1. Hiến pháp năm 2013–Những điểm mới cơ bản về quyền tư pháp, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án với việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014, ghi nhận nhiều quy định mới, có tính đột phá, tạo nền tảng để hoàn thiện Tòa án bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thứ nhất, lần đầu tiên kể từ sau Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ địa vị pháp lý của Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; đồng thời, hiến định nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ), tư pháp (Tòa án) trong việc thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất do nhân dân giao phó;
Thứ hai, cũng lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định sứ mệnh cao quý, riêng có của Tòa án là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (Điều 102). Quy định này vừa thể chế hóa mục tiêu của Chiến lược cải cách tư pháp là “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý”, vừa phản ánh khát vọng của nhân dân về một Tòa án đại diện cho công lý trong Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân;
Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 đã hiến định các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Tòa án với nhiều nội dung mới, đột phá, phản ánh thành quả bước đầu của cuộc cải cách tư pháp lâu dài, khó khăn theo các định hướng chiến lược mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Đảng đã đề ra.
Hiến pháp năm 2013 đồng thời tạo cơ sở hiến định cho các khâu đột phá của Chiến lược cải cách tư pháp về hoạt động xét xử của Tòa án bằng việc bổ sung những nguyên tắc mới chưa được quy định trong các bản Hiến pháp trước đây, đó là nguyên tắc hai cấp xét xử: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” (khoản 6 Điều 103) và nguyên tắc tranh tụng – khâu đột phá của Chiến lược cải cách tư pháp “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (khoản 5 Điều 103);
Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 đã hoàn thiện đáng kể các quy định về quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tố tụng tư pháp. Quyền bào chữa, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong các quá trình tố tụng tư pháp được khẳng định và mở rộng so với các bản Hiến pháp trước đây. Khoản 7 Điều 103 quy định: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm” vừa là sự ghi nhận quyền con người phải được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm trong tố tụng tư pháp, vừa là một phương thức bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Không chỉ thế, quyền bào chữa và phương thức thực hiện quyền bào chữa trong suốt quá trình tố tụng hình sự còn được quy định rõ, cụ thể tại khoản 4 Điều 31: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Quyền của người bị buộc tội “phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai” (khoản 2 Điều 31) cùng với nguyên tắc suy đoán vô tội được sửa đổi, bổ sung theo hướng chuẩn xác hơn, minh bạch và pháp quyền hơn bằng quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (khoản 1 Điều 31) là những điểm mới quan trọng nhằm đảm bảo quyền tiếp cận tư pháp, tiếp cận công lý- một quyền con người quan trọng đã được ghi nhận trong Công ước của Liên Hợp Quốc về các quyền dân sự, chính trị của con người. Quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần, được phục hồi danh dự do hành vi trái pháp luật của những cơ quan và người tiến hành tố tụng cũng được quy định cụ thể và mở rộng phạm vi đến người bị bắt, tạm giữ, tạm giam và trong tất cả các giai đoạn khởi tố, điều tra truy tố, xét xử, thi hành án (khoản 5 Điều 31).
Việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong lĩnh vực tố tụng phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản đã được Hiến pháp lần đầu tiên ghi nhận, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, cụ thể là nguyên tắc “các quyền con người, quyền công dân… được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” và nguyên tắc “quyền con người chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết bì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14).
Các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Tòa án và các nguyên tắc bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân cùng những quy định cụ thể về quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp trong Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định vững chắc cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án và các cơ quan, tổ chức tham gia thực hiện quyền tư pháp phù hợp với định hướng cải cách tư pháp vì mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
2. Vị trí, vai trò của Tòa án trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Tòa án là một trong những cơ quan nhà nước được hình thành sớm nhất xuất phát từ nhu cầu chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ thành quả cách mạng, củng cố và xây dựng chính quyền nhân dân. Trước khi Hiến pháp năm 1946 được thông qua, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nhiều Sắc lệnh như: Sắc lệnh số 33C-SL ngày 13/9/1945, Sắc lệnh số 77C ngày 18/12/1945, Sắc lệnh số 13/SL ngày 21/01/1946, Sắc lệnh số 21/SL ngày 24/01/1946… thành lập hệ thống Tòa án nước ta. Quá trình phát triển của hệ thống Tòa án đã gắn liền với quá trình hoàn thiện và củng cố Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và hiện nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, luôn đề cao hoạt động bảo vệ quyền con gười, quyền công dân – được coi là nhân tố tạo dựng một xã hội dân chủ và tiến bộ.
Qua gần 70 năm xây dựng và phát triển, với những thay đổi khi thì về tổ chức, khi thì về thẩm quyền, nhưng trong hệ thống các cơ quan nhà nước, Tòa án luôn được khẳng định là cơ quan xét xử của Nhà nước, nhân danh Nhà nước tiến hành các hoạt động xét xử, nhằm mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Xét xử có vai trò rất quan trọng trong việc giữ vững ổn định và phát triển của xã hội. Sự ổn định của trật tự pháp luật trong nước, việc giữ vững kỷ cương xã hội, sự tự do và an toàn của con người…một phần quan trọng phụ thuộc vào hoạt động xét xử của Tòa án. Bởi vì xét xử bao giờ cũng gắn với việc Tòa án nhân danh Nhà nước ra bản án hoặc quyết định có tính chất kết luận về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý xảy ra trong xã hội; xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước. Vì vậy, mặc dù các bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 không ghi cụ thể, nhưng đều thể hiện hoạt động xét xử của Tòa án là để bảo vệ những quyền công dân đã được Hiến định thông qua các quy định về xét xử của Tòa án. Nhiệm vụ của Tòa án đã được quy định thành điều luật riêng trong bản Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992: Tòa án nhân dân trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân lao động, bảo vệ tài sản của Nhà nước và của tập thể, bảo đảm sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân và đã được khái quát cô đọng, sâu sắc tại bản Hiến pháp năm 2013: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (khoản 3 Điều 102).
Với tư cách là cơ quan xét xử, không thể thay thế bởi bất kỳ cơ quan tiến hành tố tụng hoặc cơ quan nhà nước nào, Tòa án có quyền phán quyết những vấn đề về quyền con người như: Tuyên bố một người đã chết; xác định cha, mẹ cho con; tuyên bố tước, hạn chế tự do; áp dụng các hình phạt liên quan đến quyền con người…Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Theo nguyên tắc này, một người bị kết tội phải có 02 điều kiện: Một là, phải được chứng minh tuân theo một trình tự luật định; hai là, có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Một người bị buộc tội tuy vẫn phải chịu một số biện pháp cưỡng chế nhất định, có thể là bị hạn chế tự do, nhưng những biện pháp này không được coi là hình phạt, không ai được xem là họ có tội và họ không phải chịu bất kỳ một hình phạt nào khi chưa có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, chỉ Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử mới có quyền phán quyết một người là có tội và cũng chỉ có Tòa án mới được quyền áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Đây là nguyên tắc cơ bản nhằm đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân đã được quy định trong Hiến pháp; đồng thời khẳng định vị trí, tầm quan trọng của hoạt động xét xử trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người.
Tại phiên tòa, dưới sự điều khiển của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người bào chữa, luật sư…(trong vụ án hình sự); các bên đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của các đương sự (trong vụ án phi hình sự) đều có quyền trình bày ý kiến, quan điểm của mình về vụ án… Vì vậy, phán quyết của Hội đồng xét xử là kết quả của quá trình thẩm vấn và tranh tụng mà các bên được tham gia trong quá trình xét xử tại Tòa án, thể hiện quyền được xét xử công bằng và bình đẳng, là quyền cơ bản của cong dân khi tiếp cận công lý.
Trong quá trình xét xử, Tòa án có quyền phán quyết đối với các chứng cứ, tài liệu, trong đó có các kết luận của cơ quan bổ trợ tư pháp. Một tài liệu xác nhận của cơ quan có thẩm quyền có thể bị Tòa án yêu cầu xem xét lại khi nó không phù hợp với thực tế khách quan; một kết luận giám định có thể bị Tòa án trưng cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại nếu Tòa án có sự nghi ngờ đối với kết luận đó…Đây cũng chính là hoạt động tìm ra sự thật khách quan trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án, nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Khi tham gia vào quá trình hòa giải, đối thoại giữa các đương sự (trong các vụ án phi hình sự), Tòa án hướng dẫn và giải thích để các bên đương sự có những thỏa thuận hoàn toàn theo ý chí của mình, nhưng không trái với các quy định của pháp luật. Trong thực tế, sự thỏa thuận của các đương sự trong quá trình hòa giải rất có thể bị vi phạm hoặc không được thực hiện; vì vậy, để sự thỏa thuận ấy trở thành hiện thực và hai bên có nghĩa vụ tuân theo, thì những thỏa thuận đó phải được cụ thể hóa bằng một quyết định công nhận của Tòa án. Đây cũng là biện pháp để bảo đảm cho quyền lợi chính đáng của người dân được thực thi hữu hiệu. Vì vậy, có thể nói rằng, trong quá trình hòa giải, đối thoại giữa các đương sự, ngoài vai trò là người hướng dẫn, định hướng, giải thích pháp luật cho các bên, Tòa án còn có vai trò nhân danh Nhà nước, “pháp luật hóa” hay nói cách khác là ghi nhận sự thỏa thuận của các bên, bảo đảm cho những thỏa thuận này được thực thi nghiêm chỉnh.
Vụ án hình sự, dân sự, hành chính luôn luôn là hậu quả của những yếu tố, những tình tiết nào đó được coi là những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm và vi phạm. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án phát hiện ra những nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan, những thiếu sót trong công tác quản lý của các chủ thể khác nhau, dẫn đến tội phạm và vi phạm, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa hạn chế những vi phạm hoặc những xung đột mới tiếp tục xảy ra, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân.
3. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử của Tòa án
Đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử trước hết là phải tạo điều kiện, tiền đề để cá nhân, tổ chức dễ dàng tiếp cận (trực tiếp hoặc gián tiếp) tới Tòa án để thực hiện và bảo vệ các quyền của mình; hoạt động xét xử của Tòa án phải được thực hiện theo một thủ tục tố tụng tư pháp chặt chẽ, khách quan, tuyệt đối tuân thủ pháp luật và mang tính độc lập tuyệt đối; thẩm phán và hội thẩm phải vô tư, khách quan trong thực thi công vụ, áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật; đảm bảo các nguyên tắc trong hoạt động xét xử để hoạt động xét xử đạt hiệu quả, hiệu lực, đạt được mục tiêu bảo vệ công lý, quyền con người và quyền công dân.
Việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử gắn liền với trách nhiệm của Tòa án trong thực thi công quyền. Cơ chế bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử được thể hiện thông qua việc áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng và các quy định của pháp luật nội dung để giải quyết vụ việc tại Tòa án. Nói cách khác, bảo đảm quyền con người, quyền công dân thông qua việc bảo đảm những người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng tại Tòa án. Cụ thể:
Một là, quyền được yêu cầu Tòa án hảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Mọi công dân đều có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ khi họ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Các cơ quan nhà nước, trong đó có Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân theo chức năng, nhiệm vụ của mình;
Hai là, quyền được có mặt tại phiên tòa (sơ thẩm, phúc thẩm) và những trường hợp Tòa án có thể xét xử vắng mặt họ: Những trường hợp bắt buộc người tham gia tố tụng phải có mặt tham gia phiên tòa mà Tòa án vẫn xét xử vắng mặt họ, thì bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và sẽ bị hủy án để xét xử lại.
Trong phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sư, nếu bị cáo hoặc đương sự vắng mặt có lý do chính đáng, thì Hội đồng xét xử có thể vẫn tiến hành xét xử, nhưng không được ra bản án hoặc quyết định không có lợi cho bị cáo hoặc đương sự vắng mặt, trong trường hợp khác thì phải hoãn phiên tòa (1). Đối với phiên tòa xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự, trường hợp Tòa án đã quyết định hoãn phiên tòa lần thứ nhất, sau đó Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng đương sự hoặc người đại diện của đương sự; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; người kháng cáo vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng (do thiên tai, địch hoạ, bị tai nạn, ốm nặng phải đi bệnh viện cấp cứu, người thân bị chết,…) thì Toà án phải hoãn phiên toà. Trường hợp do Toà án không nhận được thông báo từ phía đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nên vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ, nếu sau khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, đương sự có khiếu nại và chứng minh được việc họ vắng mặt tại phiên toà là do sự kiện bất khả kháng, thì khiếu nại cần được xem xét theo thủ tục tái thẩm (2).
Để bảo đảm quyền lợi chính đáng của cá nhân, tổ chức, đồng thời giữ nghiêm pháp luật, trong trường hợp đương sự có đơn xin hoãn phiên tòa nhiều lần, Thẩm phán phải xem xét kỹ lưỡng, yêu cầu đương sự xuất trình các chứng cứ cho yêu cầu hoãn, đánh giá hoàn cảnh cụ thể của đương sự, xem xét đương sự có biểu hiện trây ỳ hoặc gây khó khăn cho việc xét xử hay không… để quyết định;
Ba là, quyền được bào chữa của bị cáo, quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: Người bị buộc tội có quyền được tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; các đương sự trong các vụ án dân sự, hành chính được quyền bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác (có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật) bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đây là quy định để bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người, quyền công dân và góp phần ngăn ngừa, kiểm soát việc lạm quyền, vi phạm pháp luật của các cá nhân trong các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Trong vụ án hình sự, xét xử bị cáo bị truy tố về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình; bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, nếu bị cáo hoặc người nhà của bị cáo không mời luật sư bào chữa, thì Tòa án phải yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng Luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình (3);
Bốn là, quyền được trình bày ý kiến, quan điểm, tranh luận về vụ án: Để bị cáo, các đương sự được thực hiện đầy đủ quyền trình bày ý kiến, quan điểm, tranh luận về vụ án, không những Tòa án phải thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng, tạo điều kiện cho bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp của họ; các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được tham gia tranh luận, trình bày ý kiến, xuất trình tài liệu, chứng cứ…, mà bản thân những người này cũng phải biết cách tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi tham gia tố tụng tại phiên tòa, đặc biệt là trong giai đoạn tranh luận. Nhìn chung, đối với các phiên tòa có sự tham gia của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, các hoạt động như đưa ra chứng cứ mới; triệu tập người làm chứng; đưa ra vật chứng; việc tham gia xét hỏi của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng; việc phát biểu đánh giá chứng cứ; đề nghị áp dụng pháp luật… được thực hiện tương đối đầy đủ; trong phạm vi nhất định, cùng với các tài liệu, chứng cứ khác đã giúp Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án để ra một phán quyết khách quan, toàn diện và đúng pháp luật. Đối với phiên tòa không có sự tham gia của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, thì việc trình bày ý kiến, quan điểm, tranh luận về vụ án của bị cáo, các đương sự vẫn còn có nhiều bất cập. Đặc biệt là những vụ án có bị cáo, các đương sự ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn và thuộc dân tộc thiểu số ít người. Đại đa số những người này có trình độ hiểu biết pháp luật rất hạn chế, nên thường không biết cách trình bày nội dung bào chữa, cũng như những ý kiến phản bác đối với ý kiến kết luận của đại diện Viện kiểm sát; không biết cách tự bảo vệ quyền lợi của mình nên việc tranh tụng trong những phiên tòa này thường đơn giản. Do đó, cần phải tăng cường đội ngũ trợ giúp viên pháp lý và luật sư là cộng tác viên trợ giúp pháp lý tại các Trung tâm Trợ giúp pháp lý ở vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, khu vực miền núi… để giúp người dân nâng cao kiến thức pháp luật, hỗ trợ người dân trong hoạt động tố tụng giải quyết vụ việc tại Tòa án. Nhà nước cần nghiên cứu xây dựng chế định luật sư công, thành lập tổ chức luật sư công tại những địa bàn nêu trên để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc mời luật sư tham gia bào chữa hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình khi tham gia phiên tòa;
Năm là, quyền được kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm: Đây là quyền được yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định chưa có hiệu lực của Tòa án. Bị cáo, các đương sự được quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thông qua quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật với phạm vi và giới hạn do pháp luật quy định. Trong trưòng hợp đơn kháng cáo của người có quyền kháng cáo, có nội dung kháng cáo thuộc giới hạn kháng cáo, nhưng quá thời hạn theo quy định của pháp luật mà có lý do chính đáng (trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác: Do thiên tai, lũ lụt; do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện…) làm cho người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định, thì Toà án cấp phúc thẩm phải thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán để xem xét quyết định chấp nhận hay không chấp nhận đơn kháng cáo quá hạn (4);
Sáu là, quyền được đề nghị Tòa án xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm: Các bản án, quyết định của Tòa án phải được áp dụng đúng pháp luật về nội dung, cũng như pháp luật về hình thức, phản ánh sự công bằng và khách quan, khi có hiệu lực pháp luật phải được thi hành. Tuy nhiên, sẽ không công bằng và vi phạm nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa nếu bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có vi phạm pháp luật; xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; nếu không được sửa chữa mà vẫn đem ra thi hành. Dó đó, bên cạnh nguyên tắc xét xử hai cấp, nếu có căn cứ để cho rằng các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó, thì người bị kết án, các đương sự có quyền gửi văn bản đề nghị người có thẩm quyền xem xét kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;
Bảy là, quyền được khiếu nại, tố cáo đối với quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án, Phó Chánh án và thẩm phán trong việc giải quyết các vụ án: Đây là quy định mang tính chất dân chủ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong các giai đoạn Tòa án giải quyết vụ việc. Cá nhân, tổ chức có quyền khiếu nại, tố cáo về hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà họ cho rằng không đúng pháp luật, gây thiệt hại, hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích chính đáng của họ; họ có quyền được trả lời bằng văn bản về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và được khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Trong thực tế, các đơn khiếu nại, tố cáo đối với quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án, Phó Chánh án và thẩm phán có nội dung chủ yếu liên quan đến việc Tòa án chậm đưa vụ án ra xét xử; trả lại đơn yêu cầu khởi kiện; gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử; áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn hoặc các biện pháp khẩn cấp tạm thời; chuyển vụ án cho Tòa án khác giải quyết. Việc giải quyết đơn khiếu nại về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Chánh án, Phó Chánh án, thẩm phán thường được các Tòa án giải quyết cùng với quá trình giải quyết vụ án để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.
Ngoài ra, đối với từng loại án, có những quy định đặc thù riêng trong hoạt động xét xử bảo đảm quyền con ngưòi, quyền công dân; cụ thể:
+ Đối với vụ án hình sự: (a) Việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn của Tòa án; (b) Tòa án phải xem xét và quyết định đối với việc rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát; (c) Các trường hợp bị cáo được quyền trả tự do ngay tại phiên tòa (nếu bị cáo đang bị tạm giam và không bị tạm giam về một tội khác); (d) Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội (các quy định mang tính nhân đạo và trách nhiệm hình sự giảm nhẹ hơn so với người bị kết án là người đã thành niên). Chẳng hạn, việc quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì hình phạt áp dụng đối với họ là 1/2 mức hình phạt áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội, từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì hình phạt áp dụng đối với họ là 3/4 mức hình phạt áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội; trường hợp mức hình phạt tù thấp hơn mức tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn (03 tháng) thì cần áp dụng loại hình phạt khác nhẹ hơn đối với họ mà không được quyết định hình phạt tù dưới 03 tháng (5).
Đối với việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên phạm tội, nếu bị cáo, người nhà của bị cáo không mời người bào chữa cho bị cáo, thì Tòa án phải yêu cầu Đoàn Luật sư phân công luật sư bào chữa cho bị cáo; nhưng bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Đối với yêu cầu xin thay đổi người bào chữa, Tòa án phải xem xét để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của họ; trong trường hợp chấp nhận thì phải tiếp tục yêu cầu các tổ chức nêu trên phân công người bào chữa khác cho bị cáo (tại phiên tòa thì phải hoãn phiên tòa). Trong trường hợp họ có đơn yêu cầu từ chối người bào chữa thì Tòa án vẫn triệu tập người bào chữa tham gia phiên tòa; tại phiên tòa, nếu cả bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa, thì Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo thủ tục chung mà không có sự tham gia của người bào chữa; trường hợp chỉ có bị cáo hoặc người đại diện cho bị cáo yêu cầu từ chối người bào chữa, người còn lại không từ chối, thì Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục chung có sự tham gia người bào chữa đã được cử (6).
+ Đối với vụ án dân sự, hành chính: (a) Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (vụ án dân sự), của người khởi kiện (vụ án hành chính). Đây là quyền tự do ý chí của đương sự, trong đó đương sự hoàn toàn có quyền chủ động trong việc giải quyết mâu thuẫn, các tranh chấp và các việc khác liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ (không trái pháp luật và không trái với đạo đức xã hội) mà Tòa án phải tôn trọng; (b) Quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng; (c) Quyền được hòa giải, đối thoại; (d) Quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh…
Từ khi ra đời cho đến nay, hệ thống Tòa án của Nhà nước ta luôn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đặc biệt, từ khi thực hiện cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác trong thời gian tới của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó khẳng định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm, nhiều văn bản pháp luật về tố tụng và nội dung được xây dựng, hoặc sửa đổi, bổ sung tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án trong hoạt động xét xử, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Để việc bảo đảm quyền con ngưòi, quyền công dân trong hoạt động xét xử có hiệu lực, hiệu quả cao, Nhà nước cần thiết lập các cơ chế pháp lý chặt chẽ và khoa học để các nguyên tắc và các quy định trong hoạt động xét xử được tuân thủ, chấp hành và áp dụng một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và triệt để; cần phải xây dựng những thể chế, quy định chặt chẽ bảo đảm cho sự độc lập tư pháp, độc lập xét xử của Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án thực hiện đúng đắn, đầy đủ quyền tư pháp theo nội dung Hiến định, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân./.
Tài liệu tham khảo
- Điều 245 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 củaHội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Điều 199, Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP,Số 06/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm”, Phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày02/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Điều 253 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứtư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 247 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn Phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 178 Luật Tố tụng hành chính;
- Điều 11 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩmphán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự;
- Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 3 phần II Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tác giả: TS. Trần Nho Thìn – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội gửi đăng Bài Hội thảo “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng”. Địa điểm: Hội trường A, nhà A1 Trường Đại học Vinh, thứ 7, ngày 16/12/2017.
Để lại một phản hồi