hàng vay – để có đầy đủ các thông tin tương ứng của các ngân hàng khác nhau trên thị trường nhằm giúp so sánh, cân nhắc và đưa ra quyết định là điều rất khó. Chính vậy, ở nhiều nước có quy định các tổ chức tín dụng phải niêm yết công khai ‘lãi suất so sánh’ (comparison rate) của sản phẩm. Ví dụ, kể từ ngày 01/07/2003 chính phủ Úc yêu cầu bên vay phải tính toán đầy đủ lãi suất ưu đãi, lãi suất thông thường, phí, phí phạt… của khoản vay thành ra ‘lãi suất so sánh’ để giúp khách hàng biết được chi phí thực của khoản vay, từ đó dễ dàng hơn trong chọn lựa sản phẩm và ngân hàng giao dịch.

Ở nước ta, Thông tư 39 của Ngân Hàng Nhà Nước (ban hành 30/12/2016) có quy định bắt buộc các tổ chức tín dụng phải cung cấp thông tin cho khách hàng (Điều 16) – đây là một bước tiến đáng kể của yêu cầu minh bạch thông tin nhằm bảo vệ khách hàng. Tuy nhiên, nếu có thêm quy định về tính toán và công bố chi phí thực của khoản vay (comparison rate) như trên nữa thì hay hơn.

Ngoài lãi suất và phí, hợp đồng tín dụng còn thể hiện các quy định rất chi tiết của sản phẩm như điều khoản thanh toán nợ gốc, lãi phát sinh, các trường hợp áp dụng chế tài hay nghĩa vụ của bên vay đối với tài sản đảm bảo vv… Bởi vậy, cũng tại Úc – khách hàng vay thường không làm việc trực tiếp với ngân hàng mà thông qua đại điện pháp lý của mình (Solictior hoặc Conveyancer) – người sẽ chịu trách nhiệm kiểm tra kỹ lưỡng các chi tiết của hợp đồng vay, đảm bảo không có những điều khoản bất lợi hoặc các nội dung chưa phù hợp với quy định chung của pháp luật.

3.2.5 Thực tiễn áp dụng quyền được trả nợ trước hạn của bên vay

Bạn có một khoản vay dài hạn nhưng có dịp may tình cờ mang đến cơ hội trả dứt nợ trước một thời gian. Trong trường hợp này, nên “cắn răng” chịu phạt để trả nợ trước hạn hay chấp nhận tiếp tục trả nợ theo đúng khế ước? Đây là vấn đề mà những người phải vay nợ ngân hàng cần cân nhắc kỹ lưỡng để chọn cho mình một giải pháp có lợi nhất. Thông thường, một khoản vay với thời hạn trả nợ dài, có thể từ 10 đến 20 năm là khoản nợ khá lớn so với thu nhập bình thường của người vay. Khi lập hợp đồng, ngân hàng đã vạch sẵn một lộ trình thanh toán nợ, bao gồm cả gốc lẫn lãi trong từng khoảng thời gian cụ thể. Trong đó, những năm đầu, phần lớn khoản tiền trả nợ theo định kỳ sẽ nhằm “giải quyết” phần lãi suất, số nợ gốc chỉ được trừ rất ít. Ví dụ, với một hợp đồng vay nợ 200 triệu đồng trả trong 20 năm, thì khoảng 5-8 năm đầu tiên, số nợ gốc chỉ được trừ khoảng 10% – tức mỗi tháng chỉ được trừ vài trăm ngàn đồng. Những người “có kinh nghiệm” vay nợ ngân hàng thường gọi đây là khoảng thời gian mà người vay “nuôi ngân hàng là chủ yếu”.

Nếu tính toán một cách kỹ lưỡng, có thể thấy toàn bộ số tiền mà người vay phải trả cho ngân hàng trong khoảng thời gian này bằng hoặc thậm chí nhiều hơn khoản nợ gốc. Việc tiếp tục “nuôi nợ” sẽ buộc người vay phải bỏ ra những khoản tiền không nhỏ để trả lãi suất trong vài năm tiếp theo, trong khi phần lãi gốc thì vẫn chưa giảm được bao nhiêu. Do đó, nếu “bất ngờ” có một khoản tiền đủ để trả nợ gốc vào lúc này, thì tốt nhất là bạn hãy cố gắng làm điều đó. Ngay cả khi chỉ có khoản tiền gần đủ trả nợ thì cũng nên trả dứt nợ. Tất nhiên, bạn sẽ phải chịu một khoản tiền phạt khoảng 2-3% tổng dư nợ nhưng chừng đó vẫn là rất nhỏ so với khoản lãi suất quá lớn mà bạn sẽ phải trả trong tương lai, nếu không kịp thời trả dứt nợ.

Việc cố gắng trả dứt nợ trước thời hạn càng có ý nghĩa hơn trong bối cảnh giá trị đồng tiền Việt Nam những năm gần đây (và có thể trong vài năm tới) vẫn giữ ở mức ổn định. Điều này khác hẳn với bối cảnh lạm phát tăng cao như những năm trước, việc kéo dài thời hạn vay có thể giúp người vay giải quyết được những vấn đề cấp thiết khi giá trị đồng tiền còn tương đối lớn và sẽ trả nợ khi giá trị đồng tiền có chiều hướng sụt giảm (so với ngoại tệ hay vàng thì người vay có thể được hưởng lợi). Tuy nhiên, nếu như thời hạn vay nợ đã đi được quá nửa chặng đường thì ý định trả dứt nợ trước thời hạn cần có sự tính toán kỹ lưỡng hơn. Bởi đây là lúc mà tỉ lệ lãi suất trong tổng số tiền trả nợ theo định kỳ của người vay đang trên đà giảm mạnh, tức phần lãi gốc sẽ được trừ đi ngày một nhiều hơn, dần chiếm tỉ lệ áp đảo. Lúc này, thực tế là người vay đã vượt qua giai đoạn “khốn khổ” nhất, đã phải bỏ ra một khoản tiền rất lớn (so với giá trị khoản nợ gốc) để trả lãi suất và phần nợ gốc có thể đã được giảm xấp xỉ 50%. Nếu như việc trả nợ 1 lần và chịu phạt có thể ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của gia đình người vay thì hãy chọn giải pháp trả nợ dần và tiếp tục chịu lãi suất ở mức “có thể chấp nhận được”. Song, nếu việc trả nợ không gây ảnh hưởng lớn và có thể “vui lòng” chấp nhận khoản tiền phạt, thì trả dứt nợ trước hạn vẫn là phương án tối ưu. Bởi sau khi đã trả dứt nợ, ngoài việc hàng tháng không phải trích một phần thu nhập thường xuyên để trả nợ, không phải “gánh” lãi suất, người vay còn thoát được nỗi ám ảnh của “kẻ mắc nợ”, có được một tâm lý thoải mái để có thể tập trung đầu tư cho những kế hoạch, dự định trong tương lai.[24]

3.2.6 Thực tiễn áp dụng quyền được gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ của bên vay

Trường hợp bên vay không có khả năng trả nợ theo đúng thoả thuận ban đầu, nếu đủ điều kiện thì có thể được ngân hàng xem xét cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ, bao gồm hai cách là gia hạn nợ và điều chỉnh kỳ hạn trả nợ.

Có một thời kỳ Ngân hàng Nhà nước quy định khoản vay ngắn hạn chỉ được gia hạn tối đa bằng thời hạn cho vay; khoản vay trung, dài hạn tối đa bằng ½ thời hạn cho vay. Như vậy, khoản vay 12 tháng thì được phép gia hạn thêm 12 tháng nữa, nhưng nếu là khoản vay 13 tháng, thì chỉ được phép gia hạn thêm 6,5 tháng. Đến nay, các khoản nợ được gia hạn nhiều lần, với thời hạn không bị hạn chế. Tuy nhiên, khi đó khoản nợ sẽ bị đánh giá về khả năng rủi ro và phải phân loại vào nhóm nợ thích hợp để trích lập dự phòng.

3.2.7 Thực tiễn áp dụng quyền được miễn, giảm lãi suất cho vay 

Trên cơ sở quy định tại Điều 466, 468 BLDS 2015 và quy định tại Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng 2010 và kế thừa quy định về lãi suất cho vay tại Thông tư 12/2010/TT-NHNN, Thông tư 08/2014/TT-NHNN, quy định tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN đã quy định về lãi suất cho vay như sau:

Thứ nhất, tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng, trừ trường hợp áp dụng mức lãi suất tối đa đối với cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam đối với 05 lĩnh vực ưu tiên doThống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định trong từng thời kỳ. Như vậy, quy định về trần lãi suất chỉ áp dụng đối với trường hợp cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam thuộc các lĩnh vực ưu tiên quy định tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN.

Thứ hai, Thông tư 39/2016/TT-NHNN bổ sung quy định về nghĩa vụ trả lãi cho tiền lãi chậm trả, cụ thể: Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do TCTD và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

Thứ ba, Thông tư 39/2016/TT-NHNN cũng quy định trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi trên phần dư nợ gốc quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả; lãi suất áp dụng do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn. Nợ gốc quá hạn gồm: (i) Nợ gốc đến hạn không trả được; và (ii) Nợ gốc chưa đến hạn bị chuyển sang đến hạn theo thỏa thuận do vi phạm hợp đồng và khách hàng không trả được.

3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của bên vay trong hợp đồng tín dụng

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các bên chủ thể tham gia hoạt động cho vay một các an toàn, lành mạnh. Đặc biệt là bảo vệ được quyền của bên vay, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều quy định pháp luật để xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng, phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn còn nhiều bất cập mà tôi đã nêu trê. Vì vậy, tôi đưa ra một số ý kiến để hoàn thiện các quy định về bảo vệ quyền của bên vay như sau:

3.3.1 Hoàn thiện các quy định về quyền được giải ngân của bên vay

Bên vay và bên đi vay cần phải thỏa thuận thật kỹ lưỡng nội dung trong hợp đồng tín dụng liên quan đến vấn đề giải ngân như phương thức giải ngân, thời hạn giải ngân, lãi suất giải ngân. Để từ đó bên vay có những cái nhìn đúng đắn để thực hiện tốt quyền được giải ngân của mình.

3.3.2 Hoàn thiện các quy định về quyền được bảo đảm thông tin của bên vay 

Quy định về quyền được bảo đảm thông tin của bên vay:

Thứ nhất, cần có quy định liệt kê và hướng dẫn một cách đầy đủ, cụ thể chủ thể nào có quyền yêu cầu các tổ chức tín dụng cung cấp thông tin khách hàng của mình, giới hạn thông tin tổ chức tín dụng phải cung cấp cho các cơ quan theo luật định, nghĩa vụ đảm bảo bí mật thông tin khách hàng của các chủ thể này; bên cạnh đó các quy định cần hướng dẫn rõ như thế nào, trong trường hợp nào, bằng hình thức nào được coi là có sự chấp thuận của khách hàng để các tổ chức tín dụng có thể cung cấp thông tin cho các chủ thể có liên quan mà không vi phạm quyền của khách hàng cũng như có thể bảo vệ nhân viên trong trường hợp cung cấp thông tin khách hàng khi được khách hàng yêu cầu bằng lời nói hoặc thông qua các thông điệp dữ liệu, từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh sau này.

Thứ hai, cần có quy định bổ sung về phạm vi thông tin khách hàng cần được đảm bảo bí mật, trách nhiệm đảm bảo bí mật thông tin của các loại khách hàng khác của tổ chức tín dụng, quy định về trách nhiệm pháp lý trong trường hợp tổ chức tín dụng cung cấp thông tin vượt quá giới hạn thông tin khách hàng cho các cơ quan theo luật định được quyền yêu cầu tổ chức tín dụng cung cấp thông tin của khách hàng. Đây là cơ sở để khách hàng bảo vệ lợi ích của mình khi bị các chủ thể này xâm hại.

Thứ ba, để nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp bảo vệ khách hàng khi quyền được đảm bảo bí mật thông tin của họ bị xâm phạm thì cần thiết có quy định một cơ chế riêng về áp dụng các biện pháp bảo vệ.

3.3.3 Hoàn thiện các quy định về quyền khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm hợp đồng tín dụng theo quy định của pháp luật

Nhà nước cần tuyên truyền, phổ biến pháp luật để khách hàng có thể hiểu rõ hơn quyền khiếu nại, khởi kiện của mình. Để khi bị xâm phạm quyền và lợi ích, họ có thể vận dụng được quyền này.

3.3.4 Hoàn thiện các quy định về quyền đàm phán, thương lượng trong hợp đồng tín dụng

Thứ nhất, cần bảo đảm tính thống nhất và sự phù hợp giữa pháp luật điều chỉnh hợp đồng tín dụng với hệ thống pháp luật Việt Nam. Theo quan điểm của tác giả, các nhà lập pháp cần nghiên cứu để đi đến giải pháp xây dựng một Luật hợp đồng riêng áp dụng trong thời gian tới, trong đó quy định những vấn đề cơ bản, nguyên tắc về hợp đồng và đặc thù của từng loại hợp đồng chuyên biệt, mà một trong các loại đó là hợp đồng tín dụng áp dụng tại các tổ chức tín dụng.

Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước cần hệ thống hóa và ban hành dưới hình thức cẩm nang nghiệp vụ hướng dẫn các Ngân hàng thương mại về các kiến thức cơ bản về thẩm định tín dụng, quy trình cho vay; đưa ra chỉ tiêu chuẩn hóa từng ngành từng lĩnh vực giúp cho cán bộ tín dụng có căn cứ khi ra quyết định cho vay và từ đó giúp cho quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng được thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn.

Thứ ba, cần nâng cao kiến thức tài chính tiêu dùng cho người dân.

3.3.5 Hoàn thiện các quy định về quyền được trả nợ trước hạn của bên vay

Nhằm bảo vệ người đi vay, Ngân hàng Nhà nước nên quy định các khoản phí trả nợ phải được thông báo rõ, cụ thể, có phụ lục kèm theo hợp đồng để khách hàng biết trước khi vay vốn. Đối với ngân hàng, các chi phí liên quan đến việc trả nợ trước hạn, cán bộ tư vấn phải có trách nhiệm cung cấp, giải thích đầy đủ các thông tin để đảm bảo khách hàng có thể so sánh, đánh giá các khoản phí có phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của mình trước khi quyết định vay vốn.

Cách tính phí trả nợ trước hạn phải được niêm yết rõ ràng, công khai tại trụ sở chính, chi nhánh, phòng giao dịch, điểm giới thiệu dịch vụ và trên website của ngân hàng. Có như vậy, khách hàng mới tin tưởng, an tâm trong quan hệ vay vốn với ngân hàng, kích thích tăng trưởng tín dụng.

3.3.6 Hoàn thiện các quy định về quyền được gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ của bên vay 

Để việc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ đi vào nề nếp và thật sự có ý nghĩa, góp phần tích cực vào việc quản lý, kiểm soát tốt hoạt động tín dụng, cũng như hướng tới lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế về ngân hàng. Thiết nghĩ, trên cơ sở quy định của Ngân hàng Nhà nước các tổ chức tín dụng cần xây dựng qui trình điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cụ thể, theo hướng quy định chi tiết về các điều kiện, thủ tục, thời gian.. Đồng thời, tổ chức tín dụng cần có chế tài đối với những cán bộ tín dụng cố ý hiểu và vận dụng sai dẫn đến rủi ro tín dụng; Thanh tra Ngân hàng Nhà nước cần được tăng cường và xử lý nghiêm minh đối với những hành vi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ sai qui định với mục đích để che dấu nợ quá hạn.

3.3.7 Hoàn thiện các quy định về quyền được miễn, giảm lãi suất cho vay

Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp và các quy định của pháp luật xoay quanh về vấn đề trình bày ở trên, tác giả đề xuất:

Thứ nhất, theo Hiến pháp năm 2013 và BLDS năm 2015 về quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế bằng luật. Do vậy, theo quan điểm của tác giả, cần sửa đổi khoản 2 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 TCTD để có cách hiểu thống nhất hơn trong xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật. Cụ thể, khoản 2 Điều 91 Luật này, sau khi sửa đổi được viết lại như sau “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp Ngân hàng Nhà nước áp dụng lãi suất theo quy định tại khoản 3 Điều này”.

Thứ hai, Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thông tư hướng dẫn cũ thể về quy định: “Trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác” quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015. Mà theo đó, Thông tư được ban hành quy định cụ thể lãi suất thỏa thuận của các tổ chức tín dụng với khách hàng trong hoạt động cấp tín dụng theo cơ chế “thỏa thuận tự do” hay “giới hạn trong phạm vi” để hài hòa lợi ích giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Theo tác giả, trong quan hệ cấp tín dụng thì khách hàng không thực sự bình đẳng và yếu thế hơn nên cần có giới hạn khống chế mức lãi suất cho phù hợp.

KẾT LUẬN

Hợp đồng tín dụng là một chế định phức tạp trong khoa học pháp lý, nó vừa hội đủ những điểm chung nhất của một hợp đồng nói chung vừa mang những đặc thù riêng biệt trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh ngân hàng; vừa có thể là một hợp đồng kinh doanh thương mại vừa có thể là một hợp đồng dân sự và chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật rải rác trong các lĩnh vực thương mại, dân sự, tài chính ngân hàng. Trong khoa học pháp lý Việt Nam chưa tồn tại một hệ thống lý luận pháp lý quy định một cách cụ thể, rõ ràng về hoạt động tín dụng ngân hàng.  Qua đề tài tìm hiểu này, tác giả của bài viết cũng đưa một số kiến nghị về những vấn đề chung nhất trong chế độ pháp lý của hợp đông tín dụng. Vấn đề cấp thiết hiện nay là cần có một quy định, một chế độ pháp lý thống nhất cho hợp đồng tín dụng ngân hàng hay hợp đồng tín dụng cần phải được quy định rõ trong pháp luật về tín dụng và ngân hàng ở Việt Nam để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể tham gia hợp đồng, đặc biệt là người đi vay. Đây chính là tiền đề tạo sự ổn định, lành mạnh cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tiếp cận được với vốn tín dụng ngân hàng, góp phần hạn chế các rủi ro trong hoạt động của các Tổ chức tín dụng.


[1] Điều 385 Bộ luật dân sự 2015

[2] Điều 463 Bộ luật dân sự 2015

[3] Khoản 2 Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN

[4] Khoản 3 Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN

[5] Đoàn Thị Ngọc Hải, Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, xem tại http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1805, truy cập ngày 22/05/2015

[6] http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Gi%E1%BA%A3i_ng%C3%A2n

[7] http://vaytinchapdng.com/giai-ngan-la-gi/

[8] http://vaytinchapdng.com/giai-ngan-la-gi/

[9] Minh Hiếu, Khách hàng Vietcombank chỉ ra lỗ hổng trong hệ thống OTP, xem tại <http://kienthuc.net.vn/tien-vang/khach-hang-vietcombank-chi-ra-lo-hong-trong-he-thong-otp-726639.html>, truy cập ngày 10/12/2016

[10] Khoản 2 Điều 21 Hiến pháp năm 2013

[11] Nguyễn Thị Kim Thoa, Một số vấn đề pháp lý về đảm bảo bí mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng,xem tại https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/apph/tcnh/tcnh_chitiet;jsessionid=jEITqWBJ1Q8bbgFjw0tbSJMxRqeZiB3ykLmpKiaU4zhtFzkkrThA!-1517215403!-981416641?centerWidth=80%25&dDocName=SBV288985&leftWidth=20%25&rightWidth=0%25&showFooter=false&showHeader=false&_adf.ctrl-state=om0h85vdg_51&_afrLoop=5162337296523000#%40%3F_afrLoop%3D5162337296523000%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName%3DSBV288985%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Doju8h0fiy_4, truy cập ngày 05/06/2017

[12] Điều 24 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012

[13] Điểm a  Khoản 10 Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN

[14] Điểm b Khoản 10 Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN Quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.

[15] Ban giải quyết tranh chấp kinh tế, Phạm Thị Lợi, LS. Phạm Văn Khánh, Tranh chấp do giải ngân không đúng quy định, http://hanoilaw.com.vn/tc-tai-chinh-tin-dung/tc-tai-chinh-tin-dung/tranh-chap-hop-dong-tin-dung/tranh-chap-do-giai-ngan-khong-dung-quy-dinh/1098.html, truy cập ngày 09/11/2015

[16] Khoản 3 Điều 14 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010

[17] Điều 35 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010

[18] Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) là tổ chức sự nghiệp nhà nước thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, có chức năng thu nhận, lưu trữ, phân tích, xử lý, dự báo thông tin tín dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; thực hiện các dịch vụ thông tin ngân hàng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và của pháp luật.

[19] Điều 13 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010

[20] Mục 2.2.a Thông tư số 02/2001/TT-NHNN ngày 04/04/2001 Hướng dẫn Nghị định 70/2000/NĐ-CP về giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành chỉ quy định việc cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng theo yêu cầu của khách hàng được thực hiện theo hướng dẫn của từng tổ chức nhận tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng hoặc theo thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức nhận tiền gửi, tài sản gửi và khách hàng

[21] Về quy định chấp thuận của khách hàng trong việc yêu cầu cung cấp thông tin bí mật của khách hàng có thể được quy định rõ trong điều khoản của hợp đồng bảo mật thông tin. Tuy nhiên khảo sát các hợp đồng của các tổ chức tín dụng vấn đề này cũng chỉ quy định một cách chung chung. Do đó, đây cũng được coi là một lỗ hổng trong đảm bảo bí mật thông tin của các tổ chức tín dụng như sự thừa nhận của tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần.

[22] Nguyễn Thơm, Mất 26 tỷ trong tài khoản: Khách hàng có còn niềm tin?, < http://news.zing.vn/mat-26-ty-trong-tai-khoan-khach-hang-co-con-niem-tin-post676389.html> truy cập 15/12/2016

[23] Hà Anh, Gánh nặng” từ hợp đồng tín dụng mẫu, xem tại http://dantri.com.vn/tai-chinh-dau-tu/ganh-nang-tu-hop-dong-tin-dung-mau-20161214090649768.htm, truy cập ngày 14/12/2016

[24] Đặng Ngọc Lan, Trả dứt nợ trước hạn nên chăng?, xem tại http://phunuvietnam.vn/khoe/tra-dut-no-truoc-han-nen-chang-post2392.html, truy cập ngày 08/09/2015

đánh giá bài viết

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền