Các loại chủ thể của luật đầu tư

Luật Đầu tư

Các loại chủ thể của luật đầu tư

Một trong những đặc trưng của quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật đầu tư nói riêng là tính xác định về cơ cấu chủ thể. Xuất phát từ tính chất của hoạt động đầu tư, để bảo vệ lợi ích của các cá nhân, tổ chức và toàn thể xã hội, pháp luật quy định những chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đầu tư và những điều kiện cần đáp ứng để có thể tham gia các quan hệ đó. Các chủ thể đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định để tham gia quan hệ đầu tư được coi là có năng lực chủ thể pháp luật đầu tư (năng lực pháp luật và năng lực hành vi). Chủ thể cơ bản của quan hệ pháp luật đầu tư là nhà đầu tưcác cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư.

Nhà đầu tư

Đầu tư

Trước khi ban hành Luật Đầu tư năm 2014, đối tượng nhà đầu tư chủ thể của quan hệ đầu tư được quy định không giống nhau giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đối với các quan hệ đầu tư trong nước, chủ thể của quan hệ đầu tư được quy định trong nhiều văn bản pháp luật (Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) năm 1998, Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003, Luật hợp tác xã năm 2012, Luật doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành). Theo đó cho thấy, chủ thể của quan hệ pháp luật đầu tư trong nước có phạm vi rất rộng, bao gồm các cá nhân, tổ chức không bị cấm đầu tư vốn để kinh doanh và các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Đối với đầu tư nước ngoài, chủ thể của quan hệ luật đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tham gia quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài do luật đầu tư nước ngoài điều chỉnh bao gồm: các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế; bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ, khoa học kĩ thuật, khoa học tự nhiên; Nhà đầu tư nước ngoài (gồm tổ chức kinh tế nước ngoài và cá nhân nước ngoài); Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài); Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng BOT, BTO và BT (bao gồm các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương).

>>> Xem thêm: Khái niệm, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật đầu tư

Theo Luật Đầu tư năm 2014, chủ thể nhà đầu tư trong quan hệ pháp luật đầu tư được mở rộng và được quy định thống nhất giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư được hiểu là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam, bao gồm:

– Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo Luật Doanh nghiệp;

– Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã;

– Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước khi luật này có hiệu lực;

– Hộ kinh doanh, cá nhân;

– Tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước ngoài thường trú ở Việt Nam;

– Các tổ chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Quy định về nhà đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 thể hiện cụ quan điểm không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư thuộc các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế khác nhau, không phân biệt quốc tịch của nhà đầu tư. Đây là cơ sở quan trọng đảm bảo quyền tự do và sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư, các ứng yêu cầu đảm bảo và khuyến khích đầu tư trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư

Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đầu tư, nhà nước, thông qua các cơ quan nhà nước khác nhau, với sự phân công, phân cấp thẩm quyền quản lý cho từng cơ quan một cách phù hợp. Theo Luật Đầu tư năm 2014, trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư được phân cấp như sau:

– Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư trong phạm vi cả nước.

– Bộ kế hoạch và đầu tư chút trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư.

– Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư trong phạm vi cả nước.

– Bộ kế hoạch và đầu tư chút trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư.

– Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư đối với lĩnh vực được phân công.

– Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư trên địa bàn theo phân cấp của Chính phủ.

Khi xem xét tư cách chủ thể của cơ quan nhà nước trong các quan hệ pháp luật đầu tư, cần phân biệt hoạt động quản lý nhà nước về đầu tư với hoạt động đầu tư vốn kinh doanh của nhà nước. Khi nhà nước đầu tư vốn để kinh doanh, nhà nước có tư cách của một nhà đầu tư tổ chức. Nhà nước (thông qua các cơ quan, tổ chức và công chức nhà nước) phải tuân thủ pháp luật về đầu tư và được đối xử bình đẳng với các nhà đầu tư khác trong xã hội.

Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư

Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư là nội dung cơ bản của quan hệ pháp luật đầu tư. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư được ghi nhận bởi pháp luật. Trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư, trên cơ sở pháp luật, nhà chung cư còn có thể tạo ra các quyền và nghĩa vụ cho mình, những quan hệ đầu tư cụ thể.

Luật Đầu tư năm 2014 quy định (ở mức độ nguyên tắc) những quyền và nghĩa vụ cơ bản của nhà đầu tư. Ngoài ra, gắn với từng dự án đầu tư, các quyền và nghĩa vụ cụ thể của nhà đầu tư được quy định trong các văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau như: pháp luật về tổ chức doanh nghiệp, pháp luật về lao động, pháp luật về đất đai, tài nguyên, pháp luật về thuế, pháp luật về quản lý ngoại hối, pháp luật về bảo vệ môi trường…

>>> Xem thêm: Nguồn của luật đầu tư

5/5 - (24095 bình chọn)

Phản hồi

  1. cho em hỏi là công ty TNHH có 100% vốn nước ngoài thuộc chủ thể nhà đầu tư nước ngoài hay tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ạ?

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền