Giải pháp nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong tổ chức Công đoàn nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động

Chuyên mụcLuật lao động, Thảo luận pháp luật Công đoàn

Tiểu luận: Giải pháp nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong tổ chức Công đoàn nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động.

LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Ở Nước ta hiện nay, Công đoàn là một tổ chức quần chúng rộng lớn nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Công đoàn xuất hiện khi giới công nhân biết ý thức về sức mạnh tập thể và biết chăm lo bảo vệ quyền lợi cho chính mình. Tổ chức Công đoàn ban đầu chỉ là một tổ chức được lập ra nhằm đấu tranh và hạn chế sự bóc lột của giới chủ chứ chưa phải là một tổ chức có nhiều quyền năng như ngày nay. Sự phát triển của Công đoàn gắn liền với sự lớn mạnh của giai cấp công nhân, với sự phát triển của công nghiệp, công nghệ thông tin và sự liên kết của giới những người chủ. Chính trong sự phát triển đó, sinh hoạt Công đoàn cũng được thúc đẩy và dần chiếm được vị trí quan trọng trong hệ thống các tổ chức xã hội, cũng như trong đời sống của người lao động. Từ chỗ chỉ được thừa nhận trong phạm vi hẹp, ngày nay Công đoàn đã được thừa nhận trong phạm vi toàn xã hội.

Sự tham gia của Công đoàn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động đã được quy định trong các văn bản pháp luật của Nhà nước; Hiến pháp, Bộ Luật lao động, Luật Công đoàn và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, số vụ đình công trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài Nhà nước có xu hướng gia tăng. Nhiều vụ diễn ra với quy mô lớn, thời gian kéo dài nhiều ngày khiến sản xuất đình trệ nghiêm trọng. Lý do mà công nhân đưa ra để họ tổ chức đình công đều tập trung vào các vấn đề như: Phải làm tăng ca, điều kiện làm việc không đảm bảo, tiền lương, tiền thưởng quá thấp không đủ sống, nội quy lao động quá khắt khe, Những việc thường xảy ra như trên phần lớn là do trình độ của người đứng đầu trong tổ chức công đoàn còn thấp kém, chưa đáp ứng được lợi ích chính đáng của người lao động.Với những lý do đó, người viết chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong tổ chức Công đoàn nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động” làm tiểu luận tốt nghiệp.

2. Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi nghiên cứu tiểu luận tập trung làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về Công đoàn mà cụ thể là vai trò của tổ chức này. Thực trạng hoạt động của tổ chức Công đoàn trên thực tế.Làm rỏ hơn trách nhiệm và vai trò của người đứng đầu tổ chức Công đoàn. Trên cơ sở đó, người viết đề xuất các giải pháp hoàn thiện cũng như tăng cường khả năng hoạt động của Công đoàn.

3. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Đề tài vận dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích luật, viết kết hợp phương pháp liệt kê, phương pháp tổng hợp. Đồng thời, áp dụng phương pháp so sánh đối chiếu các vấn đề có liên quan đến vai trò hoạt động Công đoàn, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu của tổ chức này.

4. Bố cục của đề tài

Đề tài gồm: Lời nói đầu, hai chương, kết luận và doanh mục tài liệu tham khảo.

  • Chương 1. Khái quát về Công đoàn và vai trò của Công đoàn,trách nhiệm của người đứng đầu Công đoàn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động.
  • Chương 2. Vai trò của Công đoàn, trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức Công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động – thực tiển và giải pháp

 


 

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG ĐOÀN VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG ĐOÀN, TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG

1.1. Khái quát chung về Công đoàn

1.1.1. Khái niệm Công đoàn

Hiến pháp năm 2013 quy định: Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đế quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.[1]

Luật Công đoàn 2012 định nghĩa: “Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam  xã hội chủ nghĩa”.[2]

1.1.2. Cơ cấu tổ chức của Công đoàn Việt Nam

Công đoàn Việt Nam được tổ chức theo các cấp như sau:

1.Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

2.Liên đoàn Tỉnh, Thành phố; Công đoàn nghành trung ương, Công đoàn Tổng công ty trực thuộc;

3.Công đoàn cấp trên cơ sở;

4.Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn.

Nhiệm vụ quyền hạn của mỗi cấp Công đoàn được quy định trong Điều lệ của Liên đoàn Lao động Việt Nam. Theo Điều lệ Công đoàn Việt Nam, Tổ chức Công đoàn Việt Nam gồm 4 cấp cơ bản sau:

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN) là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân , đội ngũ tri thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, Thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.

Liên đoàn Lao động Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tên Liên đoàn Lao động Tỉnh, Thành phố) là Công đoàn Trung ương: Liên đoàn Lao động Tỉnh, Thành phố được tổ chức theo địa giới hành chính Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương do Đoàn Chủ tịch Tổng Liên Đoàn Việt Nam quyết định thành lập hoặc giải thể phù hợp với các quy định của Luật Công đoàn. Đối tượng tập hợp của Liên đoàn Lao động Tỉnh, Thành phố gồm đoàn viên, công nhân, viên chức và lao động trên địa bàn.

Liên đoàn Lao động Tỉnh, Thành phố chỉ đạo trực tiếp các Liên đoàn Lao động Huyện, công đoàn ngành địa phương, Công đoàn Tổng Công ty ( thuộc Tỉnh, Thành phố), Công đoàn Khu Công nghiệp và các Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn trực thuộc (kể cả Công đoàn cơ sở các đơn vị của Trung ương không có Công đoàn ngành Trung ương hoặc Công đoàn Công ty).

Công đoàn cấp trên cơ sở, bao gồm:

+ Công đoàn giáo dục Huyện, Quận, Thị xã, Thành phố trực thuộc Tỉnh: Công đoàn giáo dục Huyện, Quận, Thị xã, Thành phố trực thuộc Tỉnh là Công đoàn cấp trên trực tiếp của Công đoàn cơ sở tập hợp cán bộ, viên chức và lao động cơ quan phòng giáo dục, các trường học (Công lập và ngoài công lập), đơn vị thuộc phòng giáo dục Huyện quản lý; do Liên đoàn Lao động Huyện, Quận, Thị xã, Thành phố trực thuộc Tỉnh (gọi chung là Liên đoàn Lao đông Huyện) quyết định thành lập hoặc giải thể sau khi thống nhất với Công đoàn giáo dục Tỉnh, Thành phố và được sự đồng ý của Liên đoàn Lao động Tỉnh, Thành phố, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Liên đoàn Lao động Huyện và sự phối hợp chỉ đạo ngành nghề của Công đoàn ngành giáo dục Tỉnh, Thành phố.

+ Công đoàn ngành địa phương:  Công đoàn ngành địa phương là công đoàn cấp trên cơ sở tập hợp công nhân, viên chức và lao động cùng ngành, nghề thuộc các thành phần kinh tế trên địa bàn Tỉnh, Thành phố do Liên đoàn Lao động Tỉnh,Thành phố quyết định quyết định thành lập hoặc giải thể sau khi thống nhất với Công đoàn ngành trung ương. Công đoàn ngành địa phương chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Liên đoàn Lao động Tỉnh, Thành phố và sự chỉ đạo về ngành nghề của Công đoàn ngành trung ương.

+ Liên đoàn Lao động Huyện: Liên đoàn Lao động Huyện, Quận, Thị xã, Thành phố trực thuộc Tỉnh gọi chung là Liên đoàn Lao động Huyện là Công đoàn cấp trên cơ sở tập hợp công nhân, viên chức và lao đông trên địa bàn Huyện; do Liên đoàn Lao động Tỉnh, Thành phố quyết định thành lập hoặc giải thể và chỉ đạo trực tiếp; quyết định thành lập hoặc giải thể và chỉ đạo trực tiếp Công đoàn cấp cơ sở là Công đoàn giáo dục Huyện và Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn đóng trên địa bàn (trừ những Công đoàn cơ sở đã trực thuộc Liên đoàn Lao động Tỉnh, Thành phố, Công đoàn ngành địa phương và Công đoàn Tổng công ty).

-Công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn : Công đoàn cơ sở được thành lập ở các doanh nghiệp, các hợp tác xã sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập; các cơ quan Nhà nước, cơ quan của tổ chức chính trị – xã hội và tổ chức xã hội – nghề nghiệp, có 5 đoàn viên trở lên và được Công đoàn cấp trên quyết định thành lập.

Nghiệp đoàn là tổ chức cơ sở của Công đoàn, tập hợp những người lao động tự do hợp pháp cùng ngành, nghề, được thành lập theo địa bàn hoặc theo đơn vị lao động, có 10 đoàn viên trở lên và được Công đoàn cấp trên quyết định thành lập.

Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn được tổ chức theo 4 loại hình:

– Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn không có tổ Công đoàn, tổ nghiệp đoàn.

– Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn có tổ Công đoàn, tổ nghiệp đoàn.

– Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn có Công đoàn bộ phận, nghiệp đoàn bộ phận.

-Công đoàn cơ sở có Công đoàn cơ sở thành viên.

– Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn không đủ điều kiện tồn tại và hoạt động, Công đoàn cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định giải thể.

1.1.3. Vị trí của Công đoàn

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Chương 1 Điều 10 đã ghi rõ: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vể Tổ quốc”.

Công dân Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị và là thành viên của mặt trận tổ quốc Việt Nam, là trung tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục rèn luyện xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân lao động. Vị trí của Công đoàn Việt Nam được Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và toàn thể công nhân, viên chức và người lao động thừa nhận cụ thể là :

-Công đoàn Việt Nam là sợi chỉ đỏ nối liền giữa Đảng với giai cấp công nhân, với toàn thể người lao động, thể hiện ở vai trò lãnh đạo của Đảng với Công đoàn và trách nhiệm của Công đoàn trong việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và tham gia xây dựng Đảng.

-Quan hệ giữa Công đoàn Việt Nam với Nhà nước là mối quan hệ bình đẳng, hợp tác, tôn trọng, phối hợp chặt chẽ với nhau trong các mặt hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu chung là: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

1.1.4. Vai trò của Công đoàn

-Trong lĩnh vực chính trị: Công đoàn có vai trò to lớn trong việc góp phần xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, qua đó tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đãm thực thi pháp luật và Nhà nước thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, giữ vững sự ổn định về chính trị.

-Trong lĩnh vực kinh tế: Công đoàn tham gia xây dựng, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nhằm xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, củng cố nguyên tắc tập trung trên cơ sở mở rộng dân chủ. Công đoàn góp phần củng cố những thành tựu kinh tế văn hóa và khoa học – kỹ thuật đã đạt được trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có lợi cho quốc kế dân sinh.

-Trong lĩnh vực văn hóa – tư tưởng: Công đoàn phát huy vai trò của mình trong việc giáo dục công nhân, viên chức và lao động nâng cao lập trường giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng; phát huy những giá trị cao đẹp, truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp thu những thành tựu tiên tiến của văn minh nhân loại, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.

-Trong lĩnh vực xã hội: Công đoàn có vai trò quan trọng trong việc tham gia xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, tính tổ chức kỹ luật, trình độ văn hóa, khoa học – kỹ thuật của công nhân, làm cho giai cấp công nhân trở thành lực lượng nòng cốt của khối liên minh công – nông – trí nền tảng của khối đại kết toàn dân tộc. Công đoàn là cơ sở vững chắc đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh của Nhà nước.

1.1.5. Chức năng, trách nhiệm của Công đoàn

Công đoàn có ba chức năng là:

Thứ nhất, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động: Công đoàn Việt Nam có chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động. Để thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích cho người lao động, Công đoàn chủ động tham gia cùng chính quyền tìm việc làm và tạo điều kiện làm việc cho công nhân lao động; tham gia trong lĩnh vực tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, trong việc ký kết hợp đồng lao động của công nhân, lao động. Công đoàn đại diện công nhân, lao động ký kết thỏa ước lao động tập thể; thương lượng, giải quyết tranh chấp lao động; tổ chức đình công theo Bộ Luật lao động. Công đoàn quản lý và sử dụng quỹ phúc lợi tập thể và sự nghiệp phúc lợi tập thể; bảo hiểm xã hội; bảo hộ lao ðộng. Công đoàn tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của công nhân, viên chức và lao động; phát huy dân chủ, bình đẳng, công bằng xã hội. Công đoàn quan tâm phát triền các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, du lịch, tham quan, nghỉ mát…

Thứ hai, tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát sự hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế: Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, khi thực hiện chức năng quản lý, Công đoàn Việt Nam quan tâm đến việc phát triển tiềm năng lao động, phát huy sáng kiến, cùng giám đốc, thủ trưởng đơn vị tìm nguồn vốn, thị trường để mở rộng sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm cho người lao động. Kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền, chống quan liêu, tham nhũng. Xây dựng quan hệ lao động hài hòa trong doanh nghiệp. Ký kết hợp đồng lao động tập thể thỏa ước lao động tập thể.

Thứ ba, giáo dục, động viên công nhân, viên chức và lao động phát huy quyền làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Chức năng giáo dục của Công đoàn Việt Nam, nhằm nâng cao nhận thức của công nhân, viên chức và lao động về nghĩa vụ và quyền lợi, hiểu được lợi ích của họ gắn với lợi ích tập thể, lợi ích của xã hội, xây dựng ý thức lao động mới, lao động có kỷ luật và có tác phong công nghiệp; giáo dục, nâng cao tinh thần tự giác học tập văn hóa, chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, rèn luyện tay nghề để đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Công đoàn tuyên truyền chính sách, pháp luật của Nhà nước; giáo dục nâng cao đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, xây dựng lối sống văn hóa lành mạnh, sống và làm việc theo pháp luật, góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh với tinh thần thường xuyên cảnh giác và đấu tranh chống lại những âm mưu thù địch.

Trách nhiệm của Công đoàn được cụ thể tại điều 9, điều 10 nghị định 200/2013/NĐ-CP

quy định chi tiết thi hành điều 11 của Luật Công đoàn về quyền , trách nhiệm của công đoàn trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội

Điều 9 nghị định 200/2013/NĐ-CP :

  1. Phối hợp với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị tổ chức cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tham gia xây dựng pháp luật và thực hiện chương trình, kế hoạch công tác; giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước của người lao động thuộc phạm vi quản lý, chỉ đạo.
  2. Tham gia với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc tổ chức, cải tiến lề lối làm việc và thủ tục hành chính nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác.
  3. Tham gia với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị giải quyết khiếu nại, tố cáo của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động theo quy định của pháp luật.
  4. Tham gia với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cải thiện điều kiện làm việc; xây dựng môi trường làm việc thân thiện, hài hòa trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
  5. Phối hợp với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện tốt quy chế dân chủ trong cơ quan, đơn vị.
  6. Tham gia các hội đồng xét, giải quyết các quyền lợi của đoàn viên, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động.

Điều 10 nghị định 200/2013/NĐ-CP :

  1. Tham gia với người sử dụng lao động trong việc xây dựng chính sách pháp luật, tuyên truyền, giáo dục, vận động người lao động thực hiện chính sách pháp luật, thực hiện thỏa ước lao động tập thể và các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng liên quan đến người lao động nhằm ổn định và phát triển doanh nghiệp.
  2. Tham gia với người sử dụng lao động thực hiện ứng dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật bảo hộ lao động; xây dựng các tiêu chuẩn, quy phạm an toàn, vệ sinh lao động, phòng ngừa bệnh nghề nghiệp, vệ sinh công nghiệp, bảo vệ môi trường tại nơi làm việc.
  3. Tham gia với người sử dụng lao động giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của người lao động theo quy định của pháp luật.
  4. Tham gia với người sử dụng lao động cải thiện điều kiện làm việc; xây dựng quan hệ lao động hài hòa trong doanh nghiệp.
  5. Tham gia các hội đồng xét và giải quyết các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động theo quy định của pháp luật.
  6. Phối hợp với người sử dụng lao động tổ chức các phong trào thi đua và thực hiện quy chế dân chủ trong doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

Như vậy, một lần nửa xác định trách nhiện nặng nề của Công đoàn , người đứng đầu  công đoàn trong việc bảo vệ lợi ích chinh đáng cho ngưởi lao động .

1.2. Quyền và lợi ích chính đáng của người lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam

Ở nước ta các quyền con người đã được quy định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật.

Theo Điều 7 của bộ Luật lao động năm 2012 quy định: Công đoàn, tổ chức đại diện người sử dụng lao động tham gia cùng với cơ quan nhà nước hỗ trợ xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ; giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật về lao động; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động.Theo quy định của Bộ Lao động năm 2012 có hiệu lực thi hành ngày 01/05/2013 thì người lao động có quyền sau đây[3] :

-Làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử;

-Hưởng lương phù hợp với trình độ kỹ năng nghề trên trên cơ sở thỏa thuận với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn lao động, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ hằng năm có lương và được hưởng phúc lợi tập thể;

-Thành lập, gia nhập, hoạt động Công đoàn, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại với người sử dụng lao động, thực hiện quy chế dân chủ và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; tham gia quản lý theo nội dung của người sử dụng lao động;

-Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật;

-Đình công.

1.3. Quyền, trách nhiệm của người đứng đầu Công đoàn trong việc đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động

Quyền và trách nhiệm của Công đoàn được thể hiện tại Nghị định số 43/2013/NĐ-CP của chính phủ ngày 10/05/2013 quy định chi tiết thi hành Điều 10 của luật Công đoàn về quyền, trách nhiệm của Công đoàn trong việc đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động và quyền , trách nhiệm của người đứng đầu cũng không ngoại lệ .Tất cả được thể hiện như sau :

-Hướng dẫn, tư vấn về quyền, nghĩa vụ của người lao động: Công đoàn cơ sở tại đơn vị sử dụng lao động có quyền, trách nhiệm hướng dẫn, tư vấn cho người lao động về các vấn đề sau đây: Hình thức, nguyên tắc, loại hợp đồng, nội dung hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên về cung cấp thông tin, thời gian thử việc, thời gian tập sự và những vấn đền liên quan khi giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc;

-Nghĩa vụ thực hiện công việc theo hợp đồng, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp chuyển người lao động làm công việc khác, các trường hợp tạm hoãn, nhận lại người lao động hết thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc; trình tự, thủ tục và các chế độ, chính sách đối với người lao động khi phát sinh sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc.

-Quyền và trách nhiệm của Công đoàn trong việc đại diện cho tập thể người lao động thương lượng, ký kết và giám sát thực hiện thỏa ước lao động tập thể: Công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp cơ quan tổ chức sử dụng lao động làm việc theo hợp đồng lao động có quyền, trách nhiệm sau đây: Thu thập thông tin, tập hợp kiến nghị, đề xuất nội dung có liên quan đến lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; yêu cầu người sử dụng lao động thương lượng tập thể trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức:

-Đại diện tập thể người lao động thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể; sửa đổi, bổ sung, kéo dài thời hạn của thỏa ước lao đông tập thể theo quy định của pháp luật về lao động; Phổ biến thỏa ước lao động tập thể đến người lao động; giám sát thực hiện thỏa ước lao động tập thể trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, yêu cầu người sử dụng lao động thi hành đúng thỏa ước lao động tập thể; yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể khi người sử dụng lao động thực hiện không đầy đủ hoặc vi phạm thỏa ước lao động tập thể theo quy định của pháp luật về lao động.

-Giải quyết quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động: Công đoàn cơ sở tại đơn vị sử dụng lao động có quyền, trách nhiệm sau đây:Thu thập thông tin, tập hợp, kiến nghị đề xuất nội dung có liên quan đến lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; yêu cầu người sử dụng lao động tổ chức đối thoại tại nơi làm việc theo quy định của pháp luật về lao động; Tiến hành đối thoại định kỳ hoặc đột xuất với người sử dụng lao động, Hội nghị cán bộ công chức theo quy định của pháp luật; giám sát việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị người lao động, Nghị quyết Hội nghị cán bộ công chức, các thỏa thuận đạt được qua đối thoại tại nơi làm việc và quy chế dân chủ ở cơ sở theo quy định của pháp luật.

-Quyền và trách nhiệm của Công đoàn trong việc xây dựng và giám sát việc thực hiện thang bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng và nội quy lao động:Công đoàn cơ sở tại đơn vị sử dụng lao động có quyền, trách nhiệm sau đây: Tổ chức lấy ý kiến, tổng hợp ý kiến của người lao động, tham gia bằng văn bản với người sử dụng lao động trong việc xây dựng, ban hành sửa đổ, bổ sung thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động theo quy định của pháp luật về lao động; Tổ chức giám sát việc thực hiện thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động; kiến nghị với người sử dụng lao động nội dung sửa đổi, bổ sung thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, thưởng và nội quy lao động.

-Tư vấn pháp luật và giải quyết tranh chấp lao động: Công đoàn các cấp có quyền, trách nhiệm tổ chức hoạt động tư vấn cho người lao động các nội dung quy định của pháp luật về lao động, pháp luật về công chức, viên chức, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, Công đoàn và pháp luật khác có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động thông qua hoạt động của các cấp Công đoàn. Công đoàn cơ sở có quyền yêu cầu bằng văn bản đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Đồng thời hướng dẫn, hỗ trợ người lao động giải quyết tranh chấp lao động cá nhân khi người lao động yêu cầu; đại diện cho người lao động tham gia quá trình giải quyết tranh chấp lao động cá nhân khi được người lao động ủy quyền; tham gia phiên hợp giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của hòa giải viên lao động theo yêu cầu.Trong mọi lúc , người đứng đầu trong tổ chức công đoàn luôn phải là người phát huy cao độ quyền và trách nhiệm của mình .

CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA CÔNG ĐOÀN, TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU TỔCHỨC CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG – THỰC TIỂN VÀ GIẢI PHÁP

2.1. Cơ sở pháp lý để Công đoàn thực hiện vai trò bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động

Luật Công đoàn năm 2012 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua (tại kỳ họp thứ 3 khóa XVIII ngày 20/06/2012), tại Điều 1 đã khẳng định: “ Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động là quyền hạn và trách nhiệm của tổ chức Công đoàn đối với công nhân, viên chức, lao động. Đây còn là mong muốn, nguyện vọng của công nhân, viên chức, lao động, là chức năng số 1 của tổ chức Công đoàn. Vì Công đoàn chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động mà người lao động tham gia tổ chức Công đoàn.

2.2. Vai trò của Công đoàn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động

2.2.1. Công đoàn trong việc kiểm tra, giám sát an toàn lao động, vệ sinh lao động và kiểm tra việc chấp hành pháp luật lao động

Luật Công đoàn cũng quy định khả năng cụ thể quyền của tổ chức Công đoàn kiểm tra giám sát công tác bảo hộ lao động và chấp hành luật gồm:

-Quyền đề xuất việc xây dựng, bổ sung hoặc sửa đổi các chế độ bảo hộ lao động và pháp luật lao động với các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước.

-Quyền theo dõi việc cấp phát trang bị phòng hộ; giám sát việc thi hành chế độ thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của người lao động; theo dõi, đôn đốc việc kiểm tra sức khỏe định kỳ cho người lao động; đề với giám đốc và các cơ quan có trách nhiệm những biện pháp khắc phục và xử lý các vi phạm về an toàn lao động, vệ sinh lao động.

-Quyền thành lập các Tiểu ban bảo hộ lao động ở các cơ sở nhằm giúp cho Ban chấp hành Công đoàn nắm bắt kịp thời các hiện tượng vi phạm bảo hộ lao động, đề xuất các kiến nghị về việc xử lý.

-Quyền tổ chức đối thoại giữa người sử dụng lao động với tập thể người lao động trong những trường hợp cần thiết nhằm làm sáng tỏ hoặc giải quyết những vướng mắc mà tập thể lao động nêu ra.

2.2.2.Vai trò của Công đoàn, người đứng đầu Công đoàn trong việc thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể

Theo Bộ luật Lao động năm 2012 quy định tổ chức Công đoàn có quyền đại diện cho người lao động trong doanh nghiệp tham gia, thương lượng ký kết thỏa ước lao động tập thể[4]. Theo Điều 45 Bộ luật Lao động, Công đoàn là một trong hai chủ thể tham gia xây dựng thỏa ước lao động tập thể, nội dung thỏa ước lao động tập thể bao gồm những cam kết về việc làm, thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, tiền thưởng, định mức lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Nhà nước khuyến khích các bên ký kết thỏa ước lao động tập thể với những quy định có lợi hơn cho người lao động so với quy định pháp luật lao động.

Thông qua việc thương lượng và ký kết thỏa ước lao động, Công đoàn tạo sự tin tưởng, gắn bó của người lao động với tổ chức Công đoàn. Trên thực tế, một số doanh nghiệp mặc dù có xây dựng bản thỏa ước lao động, nhưng đó là bản thỏa ước do về thực chất thì bản thỏa ước đó có các nội dung cũng không khác gì so với những điều khoản đã ký so với bản hợp đồng mà công ty đã ký với công nhân lao động.

“Ban chấp hành công đoàn cơ sở có quyền dự họp thương lượng. Chủ tịch công đoàn cơ sở có quyền cùng người sử dụng lao động chủ trì hội nghị thảo luận, thương lượng và ký kết thoả ước lao động tập thể với người sử dụng lao động. Công đoàn cơ sở có quyền phối hợp với người sử dụng lao động kiểm tra, xem xét và xử lý những trường hợp làm trái với thoả ước lao động tập thể đã ký kết, phát hiện những vướng mắc tồn tại để kiến nghị, thương lượng với người sử dụng lao động giải quyết kịp thời. Trong quá trình thực hiện thoả ước lao động tập thể, ban chấp hành công đoàn cơ sở có quyền tiến hành thương lượng với người sử dụng lao động để bổ sung, sửa đổi hoặc thay thế thoả ước lao động tập thể”[5]

2.2.3. Vai trò của Công đoàn, người đứng đầu Công đoàn trong quá trình xây dựng nội quy, quy chế của doanh nghiệp

Nội dung lao động trong các đơn vị sử dụng lao động là những văn bản quy định về các hoạt động và sử dụng lao động nhằm duy trì và tăng cường ký luật lao động của đơn vị. Nội quy lao động gồm những nội dung chủ yếu như: Thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi; trật tự trong doanh nghiệp; an toàn lao động, vệ sinh lao động nơi làm việc; bảo vệ tài sản và bí mật công nghệ, kinh doanh của doanh nghiệp; kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất. Nội dung nội quy lao động không được trái với pháp luật lao động và pháp luật khác.

Trong quá trình xây dựng nội quy lao động, người sử dụng lao động phải tham khảo ý kiến của ban chấp hành Công đoàn cơ sở, người đứng đầu Công đoàn hoặc Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở theo đề nghị của tập thể lao động ở nơi chưa thành lập Công đoàn cơ sở. Công đoàn sẽ trực tiếp thỏa thuận các nội dung của nội quy lao động theo hướng tuân thủ pháp luật và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho người lao động.

2.2.4. Trong quá trình xử lý kỹ thuật lao động và bồi thường thiệt hại

Kỹ luật lao động thể hiện trong bản nội quy của doanh nghiệp do người sử dụng lao động ban hành. Tuy nhiên, người lao động lại là đối tượng chủ yếuphải thực hiện bản nội quy ấy. Công đoàn với tư cách là đại diện tập thể người lao động có quyền tham gia góp ý kiến xây dựng dự thảo nội quy lao động. Bộ luật Lao động quy định trước khi ban hành nội quy lao động, người sử dụng lao động phải tham khảo ý kiến của Ban chấp hành Công đoàn cơ sở. Ban chấp hành Công đoàn cơ sở cũng được tham khảo ý kiến khi người sử dụng lao động quy định lịch nghỉ hàng năm.

Việc xử lý kỷ luật lao động mặc dù thuộc thẩm quyền của người sử dụng lao động song do việc xử lý kỷ luật lao động là một việc hệ trọng có liên quan đế danh dự việc làm của người lao động, đồng thời để bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động và nâng cao hiệu quả giáo dục người vi phạm, pháp luật lao động quy định khi xem xét kỷ luật bắt buột phải có mặt đương sự và phải có sự tham gia của Ban chấp hành Công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp.

Trong trường hợp người sử dụng lao động ra quyết định sa thải, đơn phương đình chỉ hợp đồng lao động đối với Ủy viên ban chấp hành Công đoàn cơ sở thì phải có thỏa thuận với Ban chấp hành Công đoàn cơ sở. Nếu người sử dụng lao động quy định sa thải, đơn phương đình chỉ hợp đồng lao động đối với Chủ tịch Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở thì phải có thỏa thuận với tổ chức Công đoàn cấp trên trực tiếp.

2.2.5 Trách nhiệm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động

Vấn đề nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động là trách nhiệm của cấp Công đoàn. Công đoàn cơ sở với tư cách là đại diện trực tiếp nhất của người lao động, bàn bạc với người sử dụng lao động xây dựng kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh, đảm bảo việc làm tiền thưởng cho người lao động.

Công đoàn có quyền và trách nhiệm nắm vững hoàn toàn kinh tế gia đình của các thành viên tổ chức trong doanh nghiệp để từ đó có biện pháp giúp đỡ về tinh thần và vật chất. Công đoàn cơ sở cùng với người sử dụng lao động chăm lo đến đời sống văn hóa, hoạt động thể dục, thể thao, tổ chức nghỉ ngơi, du lịch cho người lao động, nhất là vấn đề tạo nguồn kinh phí và sắp xếp thời gian cho mọi người lao động hằng năm đều được hưởng các quyền này. Công đoàn phối hợp với người sử dụng lao động trong việc sử dụng quỹ phúc lợi tập thể đơn vị được thực hiện công khai và dân chủ trong việc cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, chăm lo sức khỏe cho người lao động. Trong những trường hợp nhất định Công đoàn trong các doanh nghiệp Nhà nước còn có quyền kiểm tra hoặc đình chỉ việc sử dụng quỹ này nếu thấy việc sử dụng quỹ sai mục đích hoặc không đúng với nghị quyết của Hội nghị công nhân viên chức.

2.2.6. Vai trò của Công đoàn, trách nhiệm của người đứng đầu Công đoàn trong việc giải quyết tranh chấp lao động và đình công

Vai trò của Công đoàn trong việc giải quyết tranh chấp lao động và đình công: Tùy từng lĩnh vực và phạm vi hoạt động, Công đoàn có quyền tham gia trực tiếp với người sử dụng lao động hoặc chính quyền cùng cấp giải quyết các khiếu nại, tố cáo của người lao động hoặc với tư cách là đại diện hợp pháp của tập thể người lao động, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động khiếu nại, tố cáo với các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xem xét giải quyết.

Công đoàn cơ sở có quyền cử đại diện của mình vào thành phần của hội đồng hňa giải lao động cơ sở, cử thành viên vào danh sách bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ ký. Sau khi đình công Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở có quyền nộp đơn đến tòa án yêu cầu kết luận cuộc đình công là hợp pháp.

Ngoài ra, Luật Phá sản doanh nghiệp cũng quy định trong trường hợp doanh nghiệp không trả được lương cho người lao động ba tháng liên tiếp thì đại diện Công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức Công đoàn nộp đơn đến tòa án nơi

doanh nghiệp đặc trụ sở chính yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp

Trong những năm gần đây, các cấp công đoàn đã phát huy hết trách nhiệm trong việc giải quyết tranh chấp lao động.

Tại hội đồng hòa giải lao động cơ sở: Theo quy định của pháp luật, người sử dụng lao động và Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở có trách nhiệm phối hợp cùng nhau để thành lập hội đồng hòa giải lao động cơ sở. Công đoàn có trách nhiệm phối hợp với Chủ tịch Hội đồng hòa giải tìm hiểu nguyên nhân sự việc, tham gia phiên hòa giải, Công đoàn tham gia với tư cách là thành viên hội đồng hoặc có thể tham gia với tư cách là người đại diện cho tập thể lao động trong tranh chấp lao động tập thể, đại diện được chủ quyền trong tranh chấp lao động cá nhân nếu được người lao động ủy quyền.

Trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động, Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở có trách nhiệm thu thập những thông tin, căn cứ, cung cấp các tài liệu liên quan đến tranh chấp lao động và cùng phối hợp với Hội đồng hòa giải lao động cơ sở đưa ra phương án để các bên xem xét thương lượng.

Tại tòa án nhân dân: Trong quá trình giải quyết lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể tại tòa án, Công đoàn có quyền và trách nhiệm sau:

-Công đoàn tham gia với tư cách là nguyên đơn, bị đơn

-Công đoàn tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người đại diện theo ủy quyền.

-Công đoàn yêu cầu tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấ tạm thời.

Bộ luật lao động hiện hành ghi nhận vai trò của Công đoàn trong việc tổ chức và lãnh đạo đình công thông qua quy định tất cả các công đoạn để tổ chức một cuộc đình công là đều do tổ chức Công đoàn trong doanh nghiệp thực hiện, nhất là người đứng đầu hết sức khôn ngoan để đối đầu với sự việc nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho người lao động.

Một cuộc đình công được coi là hợp pháp khi diễn ra theo đúng trình tự: lấy ý kiến tập thể lao động; ra quyết định đình công và tiến hành đình công.

Tất cả các công đoạn này đều do tổ chức Công đoàn trong doanh nghiệp thực hiện.

Tổ chức và lãnh đạo đình công là quyền đặc biệt của Công đoàn cơ sở, Vai trò của Công đoàn, và trách nhiệm của người đứng đầu Công đoàn trong lĩnh vực này thể hiện ở các nội dung sau:

Thứ nhất, nếu xét thấy việc đình công không có lợi ích cho tập thể lao động hoặc không có lợi ích cho doanh nghiệp thì Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở giải thích cho tập thể người lao động về tác hại của việc đình công, đồng thời tiến hành thương lượng với người sử dụng lao động để giải quyết tranh chấp lao động.

Thứ hai, công đoàn tiến hành lập ban lãnh đạo cuộc đình công và lấy ý kiến tập thể lao động bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ ký để xác định số lượng người tán thành đình công.

Thứ ba, ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc tập thể đại diện lao động ra quyết định đình công bằng văn bản.

Trước và trong quá trình đình công Ban chấp hành công đoàn có quyền tiến hành thương lượng hoặc cùng đề nghị cơ quan lao động, liên đoàn lao động và đại diện người sử dụng lao động ở địa phương hoặc cơ quan tổ chức khác tiến hành hòa giải.

Trước và trong quá trình đình công, Ban chấp hành Công đoàn cơ sở có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền. Sau khi đìnhn công Ban chấp hành công đoàn cơ sở có quyền thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc giải quyết đình công và rút đơn yêu cầu Tòa án xem xét tính hợp pháp của cuộc đình công hoặc có đơn yêu cầu Tòa án không giải quyết.

2.3. Thực tiễn hoạt động của công đoàn

Hoạt động Công đoàn diễn ra ở rất nhiều loại hình cơ quan đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức khác nhau trong điều kiện đất nước ta đổi mới, hội nhập, trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều thuận lợi xong cùng hàng ngày hàng giờ nảy sinh những khó khăn phức tạp. Do có mâu thuẫn về lợi ích mà trong bất kỳ đơn vị cơ quan, tổ chức doanh nghiệp nào cũng thường xuyên xảy ra vi phạm về quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, viên chức, lao động giữa thủ trưởng cơ quan đơn vị, tổ chức, người sử dụng lao động với công nhân, viên chức, lao động. Những vấn đề ở các cơ quan đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp thường khác nhau nhưng thường tập trung trong một số phạm vị như: Vi phạm chủ quyền dân chủ: quyền tham gia ý kiến, quyền được thông tin, tham gia hội họp, học tập, tham gia Công đoàn, quyền đối thoại… Các vi phạm lợi ích vật chất và tinh thần thường biểu hiện:

– Vi phạm về tuyển dụng, hợp đồng lao động, cho thôi việc, chấm dứt hợp đồng lao động.

– Vi phạm về tiền lương: trả lương thấp không xứng đáng với công sức, trí tuệ của công nhân, viên chức, lao động, kéo dài thời hạn không nâng lương. Ví dụ: Liên tục nâng định mức lao động làm cho tiền lương không phản ánh đúng trình độ, sức lao động, thời gian lao động của công nhân lao động. Trong tiền lương không trả tiền nặng nhọc, độc hại. Chia tiền lương thành nhiều mức phụ cấp để tránh nộp tiền Bảo hiểm xã hội.

– Vi phạm về hợp đồng lao động như: không ký hợp đồng lao động, ký không đúng thời hạn (ký dưới 3 tháng để tránh đóng Bảo hiểm xã hội), không đúng công việc, có nhiều điểm, nhiều mục trong hợp đồng lao động, không trả trợ cấp, chung chung, không giao 01 bản hợp đồng lao động cho công nhân lao động, không thực hiện nghiêm túc việc chấm dứt hợp đồng lao động, không trả trợ cấp khi thôi việc, mất việc làm. Vi phạm giữa hai người sử dụng lao động khi cho thuê lại lao động.

– Vi phạm về Bảo hiểm xã hội: không đóng Bảo hiểm xã hội cho công nhân lao động hoặc đóng với mức thấp, chậm nộp Bảo hiểm xã hội với cơ quan Bảo hiểm xã hội dẫn đến thanh toán chậm cho công nhân lao động hoặc khi chấm dứt hợp đồng lao động không kịp thời làm thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp, không kịp thời đóng Bảo hiểm xã hội ở cơ quan mới tiếp nhận; phải đi lại nhiều lần để thanh toán các chế độ và có nhiều người vì ở xa đi lại khó khăn đã bỏ; có những cá nhân làm trong lĩnh vực này đã hưởng lợi từ người lao động.

– Vi phạm về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi: làm thêm giờ nhiều nhất là ở các doanh nghiệp sản xuất gia công giầy, may mặc, thời gian làm thêm trong năm có khi tới gần 1.000 giờ, vượt xa ngưỡng 200, 300 giờ do Nhà nước quy định. Có doanh nghiệp vi phạm ngày Lễ, ngày nghỉ trong tuần, tuần nghỉ phép của công nhân lao động qua việc nâng định mức, thực hiện khoán sản phẩm…

– Vi phạm về khen thưởng, kỷ luật lao động: Khi người lao động có thành tích, đặc biệt là khi có sáng kiến làm lợi cho người sử dụng lao động có khen thưởng theo cảm tính riêng của mình, không có hội đồng xác nhận và như vậy người lao động không có điều kiện nhận các phần thưởng tiếp theo như: danh hiệu chiến sĩ thi đua, lao động sáng tạo…

– Vi phạm không tạo điều kiện thành lập Công đoàn cơ sở, hạn chế hoạt động của cán bộ Công đoàn, hứa hẹn nhiều lần khi cán bộ Công đoàn cấp trên cơ sở tới làm việc để thành lập Công đoàn…

Những vi phạm này diễn ra với người lao động và cả người sử dụng laop động là người Việt Nam đại diện cho các công ty 100% vốn nước ngoài. Những vi phạm có khi là một trường hợp cụ thể, có khi cả công ty hàn chục vạn người, có khi là hàng loạt công ty cùng vi phạm.

2.4. Hoạt động thực tiển của Công đoàn cơ sở

2.4.1 Hoạt động thực tiển chung của các công đoàn cơ sở

Hiện nay, Công đoàn không thuần túy là “cầu nối” của Đảng đến giai cấp công nhân mà còn là đại diện thực sự của công nhân, là “đệm giảm sốc” cho những va chạm xung đột phát sinh trong quan hệ xã hội giữa một bên là giai cấp công nhân – người lao động với một bên là giới chủ – người sử dụng lao động. Thực trạng hoạt động của Công đoàn cơ sở trong thời gian vừa qua đã phát huy được những ưa điểm đối với vấn đề lao động nước ta hiện nay. Bên cạnh đó cũng tồn tại những hạn chế nhất định.

Những ưu điểm: hoạt động của Công đoàn cơ sở có những ưu điểm như sau:

Thứ nhất, về công tác phát triển đoàn viên và tổ chức Công đoàn cơ sở: Mặc dù hầu hết các chủ doanh nghiệp đều không muốn cho Công đoàn cơ sở được thành lập và hoạt động của doanh nghiệp của mình nhưng với sự tích cực kiên trì thuyết phục người sử dụng lao động, nhiều tổ chức Công đoàn đã được thành lập. Việc xúc tiến thành lập Công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp (nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) vẫn được đẩy mạnh.

Thứ hai, trong lĩnh vực Công đoàn thảo luận các vấn đề về quan hệ lao động: Công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã có những hành động việc làm cụ thể để hướng dẫn công nhân lao động giao kết hợp đồng lao động với người sử dụng lao động. Đây là cơ sở đảm bảo quyền, lợi ích người lao động.  Trong cơ chế ba bên, tổ chức đại diện của người lao động đóng vai trò là cầu nối người lao động với người sử dụng lao động và Nhà nước.

Thứ ba, trong lĩnh vực kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật lao động: hoạt động kiểm tra, giám sát của Công đoàn đã có những tác động tích cực trong việc phát triển và đề xuất kiến nghị, khắc phục kịp thời những vi phạm các quy định của pháp luật lao động, hoặc phản ánh với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để yêu cầu xử lý. Nhờ vậy, những bức xúc của người lao động đã được giảm bớt, hạn chế những mâu thuẫn, bất đồng giữa người lao động và người sử dụng lao động qua đó phần nào hạn chế các tranh chấp lao động và đình công xảy ra.

Thứ tư, trong việc đại diện cho tập thể lao động thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể: Công đoàn đã lãnh đạo, tập hợp, tổ chức người lao động tham gia quá trình thương lượng và đại diện tập thể lao động trực tiếp thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể. Nhiều bản thỏa ước lao động tập thể đã có những thỏa thuận cụ thể, bao gồm nhiều nội dung có lợi hơn cho người lao động. Thông qua việc thực hiện ký kết thỏa ước lao động tập thể, quyền dân chủ, ý thức trách nhiệm, tính tổ chức kỷ luật của người lao động ngày càng được nâng cao, người lao động tích cực tham gia, hưởng ứng các phong trào thi đua do Công đoàn cơ sở phát động.

Thứ năm, trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động: Công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã xác định được trọng tâm công tác là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Tiến hành nhiều hoạt động thiết thực như: Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật lao động về hợp đồng lao động, tiền lương, các điều kiện vệ sinh an toàn lao động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao tạo không khí vui tươi cho công nhân lao động. Tại một số doanh nghiệp có tỷ lệ lao động nữ cao Ban chấp hành Công đoàn đã đề xuất với chủ doanh nghiệp xây dựng nhà trẻ ngay trong khuôn viên nhà máy để công nhân có thể gửi con yên tâm lao động; Công đoàn cơ sở đã tổ chức các hoạt động thăm hỏi, giúp đỡ công nhân lao động gặp khó khăn, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… Tổ chức quyên góp xây dựng nhà “Mái ấm Công đoàn” cho công nhân lao động gặp khó khăn về nhà ở.

Thứ sáu, trong việc Công đoàn tham gia giải quyết tranh chấp lao động và đình công: Công đoàn cơ sở đã có nỗ lực trong việc tham gia giải quyết tranh chấp lao động và đình công. Khi có tranh chấp lao động xảy ra, lãnh đạo Công đoàn chủ động gặp gỡ người sử dụng lao động để thương lượng tìm giải pháp dàn xếp mâu thuẫn. Nhờ sự tham gia tích cực của Công đoàn mà nhiều tranh chấp lao động đã được hòa giải thành công. Qua đó đã góp phần làm giảm số lượng quy mô, cường độ của các vụ đình công. Không chỉ tham gia giải quyết tranh chấp lao động bằng thương lượng, hòa giải, Công đoàn còn chủ động phối hợp tham gia giải quyết tranh chấp với sự tham gia nhiệt tình, hiệu quả của Công đoàn nên đã được hòa giải thành công ngay tại Tòa án.

Những hạn chế tồn tại: bên cạnh những ưu điểm nêu trên, quá trình hoạt động Công đoàn cơ sở vẫn còn đó những hạn chế nhất định, Cụ thể:

Thứ nhất, một số cấp ủy và cán bộ lãnh đạo chưa thấy được tầm quan trọng vai trò của Công đoàn trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong khi đội ngũ công nhân trong các thành phần kinh tế ngày một tăng lên rõ rệt nhất là đội ngũ công nhân trong các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, tại các Khu công nghiệp. Tuy nhiên, đời sống cảu công nhân và hoạt động của tổ chức công đoàn lâm vào tình trạng rất khó khăn trong việc vận động người lao động và tổ chức Công đoàn. Công nhân trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước đang bị đối xử hết sức bất công. Tình trạng nhà ở, tiền lương tiền thưởng, thời gian lao động nghỉ ngơi, vấn đề bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội còn nhiều khó khăn, trong khi đó tổ chức Công đoàn hoặc không có, hoặc có nhưng đang bị tê liệt.

Thứ hai, nhận thức của nhiều cấp ủy, đảng viên về công Đoàn chưa sâu sắc và đầy đủ do đó khi đánh giá nhận xét về Công đoàn thường nặng về phê phán, nhất là khi cơ sở có công nhân đình công, lãng công. Trong công tác tổ chức có nhiều cơ sở không cơ cấu cán bộ, đảng viên là lãnh đạo Công đoàn.

Việc xây dựng chương trình về công tác Công đoàn còn thiếu sự vận dụng sáng suốt, không ít cấp ủy đảng đề ra chương trình một cách chung chung, đại khái, thiếu các giải pháp cụ thể; thậm chí còn coi công tác vận động công nhân làm nhiệm vụ riêng làm tổ chức Công đoàn. Ngược lại, có nơi cấp ủy lại “lấn sân” dẫn đến tình trạng “cầm tay chỉ việc” cho Công đoàn, không tôn trọng tính độc lập, lao động sáng tạo của Công đoàn.

Thứ ba, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn còn chưa được quan tâm đúng mực độ dẫn đến tình trạng hụt hẫn, chấp vá. Vẫn còn cách nghĩ cán bộ Công đoàn không đòi hỏi về năng lực, nên bố trí những cán bộ không có khả năng chuyên môn hoặc những cán bộ nghĩ chế độ làm công tác Công đoàn, nhát là không tìm ra được một người đức tài ngang tầm với Chủ. Đều này làm cho uy tín và vị thế của tổ chức Công đoàn ngày càng bị suy giảm. Chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ Công đoàn không có, làm cho không ít cán bộ công đoàn không an tâm phục vụ. Chưa có cơ chế hữu hiệu bảo vệ cán bộ Công đoàn khi họ đấu trnah cho quyền lợi người lao động mà bị giới chủ trù dập, chuyển công tác thậm chí còn cho nghỉ việc.

Thứ tư, về lực lượng Công đoàn: hầu hết các bộ Công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, tập trung số lượng lớn công nhân đều đều làm kiêm nhiệm. Do có quyền lợi gắn liền với doanh nghiệp lại chưa được đào tạo bài bản về chuyên ngành thiếu kiên thức hiểu biết về pháp luật nên khả năng đấu tranh, bảo vệ lợi ích của người lao động của cán bộ Công đoàn hạn chế.

Thứ năm, về việc phối hợp với người sử dụng lao động thỏa thuận các vấn đề về quan hệ lao động: trong các doanh nghiệp có vốn  đầu tư nước ngoài nhìn chung chưa xây dựng và thực hiện được cơ chế phối hợp giữa Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở với người sử dụng lao động. Người đứng đầu trong tổ chức  Công đoàn cũng là người làm công, hưởng lương từ chủ doanh nghiệp nên vị thế trên thực tế của cán bộ Công đoàn không được bình đẳng với chủ doanh nghiệp trong việc thảo luận các vấn đề quan hệ lao động.

Thứ sáu, trong việc tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật lao động: mặc dù tổ chức Công đoàn đã nổ lực thực hiện kiểm tra, giám sát trong điều kiện có thể, song đều dễ nhận thấy là tình trạng vi phạm pháp luật lao động, không thực hiện đầy đủ chế độ chính sách đối với người lao động vẫn còn diễn ra nhiều lúc, nhiều nơi và các vụ đình công, lãng công vẫn xảy ra.

Mặc dù pháp luật đã quy định quỹ thời gian cho cán bộ Công đoàn hoạt động Công đoàn. Tuy nhiên, hầu hết các Công ty đều cố tình làm ngơ như không biết, cán bộ Công đoàn cơ sở là người thuê và nhận lương từ giới chủ, nếu không được sự cho phép thì cũng không tự ý nghỉ. Cán bộ Công đoàn cũng phải lo việc của Công ty để nhận lương nên không có thời gian đầu tư cho công tác Công đoàn. Do vậy, hiệu quả hoạt động này của công đoàn cơ sở phần lớn phụ thuộc vào chủ doanh nghiệp thực sự quan tâm hay không.

Thứ bảy, trong công tác thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể: việc thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể ở khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ lệ thấp và chất lượng còn hạn chế. Phần lớn các bản thỏa ước chỉ là sự sao chép lại các quy định của pháp luật; hoặc có thỏa ước nhưng doanh nghiệp không thực hiện đúng các điều khoản đã ký kết, thực chất vi phạm pháp luật. Cán bộ Công đoàn cơ sở có biết việc vi phạm nhưng họ cũng là người lao động sợ mất việc làm không dám đấu tranh.

Thứ tám, trong công tác thi đua khen thưởng tại các đơn vị hành chính nhà nước : việc công nhân viên chức thường bị theo dõi tìm khuyết điểm để trù dập hơn là khuyết khích và động cơ để làm việc tốt hơn.việc này thường xuất phát từ ý định của chủ hay là người sử dụng lao động, trong khi đó người đứng đầu Công đoàn thì bất lực.

2.4.2. Hoạt động thực tiển tại Công đoàn Trường THPT chuyên Nguyễn Đình Chiểu – TP Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp

Công đoàn tham gia quản lý Nhà nước; chăm lo đời sống, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CBVCLĐ.

TT Chỉ tiêu đăng ký Kết quả thực hiện Đánh giá
1 Thăm hỏi, ốm đau, thai sản, tai nạn, hiếu hỉ. 263 lần. Tổng số tiền 49.870.000đ Đạt
2 Chúc mừng sinh nhật CĐV 47.000.000đ (Thực hiện 100%) Đạt
3 Tổ chức trung thu, khen thưởng con CĐV học giỏi 58.000.000đ Đạt
4 “Góp vốn xoay vòng” không tính lãi: 15.000.000 18.000.000đ/tháng Vượt
5 Tạo điều kiện vay vốn ngân hàng cho CĐV  Trên 400.000.000 Vượt
6 Hỗ trợ ngày 20/11, tết nguyên đán 73.500.000đ Đạt
7  “Bao gạo nghĩa tình”, “Niềm tin trao tay”: 120 xuất 224xuất.Tổng số tiền:34.900.000đ Vượt
8 Mỗi năm CĐV đều được đồng phục mới. Có thực hiện Đạt
9 Tham gia kiểm tra căn tin, ATVSLĐ, PCCN:9l/năm 12 lần/năm Vượt
10 Giám sát các chế độ chính sách: tiền lương, thừa giờ, tiền phụ cấp, tiền thâm niên, tiền tăng tiết: 6l/năm. 12 lần/năm Vượt
11 Phối hợp cùng chính quyền tổ chức Hội nghị CBCC Có thực hiện Đạt
12 Cùng  xây dựng quy chế phối hợp, chi tiêu nội bộ Có thực hiện Đạt
13 Cùng  trường tham gia quản lý đơn vị Có thực hiện Đạt
14 Tham gia họp liên tịch và các hội đồng trường. Có thực hiện Đạt
15 Tham gia góp ý, xét thi đua học kỳ và cuối năm. Có thực hiện Đạt
16 Khen thưởng CĐV đạt giải phong trào cấp tỉnh 3.900.000đ Đạt

[6]

Thực tế cho thấy nhiều chỉ tiêu công tác Công đoàn tại Công đoàn cơ sở này chỉ  ở mức Đạt , Như vậy chưa đáp ứng được yêu cầu của Người Lao động , ở đây là Cán bộ – giáo viên Nhà trường THPT chuyên Nguyễn Đình Chiểu TP Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp

2.5. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của Công đoàn, trách nhiệm của người đứng đầu trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.

Thứ nhất, cần phải có những nghiên cứu xây dựng các quy định cụ thể bảo vệ cán bộ Công đoàn,Người đứng đầu tổ chức Công đoàn trước những hành vi đối xử bất bình từ người sử dụng lao động. Theo kinh nghiệm của  một số nước nhằm bảo vệ cán bộ Công đoàn nên quy định: người sử dụng lao động là cán bộ Công đoàn không chuyên trách được bảo đảm việc làm theo hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc được giao kết với cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp. Trường hợp có hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hết hạn mà người lao động đang trong nhiệm kỳ tham gia Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở,nhất là người đứng đầu trong tổ chức công đoàn thì mặc nhiên được tiếp tục thực hiện hợp đồng đến hết nhiệm kỳ; nếu vẫn được tín nhiệm bầu tham gia Ban chấp hành Công đoàn cơ sở nhiệm kỳ tiếp theo thì được ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động xác định thời hạn bằng với thời hạn nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở.

Trong thời gian người lao động là công tác Công đoàn, cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp sử dụng lao động không được có các hành vi đối xử bất bình đẳng với cán bộ Công đoàn. Trong trường hợp người lao động làm công tác Công đoàn bị chủ sử dụng lao động đối xử bất bình đẳng thì Công đoàn cơ sở yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẫm quyền can thiệp, bảo vệ.

Thứ hai, cần có những quy định cụ thể về thành phần Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở để Ban Chấp hành Công  đoàn cơ sở thực sự là người đại diện cho quyền lợi của  công nhân lao động. Phải đảm bảo cán bộ Công đoàn không bao gồm cán bộ quản lý chủ doanh nghiệp hoặc người thân của họ, như vậy cán bộ Công đoàn mới bảo vệ được quyền lợi với người lao động.

Thứ ba, cần phải bổ sung, hoàn thiện pháp luật quy định trình tự, nội dung, thời gian thương lượng tập thể. Hệ thống pháp luật lao động hiện hành quy định chưa cụ thể về trình tự thương lượng tập thể, đối tượng, nội dung, thời gian thương lượng nên việc đàm phán thương lượng ở khá nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa thực chất và mang nặng hình thức. Cần hoàn thiện, bổ sung các quy định về chế tài xử phạt đủ mạnh đối với các vi phạm trong thương lượng, ký kết và thực hiện thỏa ước lao động tập thể. Chính vì việc làm thiếu các quy định, chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật nên nhiều doanh nghiệp lợi dụng để né tránh, thậm chí không thương lượng, ký kết đăng ký thỏa ước.

Thứ tư, phát triển đoàn viên đẩy mạnh hơn nữa việc thành lập Công đoàn cơ sở trong tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước.

Thứ năm, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật cho các đoàn viên, người lao động nhất là quy định của Luật lao động, Luật Công đoàn và Điều lệ Công đoàn.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện pháp luật trong công nhân viên chức lao động theo hướng đa dạng hóa hình thức, nội dung sát thực với từng đối tượng; trong đó tập trung vào người lao động trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước.

Thứ sáu, không ngừng hoàn thiện công tác tổ chức, nâng cao chất lượng, năng lực cán bộ công đoàn. Bố trí cán bộ trong hệ thống Công đoàn phù hợp với công việc, năng lực, sở trường của mình. Khơi dậy niềm đam mê, nhiệt tình trong công việc, động viên, hướng dẫn kịp thời. Ngoài ra, cũng cần chăm lo đời sống vật chất, tinh thần để cán bộ Công đoàn gắn bó với công việc.Cần tuyển chọn cán bộ có năng lực thực sự, thực hiện công tác luân chuyển theo quy định của Đảng về công tác cán bộ để một người có thể đảm đương nhiều việc, nhiều vị trí khác nhau. Trong quá trình đó, việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ làm việc làm định kỳ, thường xuyên để cán bộ Công đoàn có điều kiện tiếp cận kỹ năng, phương pháp hoạt động và nắm bắt những quy định pháp luật mới.

Thứ bảy, người đứng đầu trong tổ chức Công đoàn luôn gương mẫu ., biết hy sinh lợi ích cá nhân., biết sống vì lợi ích chính đáng của người lao động ., luôn phát huy tinh thần yêu nước trong thi đua., kịp thời đề xuất với người sử dụng lao động khen thưởng thích đáng cho cá nhân đạt hiệu quả cao trong lao động.

Vấn cốt lõi là đổi mới công tác tổ chức , đổi mới ngay chính người đứng đầu trong tổ chức Công Đoàn : “ Đổi mới tổ chức, cán bộ Công đoàn là nội dung quan trọng của hoạt động Công đoàn. Trong đổi mới tổ chức điều quan trọng trước nhất là xác định đúng, chính xác cơ cấu bộ máy tổ chức của hệ thống tổ chức Công đoàn từ Trung ương xuống cơ sở, đảm bảo tinh, giảm, gọn, vững chắc. Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ của từng cấp trong cơ cấu bộ máy tổ chức, tránh trùng lặp, chồng chéo hoặc bỏ sót công việc. Chú trọng xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh. Trong đổi mới cán bộ hết sức quan tâm việc rà soát, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ Công đoàn hiện nay. Xây dựng chức danh, tiêu chuẩn cán bộ, quy hoạch gắn với đào tạo, sử dụng cán bộ. Bố trí, sắp xếp, sử dụng hợp lý cán bộ trên nguyên tắc: vì việc tìm người chứ không vì người tìm việc. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ nhất là trong khu vực ngoài quốc doanh. Có chế độ, chính sách động viên, khuyến khích cán bộ tích cực hoạt động Công đoàn. Có cơ chế bảo vệ cán bộ Công đoàn trong cơ chế thị trường”[7]  biết loại bỏ những cán bộ công đoàn đứng đầu không còn uy tính và mạnh dạng thay thế người có đủ bản lĩnh lãnh đạo công nhân và người lao động.

Giải Pháp thực tiển tại Công đoàn cơ sở Trường THPT chuyên Nguyễn Đình Chiểu TP Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp:

“- Tăng cường công tác tham mưu, phối hợp với chính quyền xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ; giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; tích cực, chủ động trong công tác kiểm tra giám sát;  đánh giá, sơ kết, tổng kết; chủ động hội nhập, không ngừng sáng tạo, giao lưu học tập kinh nghiệm; thực hiện đăng ký thi đua ngay từ đầu năm học để công đoàn viên phấn đấu.

– Thường xuyên phát hiện những gương điển hình, những việc làm tốt để nêu gương, khen thưởng và phát hiện những sai phạm để kịp thời chấn chỉnh.”[8]

Tóm lại , Theo cách nhìn của người viết là : tình trạng thực tế hiện nay cần nhìn nhận người đứng đầu trong tổ chức Công đoàn còn hạn chế nhiều về việc chăm lo lợi ích chính đáng cho người lao động . vậy nên cần thay đổi chính trong cái bản chất và tư duy lãnh đạo của người đứng đầu trong một tổ chức lớn mạnh hiện nay như là tổ chức Công đoàn , có như vậy mới bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động.

KẾT LUẬN

Người đứng đầu Công đoàn cơ sở có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong doanh nghiệp và với người lao động. Một tổ chức Công đoàn cơ sở hoạt động hiệu quả, một người đứng đầu tổ chức Công đoàn gương mẫu., nhiệt tình, có trách nhiệm, biết chăm lo cho người khác có thể giúp cân đối lợi ích của người sử dụng lao động và bảo vệ lợi ích chính đáng cho người lao động, qua đó góp phân nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Lâu nay, các chủ doanh nghiệp có rất ngần ngại việc thành lập Công đoàn cơ sở. Có nhiều doanh nghiệp cho rằng hoạt động của Công đoàn cơ sở vừa tốn kém thời gian, nhân lực… Trong khi đó, người lao động cũng không mặn mà với việc tham gia Công đoàn cơ sở. Họ cho rằng, điều này chỉ tốn thời gian, phải đóng  đoàn phí, trong khi quyền lợi thì hầu như không có. Tuy nhiên, nếu tổ chức Công đoàn cơ sở thực sự phát huy được tối đa vai trò và năng lực của mình, một người đứng đầu mẫu mực thì những lợi ích mà Công đoàn mang lại thật sự vô cùng lớn cho cả doanh nghiệp cũng như người lao động.

Công đoàn là nơi giải quyết những khúc mắc của người lao động với doanh nghiệp, tham gia ý kiến với doanh nghiệp trong việc tổ chức bữa ăn ca cho người lao động. Bên cạnh đó, Công đoàn còn đóng góp ý kiến với doanh nghiệp về môi trường làm việc, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi của người lao động; đề nghị doanh nghiệp kiểm tra lại hệ thống thông gió, chống nóng, hạn chế tiếng ồn và trang bị đầy đủ thiết bị bảo hộ lao động theo đúng công việc cho người lao động.

Khi trách nhiệm của người đứng đầu trong tổ chức Công đoàn trong Doanh nghiệp được phát huy hiệu quả thì phong trào sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp được đẩy mạnh, sẽ đem lại những lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp phát triển bền vững và xây dựng đội ngũ lao động vững mạnh, góp phần nâng cao sức cạnh tranh, uy tín, hình ảnh, thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường và trong các cơ quan nhà nước , đơn vị, tổ chức có Chủ tịch Công đoàn phát huy tốt vai trò trách nhiệm của mình sẽ góp phần hoàn thành các chỉ tiêu , kế hoạch của nhá nước , góp phần vào công cuộc đổi mới  của Đảng nhà nước và nhân dân đạt nhiều thắng lợi./.

SVTH: Lê Văn Nam

GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên


[1]Điều 10 Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013

[2]Điều 1 luật Công đoàn năm 2012

[3] Điều 5. Quyền và nghĩa vụ của người lao động năm 2012

[4] Khoản 1 Điều 188 Bộ luật lao động 2012

[5] Trang 54 tài liệu hướng dẫn luật công đoàn, Diệp Thành Nguyên – Khoa luật ĐHCT

[6] Trang 13 Bài báo cáo Tổng kết Công đoàn cơ sở Trường THPT chuyên Nguyễn Đình Chiểu – TP Sa Đéc,  tỉnh Đồng Tháp

[7] Trang 72 tài liệu hướng dẫn học tập luật Công đoàn, Diệp Thành Nguyên – Khoa luật ĐHCT

[8] Trang 12 Bài báo cáo Tổng kết công tác Công đoàn cơ sở Trường THPT chuyên Nguyễn Đình Chiểu – TP Sa Đéc,  tỉnh Đồng Tháp

2/5 - (1 bình chọn)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền