Bài tập tình huống về nhãn hiệu – Luật Sở hữu trí tuệ

Chuyên mụcLuật sở hữu trí tuệ Nhãn hiệu là gì?

Tổng hợp các bài tập tình huống về nhãn hiệu (có đáp án) thường gặp trong các đề thi kết thúc học phần môn Luật Sở hữu trí tuệ. Xin chia sẻ để bạn tham khảo, ôn tập.

Những nội dung liên quan:

Bài tập tình huống về nhãn hiệu – Luật Sở hữu trí tuệ

Download tài liệu về máy

[PDF] Bài tập tình huống về nhãn hiệu

Nếu quá trình download tài liệu bị gián đoạn do đường truyền không ổn định, vui lòng để lại Email nhận tài liệu Bài tập tình huống về nhãn hiệu PDF ở phần bình luận dưới bài. Chúng tôi vô cùng xin lỗi vì sự bất tiện này!

Bài tập 1:

Tháng 10 năm 2014, Công ty A muốn nộp đơn đăng ký nhãn hiệu SANAN cho sản phẩm thức ăn cho động vật. Qua tra cứu, công ty này được biết Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu SANAN dùng cho các sản phẩm hạt giống, phân bón cho cây, thức ăn động vật cho Công ty B tại tỉnh Phú Thọ ngày 15/04/2006. Công ty B đã tuyên bố phá sản và chấm dứt hoạt động từ tháng 11/2008.

– Công ty A có khả năng đăng ký nhãn hiệu SANAN không?

– Các phương án mà Công ty A có thể vận dụng để có thể đăng ký nhãn hiệu SANAN ở tình huống trên?

Bài làm

1. Phân tích tình huống

– Về chủ thể:

+ Công ty A có nhu cầu nộp đơn đăng ký nhãn hiệu SANAN cho sản phẩm thức ăn cho động vật.

+ Công ty B là chủ sở hữu nhãn hiệu SANAN dùng cho các sản phẩm hạt giống, phân bón cho cây, thức ăn động vật được Cục sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ vào ngày 15/4/2006.

– Về đối tượng: nhãn hiệu SANAN cho sản phẩm thức ăn động vật.

– Sự kiện pháp lý:

+ Tháng 10 năm 2014, Công ty A muốn nộp đơn đăng ký nhãn hiệu SANAN cho sản phẩm thức ăn cho động vật.

+ Ngày 15/04/2006, Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu SANAN dùng cho các sản phẩm hạt giống, phân bón cho cây, thức ăn động vật cho Công ty B.

+ Công ty B đã tuyên bố phá sản và chấm dứt hoạt động từ tháng 11/2008.

– Các vấn đề cần giải quyết:

+ Công ty A có khả năng đăng ký nhãn hiệu SANAN không?

+ Phương án mà Công ty A có thể vận dụng để có thể đăng ký nhãn hiệu SANAN.

2. Giải quyết tình huống:

2.1. Công ty A có khả năng đăng ký nhãn hiệu SANAN không?

Trên cơ sở những dữ kiện đề bài đưa ra, công ty A hoàn toàn có khả năng được đăng ký nhãn hiệu SANAN cho sản phẩm thức ăn cho động vật dựa trên  những căn cứ pháp lý sau:

Thứ nhất, căn cứ vào khoản 1 Điều 87 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 về Quyền đăng ký nhãn hiệu : “Tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hóa do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp”.  Theo tinh thần của điều luật thì đăng ký nhãn hiệu là quyền của cá nhân, tổ chức. Như vậy, theo tình huống mà đề bài đưa ra, công ty A là pháp nhân tiến hành hoạt động sản xuất, dịch vụ hợp pháp có quyền nộp đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu  SANAN cho sản phẩm thức ăn cho động vật do công ty A sản xuất.

Thứ hai, để nhãn hiệu SANAN của công ty A được bảo hộ thì cần phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện bảo hộ quy định tại Điều 72 LSHTT, theo đó:

+ Nhãn hiệu SANAN là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc.

+ Nhãn hiệu SANAN phải có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 LSHTT thì: “Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng liên tục nhãn hiệu đó. Trong trường hợp nhãn hiệu không được sử dụng liên tục từ năm năm trở lên thì quyền sở hữu nhãn hiệu đó bị chấm dứt hiệu lực theo quy định tại Điều 95 của Luật này. Dẫn chiếu tới điểm c khoản 1 Điều 95 về chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ khi: “Chủ văn bằng bảo hộ không còn tồn tại hoặc chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu không còn hoạt động kinh doanh mà không có người thừa kế hợp pháp”. Trong trường hợp này, nhãn hiệu SANAN của công ty A không bị coi là nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã được sử dụng.

Như vậy, theo dữ kiện đề bài thì Cục sở hữu trí tuệ đã cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu SANAN dùng cho các sản phẩm hạt giống, phân bón cho cây, thức ăn động vật cho công ty B tại tỉnh Phú Thọ ngày 15/4/2006. Công ty B đã tuyên bố phá sản và chấm dứt hoạt động từ tháng 11/2008. Điều này có nghĩa là từ tháng 11/2008, chủ văn bằng bảo hộ cho các sản phẩm hạt giống, phân bón, thức ăn động vật (công ty B) không còn tồn tại và tính từ đó đến thời điểm tháng 10/2014 thì công ty B đã không sử dụng nhãn hiệu SANAN 5 năm 11 tháng nên văn bằng bảo hộ cho các sản phẩm hạt giống, phân bón cho cây, thức ăn động vật của công ty B chấm dứt hiệu lực. Do vậy, công ty A hoàn toàn khả năng đăng ký nhãn hiệu SANAN cho sản phẩm thức ăn cho động vật do mình sản xuất.

2.2 Các phương án mà Công ty A có thể vận dụng để có thể đăng  ký nhãn hiệu SANAN ở tình huống trên?

+ Phương án thứ nhất: Công ty A  phải nộp đơn yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu SANAN của công ty B.

Để đăng ký được nhãn hiệu SANAN cho sản phẩm thức ăn cho động vật do mình sản xuất ra thì trước tiên, Công ty A  phải nộp đơn yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu SANAN của công ty B với lý do công ty B không còn sử dụng nhãn hiệu này nữa và đã chấm dứt hoạt động từ tháng 11/2008. Căn cứ khoản 4 điều 95 LSHTT 2005 (sửa đổi bố sung 2009) thì : ‘‘Tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ đối với các trường hợp quy định tại các điểm c, d, đ, e và g khoản 1 Điều này với điều kiện phải nộp phí và lệ phí’’. Do đó công ty A(là tổ chức) để chứng minh công ty B chủ giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu SANAN không còn hoạt động nữa thì công ty A phải đưa ra những tài liệu, dẫn chứng cho Cục Sở hữu trí tuệ về việc công ty B đã tuyên bố phá sản,chấm dứt hoạt động từ 11/2008 và yêu cầu cục sở hữu trí tuệ chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ nhãn hiệu SANAN của công ty B. Theo đó, công ty A phải nộp phí và lệ phí đầy đủ theo quy định của pháp luật cho yêu cầu trên.

+ Phương án thứ 2 : công ty A chứng minh rằng công ty B không có quyền đăng ký nhãn hiệu và yêu cầu Cục sở hữu trí tuệ hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ của công ty B.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 87 LSHTT thì : ‘Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó’. Như vậy, trong trường hợp này công ty A phải đưa ra những tài liệu, giấy tờ chứng minh rằng công ty B chỉ là Đại lý hoặc nhà phân phối sản phẩm cho công ty A (Hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa hoặc hợp đồng phân phối). Khi đó, nếu công ty B chỉ đưa sản phẩm của công ty B ra thị trường thì không có quyền đăng ký nhãn hiệu SANAN nếu như công ty A đã sử dụng nhãn hiệu cho sản phẩm đó và phải đối việc đăn ký của công ty B.

Theo đó, công ty A yêu cầu Cục sở hữu trí tuệ hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ của công ty B căn cứ vào khoản 3 và điểm a khoản 1 Điều 96 LSHTT : Tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ trong trường hợp người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu không có quyền đăng ký với điều kiện công ty A phải nộp phí và lệ phí.

+ Phương án thứ 3 : Công ty A chứng minh rằng nhãn hiệu của mình đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho sản phẩm thức ăn cho động vật trước ngày công ty B nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ.

Công ty A phải chứng minh nhãn hiệu của công ty B không đáp ứng được điều kiện bảo hộ (không có khả năng phân biệt) theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 74 LSHTT : «Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên ». Như vậy, công ty A phải đưa ra những tài liệu, chứng cứ như : thời gian sử dụng, doanh số bán hàng, thị hiếu của người tiêu dùng và uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu đối với hàng hóa của mình trước ngày công ty B nộp đơn để chứng minh nhãn hiệu của mình đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi.

Tiếp theo, công ty A phải yêu cầu Cục sở hữu trí tuệ hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ của công ty B do nhãn hiệu của công ty B không đáp ứng các điều kiện bảo hộ tại thời điểm cấp văn bằng bảo hộ (căn cứ vào điểm b, khoản 1 và khoản 3 Điều 96 LSHTT) và công ty A phải nộp phí và lệ phí.

+ Phương án thứ 4 : công ty A đưa ra căn cứ rằng nhãn hiệu của mình không trùng với nhãn hiệu của công ty B do văn bằng bảo hộ nhãn hiệu của công ty B đã chấm dứt hiệu lực hơn 5 năm kể từ khi công ty A nộp đơn yêu cầu bảo hộ.

Căn cứ vào điểm h khoản 2 Điều 74 LSHTT thì : ‘Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự mà đăng ký nhãn hiệu đó đã chấm dứt hiệu lực chưa quá năm năm… ». Như vậy, Công ty B đã phá sản và chấm dứt hoạt động từ tháng 11/2008, kéo theo đó, văn bằng bảo hộ củ công ty B cũng sẽ bị chấm dứt hiệu lực theo căn cứ tại điểm c, khoản 1 Điều 95 LSHTT. Mà từ tháng 11/2008 đến tháng 10/2014 là 5 năm 11 tháng, do vậy nhãn hiệu của công ty A không bị coi là không có khả năng phân biệt.

Như vậy, Công ty A có thể lựa chọn một trong các phương án trên và nộp hồ sơ đăng ký nhãn hiệu tới Cục sở hữu trí tuệ (địa chỉ 386, Đường Nguyễn Trãi – Quận Thanh Xuân – Hà Nội) hoặc Văn phòng đại diện của Cục SHTT tại Đà Nẵng và Tp. Hồ Chí Minh. Hồ sơ đăng ký nhãn hiệu gồm các giấy tờ quy định tại Thông tư 01/2007/TT- BKHCN Hướng dẫn thi hành Nghị định 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp.

Bài tập 2:

Đài truyền hình Việt Nam (VTV) là chủ sở hữu tại Việt Nam của những nhãn hiệu dịch vụ “ Đường lên đỉnh Olympia” ( nhóm 41- dịch vụ giải trí). Bộ giáo dục và Đào tạo tổ chức cuộc thi Olympic Mac-LeNin. VTV yêu cầu Bộ giáo dục và Đào tạo phải đổi tên cuộc thi để tránh nhầm lẫn với nhãn hiệu “Olympia” của mình. Bộ GD&ĐT cho rằng tên gọi hai cuộc thi là khác nhau, vả lại Olympic là tên gọi phổ biến nên không thể được bảo hộ dưới dạng NHHH. Anh ( chị) đồng ý với ý kiến của ai?

Bài làm

Trong tình huống trên tác giả đồng ý với ý kiến của Bộ GD- ĐT

1. Hai tên gọi hai cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia” và “ Olympic Mac- Lenin” là khác nhau và không dễ gây nhầm lẫn.

Olympia là tên một thành phố của Hi Lạp ngày nay, Olympia trước đây là nơi diễn ra thế vận hội Olympic cổ đại. Tên gọi Olympic là tên phiên âm tiếng việt của Olympiad (có từ cách đây gần 3000 năm) bắt nguồn từ cuộc tranh tài thể thao giữa các quốc gia toàn thế giới và dần dần phổ biến và mở rộng sang các cuộc thi về các môn khoa học ngoài thể thao mang tầm quốc tế (có sự tham gia của rất nhiều quốc gia trên thế giới) như: IMO (Olympic toán học quốc tế), IPhO (Olympic vật lý quốc tế), IChO (Olympic hóa học quốc tế),…. Việc sử dụng từ Olympic trong tên cuộc thi của Bộ GD& ĐT nhằm thể hiện tinh thần của thi đấu và cũng nhằm để công bố là đây là 1 cuộc thi về kiến thức  triết họcMac- Lenin. Còn chương trình truyền hình “ Đường lên đỉnh Olympia” thể hiện sự vinh quang khi vượt qua bao khó khăn để chiến thắng của người chơi, mượn ý nghĩa của đỉnh Olympia trong thần thoai Hy lạp trước để chỉ nơi đạt đến vinh quang. => tính chất hai cuộc thi là khác nhau và tên gọi cũng khác biệt.

2. Olympic là tên gọi phổ biến

Tên gọi Olympic đã có từ cách đây rất lâu (gần 3000 năm), được biết đến rộng rãi nên biểu tượng cũng như tên gọi Olympic thuộc về tất cả mọi người và được sử dụng rộng rãi, thường xuyên. Hiện nay, mọi cuộc thi có tính mở rộng, người ta có thể sử dụng từ Olympic  kèm tên lĩnh vực thi làm tên gọi cuộc thi.

2.1  Theo tiết b khoản 2 Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ, tên Olympic do quá thông dụng nên được coi là nhãn hiệu không có khả năng phân biệt.

Điều 74. Khả năng phân biệt của nhãn hiệu
2. Nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
b) Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hóa, dịch vụ bằng bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người biết đến;”

2.2  Theo khoản 2 điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ, tên Olympic không được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu hàng hóa bởi không có khả năng phân biệt.

Điều 72. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ
Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1 – Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.2 – Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.

2.3  Mặt khác, theo khoản 2 điều 73 Luật Sở hữu trí tuệ, những dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu là “dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên viết tắt, tên đầy đủ của tổ chức quốc tế nếu không được tổ chức đó cho phép. Từ Olympic trùng với tên Ủy ban quốc tế về thể thao nên sẽ không được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu.

Điều 73. Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu
Các dấu hiệu sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu:
2. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép.

=> Tên gọi cuộc thi “Olympic Mac- Lê nin” sẽ không được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu hàng hóa mà bất kỳ cá nhân tổ chức nào cũng có thể sử dụng từ Olympic, hơn nữa tên gọi hai cuộc thi là khác nhau như trên đã giải thích nên việc VTV yêu cầu bộ GD&ĐT đổi tên cuộc thi để tránh nhầm lẫn với nhãn hiệu Olympia của mình là không hợp lý và không được pháp luật chấp nhận.

Bài tập 3:

Anh A nhận hợp đồng may gia công 3000 chiếc áo thun lưới gắn nhãn hiệu Adidas và Nike cho một người buôn bán quần áo tại thành phố Hồ Chí Minh. A đặt hàng cho B sản xuất cho mình tem, nhãn mang nhãn hiệu Adidas và Nike, còn doanh nghiệp của A tự mua vải về cắt may. Hỏi hành vi của A, và B có phải hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ không?

Bài làm

1. Phân tích tình huống

– Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp: Nhãn hiệu nổi tiếng Adidas và nhãn hiệu nổi tiếng Nike, đã được đăng kí bảo hộ tại Việt Nam.

– Chủ thể quyền sở hữu công nghiệp: hai chủ thể sở hữu hai nhãn hiệu nổi tiếng Adidas và Nike.

+ Có các quyền chung của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp quy định ở khoản 1 điều 23 Luật SHTT như: Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp có các quyền tài sản sau đây: Sử dụng, cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại Điều 124 và Chương X của Luật này;Ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại Điều 125 của Luật này;Định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại Chương X của Luật này.Khoản 5 điều 124 quy định: Sử dụng nhãn hiệu là việc thực hiện các hành vi sau đây:Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;Lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo hộ;Nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.Khoản 1 điều 125 quy định: Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp và tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng hoặc quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp nếu việc sử dụng đó không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.

Như đã phân tích ở phần trên, NHNT còn được bảo hộ theo cơ chế riêng, khác với bảo hộ nhãn hiệu thường nên ngoài những quyền chung được nêu ở phần này thì còn các quyền về chống lại việc đăng kí và sử dụng bất hợp pháp bởi các chủ thể khác đã nêu ở phần I.

+ Có nghĩa vụ quy định tại khoản 2 điều 136: Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng liên tục nhãn hiệu đó. Trong trường hợp nhãn hiệu không được sử dụng liên tục từ năm năm trở lên thì quyền sở hữu nhãn hiệu đó bị chấm dứt hiệu lực theo quy định tại Điều 95 của Luật này.

– Chủ thể có hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp: Anh A là Giám đốc Công ty May và xuất nhập khẩu Hoàng Huỳnh tại quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh và B – người được A đặt hàng sản xuất tem, nhãn mang nhãn hiệu Adidas và Nike. Hành vi vi phạm cụ thể của A và B sẽ được phân tích ở phần sau.

2. Giải quyết tình huống:

Hành vi của A và B đã xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.

Anh A nhận hợp đồng may gia công 3000 chiếc áo thun lưới gắn nhãn hiệu Adidas và Nike cho một người buôn bán quần áo tại Nga. A đặt hàng cho B sản xuất cho mình tem, nhãn mang nhãn hiệu Adidas và Nike, còn doanh nghiệp của A tự mua vải về cắt may. Như vậy, hành vi của A và B đã xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cụ thể như sau:

Căn cứ khoản 4 điều 11 nghị định 105/2006/NĐ – CP như đã phân tích ở phần I.2 thì hành vi của A và B là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp về nhãn hiệu bởi đã có đầy đủ 4 căn cứ:

Thứ nhất: Nhãn hiệu Adidas và Nike thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ. Hai nhãn hiệu là là nhãn hiệu nổi tiếng và được đăng kí bảo hộ tại Việt Nam

Nhãn hiệu Adidas và Nike đã được công nhận là nhữngNHNT không chỉ ở Việt Nam và trên cả thế giới.Công ty Interbrand và Tạp chí BusinessWeek hằng năm đưa ra danh sách các nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Các điều kiện để xếp hạng 100 NH nổi tiếng của Interbrand và BusinessWeek cũng tương tự như quy định tại Điều 75 Luật SHTT. Trong danh sách 100 NH nỗi tiếng do Interbrand và BusinessWeek đưa ra hàng năm có NH Adidas, Nike.

NH Adidas (Đức) nhóm HH thể thao, năm 2006 xếp thứ 64, năm 2007 xếp  thứ 70 (trị giá chuyển nhượng 4,6 tỷ USD), năm 2008 xếp thứ 70 và năm 2009 xếp thứ 62 (trị giá 5, 4 tỷ USD).NH Nike (Mỹ) nhóm HH thể thao, năm 2006 xếp thứ 31, năm 2007 xếp thứ 29 (trị giá chuyển nhượng 12 tỷ USD), năm 2008 xếp thứ 29, năm 2009 xếp thứ 26 (trị giá 13,179 tỷ USD). Như vậy, Adidas và Nike liên tục trong nhiều năm được xếp loại thuộc 100 NHNT trên thế giới.

Thứ hai: Có yếu tố xâm phạm NHNT Adidas và Nike trong hành vi của A và B

Khi được thừa nhận, được coi là nổi tiếng, NH đó có sức mạnh riêng. Điều 6BIS của Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (SHCN) có quy định: “… các nước thành viên Công ước có trách nhiệm, theo chức năng quản lý nếu luật quốc gia cho phép điều đó, hoặc theo đề nghị của bên có liên quan, từ chối hoặc hủy bỏ đăng ký, ngăn cấm việc sử dụng NH mà NH đó là sự sao chép, bắt chước, chuyển đổi và có khả năng gây nhầm lẫn với các NH đã được cơ quan có thẩm quyền của nước đăng ký hoặc nước sử dụng coi là NH nổi tiếng tại nước đó như là NH thuộc về người được hưởng lợi thế của Công ước và sử dụng trên các loại HH giống hoặc tương tự. Những quy định này cũng được áp dụng trong trường hợp thành phần chủ yếu của NH là sự sao chép của bất kỳ NH nổi tiếng nào hoặc sự bắt chước có khả năng gây nhầm lẫn với NH trước đó…”. Việt Nam là thành viên của  Công ước Pari năm 1883.

Điểm d Khoản 1 Điều 129 Luật SHTT xác định hành vi xâm phạm quyền NHNT là khi “Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với NHNT hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hóa, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ mang NHNT, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu NHNT”.

Điểm b khoản 4 điều 11 Nghị định 105/2006/NĐ – CP cũng quy định yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng: “…hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự, không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng nhưng có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.”

Tóm lại, giám đốc A sản xuất các hàng hóa thuộchay không thuộc nhóm hàng hóa của Adidas và Nike cũng đều xâm phạm đến hai NHNT này theo những căn cứ pháp lý đã nêu và đều bị xử lý. Là một trong những hành vi bị xử phạt về hàng hóa giả mạo nhãn hiệu theo khoản 2 điều 213: “Hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý.”

Đối với hành vi của B cũng là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn được quy định tại điểm c khoản 1 điều 211 : “Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ tem, nhãn hoặc vật phẩm khác mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý giả mạo hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này” và được quy định tại điều 13:Sản xuất, nhập khẩu, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ để bán tem, nhãn, vật phẩm mang nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý giả mạo – Nghị định 99/2013/NĐ – CP ngày 29 tháng 8 năm 2013 về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.

Thứ ba, A và B thực hiện hành vi không phải là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và không phải người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép.

Thứ tư, hành vi của A và B xảy ra tại Việt Nam, cụ thể là quận Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh.

=> Như vậy, đã có đủ 4 căn cứ để kết luận hành vi của A và B là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cụ thể đối với hai NHNT Adidas và Nike.Chế tài để xử lý những hành vi này cũng đã được quy định cụ thể và sẽ được làm rõ ở phần sau.

[Download] Đáp án bài tập tình huống về nhãn hiệu

Download tài liệu về máy

[PDF] Đáp án bài tập tình huống về nhãn hiệu

Nếu quá trình download tài liệu bị gián đoạn do đường truyền không ổn định, vui lòng để lại Email nhận tài liệu Bài tập tình huống về nhãn hiệu PDF ở phần bình luận dưới bài. Chúng tôi vô cùng xin lỗi vì sự bất tiện này!

Các tìm kiếm liên quan đến bài tập tình huống về nhãn hiệu, Tình huống xâm phạm nhãn hiệu, bài tập về nhãn hiệu, tình huống về tranh chấp nhãn hiệu, bài tập tình huống về kiểu dáng công nghiệp, các tình huống xâm phạm thương hiệu, bài tập tình huống về quyền tác giả, bài tập sở hữu trí tuệ có đáp án, bài tập lớn sở hữu trí tuệ, đề thi luật sở hữu trí tuệ, đề thi luật sở hữu trí tuệ thầy châu quốc an, tài liệu ôn thi môn luật sở hữu trí tuệ

5/5 - (8277 bình chọn)

Phản hồi

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền