Bài tập định tội danh và quyết định hình phạt mẫu

Tội danh

[Hocluat.vn] Xin chia sẻ bộ tài liệu: Bài tập định tội danh và quyết định hình phạt mẫu để bạn tham khảo, ôn tập chuẩn bị cho kỳ thi tới đạt kết quả như mong muốn.

 

>>> Xem thêm: Tuyển tập 350 bài tập định tội danh thông dụng

 

Bài tập định tội danh và quyết định hình phạt mẫu

Quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự bao gồm các giai đoạn khác nhau và diễn ra rất phức tạp, trong đó định tội danh là một giai đoạn cơ bản của quá trình này.

 

Những nội dung liên quan:

 

Bài tập số 1:

(Sử dụng Bộ luật Hình sự 1999)

Tối 20/5/2001 Nguyễn Công A (20 tuổi) cùng với Lê Thị Hoài V (18 tuổi) đến vũ trường Rex để giải trí. Trong lúc A ra ngoài gọi điện thoại thì Đoàn Văn K đến mời V nhảy nhưng bị từ chối. K đã có lời nói miệt thị và đe dọa V. Khi A vào, V đã kể lại sự việc và nói: “Anh phải cho nó một bài học nhớ đời”. A không nói gì, vì sợ lại phải sa vào con đường tù tội, bởi vì ngày 4/2/1997 A đã bị Tòa án nhân dân phạt 2 năm tù về tội cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 109 Bộ luật hình sự 1985.

Khoảng 21 giờ đêm, A và V ra về thì gặp K trước cửa vũ trường, V nói: “Thằng lúc nãy đó, anh cho nó một trận đi…”. Thấy A không có phản ứng gì, V giận rỗi nói tiếp: “Sao anh hèn nhát vậy, nếu anh không ra tay để bảo vệ danh dự cho em, thì từ nay chúng ta vĩnh viễn chia tay nhau”.

Thấy V nói vậy, A chỉ tay vào mặt K và nói: “Tại sao lúc nãy mày chửi người yêu tao”. Sau đó A đấm liên tiếp vào mặt, vào người K. Bị đánh bất ngờ K không kịp phản ứng, ngã xuống đất. A tiếp tục dùng chân đá, đạp vào người đến khi K ngất xỉu. Sau đó A và V gọi taxi về nhà.

K được mọi người đưa vào bệnh viện cứu chữa, một tháng sau mới xuất viện.

Kết luận giám định pháp y ghi rõ: “Trên người bệnh nhân có nhiều vết thương trượt da, ở vùng trán có vết thương sâu dài 6 cm để lại sẹo to. Thương tích ở mắt phải làm giảm thị lực xuống còn 4%. Tỷ lệ thương tật bệnh nhân phải gánh chịu là 25%”.

Hỏi: Anh (chị) hãy giải quyết vụ án về phương diện định tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với A và V?

Lời giải

Bước 1: Tóm tắt hành vi của từng người trong vụ án

* Đối với A:

– 20 tuổi, 4/2/1997 đã bị Tòa án nhân dân phạt 2 năm tù giam về tội cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985.

– 21 giờ ngày 20/5/2001 đã liên tiếp đấm vào mặt, vào người K. Mặc dù K ngã xuống đất nhưng vẫn đá liên tiếp làm K ngất xỉu. K phải điều trị tại bệnh viện 1 tháng. Trên người K có nhiều vết thương trượt da, ở vùng trán có vết thương sâu dài 6 cm để lại sẹo to, xấu. Thương tích ở mắt phải làm giảm thị lực xuống còn 4%. Tỷ lệ thương tật bệnh nhân phải gánh chịu là 25%”.

* Đối với V

18 tuổi, trước khi xảy ra vụ án V đã có những lời nói đối với A: “Anh phải cho nó một bài học nhớ đời”; “Thằng lúc nãy đó, anh đánh cho nó một trận”; “sao anh hèn nhát vậy, nếu anh không ra tay để bảo vệ danh dự của em, thì từ nay chúng ta chia tay nhau”.

Bước 2: Xác định hướng xâm hại (khách thể bị xâm hại) và các qui phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra

* Đối với A:

Hành vi của A đã xâm hại tới sự tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác. Các qui phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra: Khoản 1 và 2, Điều 104, khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự.

* Đối với V:

Hành vi của V xâm hại tới sự tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác. Các qui phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra: Khoản 1, 2 Điều 104, khoản 1 và đoạn 3 khoản 2 Điều 20 Bộ luật hình sự.

Bước 3: Kiểm tra các qui phạm pháp luật hình sự đã lựa chọn

1) Đối với hành vi của A

* Khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.

Điều luật qui định 2 tội: tội cố ý gây thương tích cho người khác và tội cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

– Khách thể của tội phạm.

Khách thể trực tiếp của hai tội phạm này là quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác.

Hành vi  của A đấm, đá, đạp vào người K đã trực tiếp xâm hại tới quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của K được Điều 104 Bộ luật hình sự bảo vệ.

– Mặt khách quan của tội phạm.

Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Người phạm tội đã dùng bạo lực về thể chất tác động vào cơ thể người khác gây tổn thương một bộ phận hay toàn bộ cơ thể hoặc gây tổn hại hay làm mất chức năng của một cơ quan nào đó trong cơ thể con người. Thương tích hoặc tổn hại sức khỏe có thể do chính người phạm tội trực tiếp gây ra hoặc do người phạm tội bắt người bị hai gây ra.

Mức độ thương tích hoặc mức độ tổn hại sức khỏe cho người khác là từ 11% trở lên là tỉ lệ thương tích có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu mức độ đó là từ dưới 11% thì phải có một trong những tình tiết sau mới cấu thành tội phạm này, đó là tình tiết: Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người; đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; có tổ chức; trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê; có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

Giữa hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội nói trên với hậu quả thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác phải có mối quan hệ nhân quả. Tội phạm hoàn thành từ khi gây ra vết thương hoặc làm tổn hại sức khỏe của người khác.

Còn các dấu hiệu khác như: công cụ, phương tiện phạm tội, phương pháp, thủ đoạn thực hiện tội phạm, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm được qui định tại Điều 104 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở phân tích các dấu hiệu pháp lý đặc trưng thuộc mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nêu trên và so sánh, đối chiếu với các tình tiết khách quan trong vụ án cho thấy A đã thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho sức khoẻ của K. A đã liên tiếp đấm vào người, vào mặt K và đến khi K đã ngã xuống đất hắn vẫn tiếp tục dùng chân đá vào người cho đến khi bất tỉnh. Hành vi trên của A rất nguy hiểm, trực tiếp xâm hại tới sức khỏe của K và chính hành vi đó đã làm cho K gánh chịu nhiều vết thương trượt da, ở vùng trán có vết thương sâu dài 6 cm để lại sẹo to. Thương tích ở mắt phải làm giảm thị lực xuống còn 4%. Tỷ lệ thương tật K phải gánh chịu là 25%. Giữa thương tích mà K phải gánh chịu với hành vi của A có mối quan hệ nhân quả. Hành vi của A đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu khách quan của tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.

– Chủ thể của tội phạm.

Chủ thể của tội phạm qui định tại Điều 104 là chủ thể thường, tức là bất cứ ai đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể thực hiện tội phạm này.

A khi thực hiện hành vi gây thương tích cho K đã 20 tuổi, có đủ năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của mình. Như vậy A đã thỏa mãn các điều kiện của chủ thể của tội cố ý gây thương tích… theo Điều 104 Bộ luật hình sự.

 – Mặt chủ quan của tội phạm.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Động cơ và mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc.

A có đủ điều kiện chủ quan về tuổi, về năng lực trách nhiệm hình sự. Khi thực hiện hành vi gây thương tích cho K, A đã nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm. A cũng nhận thấy được hậu quả của hành vi đó là sẽ gây thương tích và gây tổn hại cho sức khoẻ cho K. Mặc dù nhận thức được như vậy nhưng A vẫn đánh K và mong muốn cho K bị thương nhằm thỏa mãn yêu cầu của người yêu. A thực hiện tội phạm bằng lỗi cố ý trực tiếp.

Từ những phân tích trên, so sánh với các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cố ý gây thương tích được qui định trong Bộ luật hình sự có đủ cơ sở kết luận A đã phạm tội cố ý gây thương tích cho người khác theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.

* Khoản 2 Điều 104, khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự.

Để xác định khung hình phạt áp dụng đối với A, cần kiểm tra khoản 2 Điều 104 và khoản 2 Điều 49.

– Kết luận giám định pháp y cho biết A đã gây cho K tỷ lệ thương tích là 25%. Với tỷ lệ thương tích này, về nguyên tắc A chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104. Tuy nhiên, theo kết luận của Hội đồng giám định pháp y thì K phải chịu một vết thương tích ở trán dài 6 cm, sau khi chữa khỏi để lại vết sẹo to và xấu, đồng thời mắt phải của K cũng bị tổn thương thị lực giảm xuống chỉ còn 4 %. Theo Mục I.1 Nghị quyết 02 ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, thương tích trên được coi là gây cố tật nhẹ cho nạn nhân. Khoản 2 Điều 104 quy định nếu phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ nạn nhân từ 31 % đến 60 % thì sẽ áp dụng khung hình phạt tăng nặng này. Thế nhưng cũng theo quy định tại Khoản 2 Điều 104, trong trường hợp phạm tội gây thương tích cho nạn nhân từ 11% đến 30 % mà có tình tiết gây cố tật nhẹ cho nạn nhân thì khung hình phạt tăng nặng này cũng được áp dụng với người phạm tội. Vì thế, A phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.

Về khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự.

Ngày 4/2/1997 A bị phạt 2 năm tù về tội cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 109. Căn cứ khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tội phạm ở khoản 2 Điều 109 là tội nghiêm trọng và theo khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 thì đây cũng là tội phạm nghiêm trọng. Theo điểm b khoản 2 Điều 64 Bộ luật hình sự năm 1999 thì bản án cũ này chưa được xóa.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 49 Bộ luật hình sự năm 1999 thì trường hợp A đã bị kết án về một tội nghiêm trọng do cố ý chưa được xoá án tích mà lại phạm tội nghiêm trọng do cố ý là trường hợp tái phạm chứ không phải là tái phạm nguy hiểm, cho nên nó không phải là tình tiết định khung tăng nặng.

Tóm lại: Căn cứ vào các tình tiết của vụ án và đối chiếu, so sánh với Điều 104 Bộ luật hình sự có đủ cơ sở kết luận A phạm tội cố ý gây thương tích cho người khác. Tội danh và hình phạt được qui định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.

2) Đối với hành vi của V

V đã 18 tuổi, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Mặc dù V không trực tiếp thực hiện hành vi gây thương tích cho K nhưng đã có hành vi kích động, thúc đẩy A thực hiện tội phạm. V chính là người chủ động về tinh thần gây ra tội phạm. A ngay từ đầu đã không có ý định phạm tội. Nhưng V bằng lời nói nhiều lần thúc đẩy, yêu cầu A đánh K để cho K một bài học. V nói: “Anh phải cho nó một bài học nhớ đời”. “Thằng lúc nãy chửi em đó, anh đến đánh cho nó một trận”. Thấy A chưa hành động thì V lại kích động, thúc đẩy A phạm tội: “Anh hèn vậy, nếu anh không ra tay bảo vệ danh dự cho em thì từ nay chúng ta chia tay nhau”.

Chính những lời nói đó của V đã tác động mạnh vào tinh thần, tâm lý của A làm cho A từ chỗ không có ý định phạm tội, dẫn tới có ý định và thực hiện tội phạm, gây thương tích nặng cho K. Rõ ràng các tình tiết vụ án cho thấy ở đây có sự liên hiệp hành động giữa A và V. Hành vi của chúng có mối quan hệ qua lại, hỗ trợ nhau, qui định lẫn nhau. Trong đó hành vi của A là hành vi trực tiếp thực hiện tội phạm, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả phạm tội chung, đó là K bị nhiều vết thương trượt da, ở vùng trán có vết thương sâu dài 6 cm để lại sẹo to. Thương tích ở mắt phải làm giảm thị lực xuống còn 4%.  Tỷ lệ thương tật K phải gánh chịu là 25%. Hành vi của V thông qua hành vi của A dẫn đến hậu quả trên cho K.

V và A cùng cố ý thực hiện tội cố ý gây thương cho K theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự. V nhận thức được hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình, đồng thời cũng nhận thức được hành vi của A gây thương tích cho K là hành vi bị pháp luật hình sự cấm, nhận thức được hậu quả phạm tội chung. Tuy biết như thế nhưng V vẫn kích động, thúc đẩy và mong muốn A thực hiện tội phạm, gây thương tích cho K để cho K một bài học cảnh cáo.

Tóm lại: Từ những sự phân tích trên có đủ cơ sở kết luận V đồng phạm với A với vai trò xúi giục về tội cố ý gây thương tích cho người khác. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 104 và khoản 2 Điều 19 Bộ luật hình sự.

Bước 4: Kết luận:

1) A phạm tội gây thương tích cho người khác. Tội danh và hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự;

2) V đồng phạm với A với vai trò xúi giục về tội cố ý gây thương tích cho người khác. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 104 và khoản 2 Điều 19 Bộ luật hình sự.

Bài tập số 2:

Lê Thị L, 28 tuổi, lấy chồng là Phạm Văn K (sĩ quan quân đội). Trong những năm đầu họ chung sống với nhau rất hạnh phúc và đã có 2 con. Thế nhưng, kể từ đầu năm 2003 K bị đám bạn xấu lôi kéo vào cuộc sống xa đọa. Lương và tiền làm thêm K không đưa về nuôi gia đình mà mang đi bao một cô tiếp viên nhà hàng tên là Q. Mỗi khi về nhà K còn thường xuyên nhiếc mắng, đánh đập, hắt hủi L. L nhiều lần khuyên nhủ nhưng K vẫn không nghe. L rất ghen tức nên có ý định giết K và Q.

Ngày 24/4/2003, biết đôi tình nhân hẹn gặp nhau ở nhà trọ của Q, L lấy khẩu súng K54 K để ở nhà (khẩu súng này K được giao khi làm nhiệm vụ) đến đó phục. 23 giờ cùng ngày, thấy K đi cùng với Q  và một tiếp viên khác về nhà trọ, L dùng súng bắn K nhưng K chỉ bị thương, L lại dùng súng bắn Q, không ngờ Q lại không việc gì, mà cô tiếp viên đi bên cạnh là H bị trúng đạn chết.

Hỏi: Anh (Chị) hãy xác định tội danh do L thực hiện ?

Lời giải

1. Tóm tắt và phân tích hành vi của  Lê Thị L

Với ý định giết K và Q, 23 giờ ngày 24/4/2003, L lấy khẩu súng K54 của K đến phục trước nhà trọ của Q (nơi K và Q hẹn nhau). Khi thấy K đi cùng với Q và một tiếp viên khác về, L dùng súng bắn K nhưng K chỉ bị thương, L lại dùng súng bắn Q, nhưng Q không việc gì, mà H đi bên cạnh bị trúng đạn chết.

2. Xác định hướng xâm hại và quy phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra.

Hành vi bắn K, Q, H xâm phạm vào quyền nhân thân của con người. Quy phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra là khoản 1, 2 Điều 93 và Điều 18 Bộ luật hình sự.

3. Kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự đã lựa chọn

* Khoản 1 và 2 Điều 93 Bộ luật hình sự

Khoản 2 Điều 93 BLHS quy dịnh cấu thành cơ bản của tội giết người.

Mặc dù điều luật này không có mô tả các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội giết người, nhưng từ thực tiễn xét xử đã được thừa nhận có thể đưa ra định nghĩa: giết người là hành vi cố ý tước đoạt sự sống của người khác một cách trái pháp luật.

– Khách thể của tội giết người là quyền sống của con người. Đối tượng tác động của nó là con người đang sống đang tồn tại.

Hành vi của L đã xâm hại tới quyền sống của K, Q, H. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của L chính là K, Q, H.

– Mặt khách quan của tội phạm này thể hiện ở hành vi khách quan tước đoạt quyền sống của người khác, tức là hành vi có khả năng trực tiếp gây ra cái chết của nạn nhân, chấm dứt sự sống của họ. Hành vi tước đoạt tính mạng (quyền sống) của người khác trong mặt khách quan của tội giết người phải là hành vi trái pháp luật.

Hậu quả chết người không phải là dấu hiệu bắt buộc (dấu hiệu định tội) của tội này, mà nó chỉ là dấu hiệu để xác định tội phạm hoàn thành. Nếu hậu quả chết người không xảy ra vì do nguyên nhân chủ quan thì hành vi phạm tội được coi là giết người chưa đạt.

Trong trường hợp hậu quả chết người xảy ra người định tội danh cần phải kiểm tra mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả đó để từ đó xác định mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội.

Trong thực tiễn xét xử, nhiều trường hợp việc xác định mối quan hệ nhân quả này hết sức phức tạp, nên theo hướng dẫn của Toà án tối cao cần thiết phải có kết luận của Hội đồng giám định pháp y.

Căn cứ vào các tình tiết của vụ án cho thấy hành vi dùng súng K54 bắn vào K và Q là hành vi nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm hại đến quyền sống của K và Q. Đây là hành vi tước đoạt sự sống của K và Q một cách trái phép, bị pháp luật cấm. Tuy nhiên, nó chưa gây ra cái chết cho nạn nhân nên theo Điều 18 BLHS thì đây là trường hợp giết người chưa đạt. Còn cái chết của chị H được coi là hậu quả của hành vi giết người chưa đạt này gây ra.

– Chủ thể của tội giết người là bất cứ ai có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt từ đủ 14 tuỏi trở lên. Theo sự mô tả trong vụ án, L đã xây dựng gia đình với K được nhiều năm và không có biểu hiện gì của người mất hoặc hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự. Như vậy, L là người đã thoả mãn đầy đủ các điều kiện của chủ thể tội giết người

– Mặt chủ quan của tội giết người thể hiện ở dấu hiệu lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp. Dấu hiệu mục đích và động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Các tình tiết của vụ án cho thấy L có ý định giết K và Q. Biết hai người này hẹn hò nhau tại nhà trọ của Q nên L đã lấy súng K54 phục trước nhà trọ của Q, sau đó bắn hai người này. Với các tình tiết của sự việc cho thấy L thực hiện hành vi phạm tội  bằng lỗi cố ý trực tiếp, L biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật cấm nhưng vẫn cứ thực hiện, bởi L mong muốn tước đoạt tính mạng của K và Q nhằm thoả mãn sự ghen tuông của cá nhân.

So sánh, đối chiếu với các dấu hiệu pháp lý của tội giết người theo khoản 2 Điều 93 và Điều 18 Bộ luật hình sự cho thấy L phạm tội giết người chưa đạt.

Tuy nhiên, căn cứ vào các tình tiết của vụ án cho thấy L có ý định giết K và Q. Do vậy, L phạm tội trong trường hợp giết nhiều người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 93 Bộ luật hìhn sự với tư cách là một tình tiết tăng nặng định khung.

Tóm lại: Lê Thị L phạm tội giết người chưa đạt. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 93 và Điều 18 Bộ luật hình sự.

Chú ý: Khi giải quyết vụ án này có thể có quan điểm cho rằng cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với L thêm tội vô ý làm chết người. Nhưng theo chúng tôi việc can phạm làm chết chị H không phải là kết quả của một hành vi vô ý thông thường, hay nói cách khác nó không phải là hành vi vô ý độc lập mà là kết quả của hành vi cố ý giết người. Nếu định tội là vô ý làm chết người thì sẽ đánh giá sai tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Cho nên không cần định thêm tội vô ý làm chết người, chỉ cần định một tội là tội giết người (chưa đạt) và coi việc làm chết chị H là một hậu quả của hành vi giết người (chưa đạt) nói trên. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi giết người chưa đạt mà gây ra hậu quả làm chết người khác này có thể coi không khác gì trường hợp giết người đã hoàn thành.

 * Khoản 1 và 2 Điều 230 Bộ luật hình sự

Khoản 1 Điều 230 quy định cấu thành cơ bản của tội sử dụng vũ khí quân dụng trái phép. Đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện bằng lỗi cố ý xâm phạm các quy định của Nhà nước về an toàn công cộng liên quan tới vũ khí quân dụng

Khách thể bị tội phạm xâm hại là các quy định của Nhà nước về an toàn công cộng liên quan tới vũ khí quân dụng.

Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện ở hành vi sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Đây là tội có cấu thành hình thức. Tội phạm được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi khách quan sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Hậu quả phạm tội không có ý nghĩa cho việc định tội danh.

Mặt chủ quan của tội phạm thể hiện bằng dấu hiệu lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp). Mục đích và động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội phạm này.

Chủ thể của tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng là những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt từ 16 tuổi trở lên nếu phạm tội theo ở khoản 1 và từ đủ 14 tuổi trở lên nếu phạm tội theo khoản 2, 3 và 4 Điều 230 Bộ luật hình sự.

Dựa trên cơ sở phân tích các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng nêu trên và căn cứ vào các tình tiết diễn biến của vụ án cho thấy: Hành vi của L dùng súng K54 để bắn K và Q, H là hành vi sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Nó đã xâm phạm trực tiếp những quy định của Nhà nước về an toàn công cộng liên quan tới vũ khí quân dụng (Điều 3 Quy chế quản lý vũ khí … được ban hành theo Nghị định 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ. Hành vi này được L thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Nó đã gây ra hậu quả nghiêm trọng là làm K bị thương và làm chết H.

Hành vi phạm tội này của L đã thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng  quy định tại điểm a khoản 2 Điều 230 Bộ luật hình sự.

4. Kết luận

Lê Thị L phạm tội giết người chưa đạt và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 93 và Điều 18; điểm a khoản 2 Điều 230 Bộ luật hình sự.

Bài tập số 3:

Chiều ngày 11/6/2001 Phạm Văn D đi lang thang thấy một người đang sửa xe Cub 70 đời 82-89 ở ven đường nên đứng lại xem. Người chủ xe máy chữa xe mãi không được nên nhờ D chữa giúp. D nhận lời. Sau khi chữa xe xong, D ngồi lên xe khởi động máy, máy nổ. Lợi dụng chủ xe đang lúi húi buộc hành lý vào sau xe D đã cài số phóng xe đi thẳng. Ngày hôm sau D đem xe đến một cửa hàng cầm đồ để bán thì bị Công an hình sự bắt giữ. Chiếc xe máy được Cơ quan công an giao trả cho người chủ xe tên là Trần Quang B.

Qua đấu tranh khai thác, Cơ quan công an còn được biết đêm ngày 14/7/1995, lợi dụng mọi người trong gia đình nhà ông Lê Quốc L (ở làng lân cận) đi vắng, D đã dùng kìm cộng lực cắt khoá cửa vào nhà lấy chiếc xe Dream II ông L mới mua với giá 5 lượng vàng mang lên thành phố Hồ Chí Minh bán tiêu sài. Nhưng trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không phát hiện ra D là thủ phạm và trong thời gian từ đó cho đến khi bị bắt về vụ án ngày 11/6/2001 D vẫn làm ăn sinh sống bình thường ở nhà.

Hỏi: Hãy xác định trách nhiệm hình sự của D?

Lời giải

1. Tóm tắt và phân tích hành vi phạm tội của D

– Đêm ngày 14/7/1995 lợi dụng gia đình ông L đi vắng D đã dùng kìm cộng lực cắt khoá vào nhà lấy chiếc xe Dream II giá trị 5 cây vàng. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không phát hiện ra D là thủ phạm và trong thời gian từ đó cho đến khi bị bắt về vụ án ngày 11/6/2001 D vẫn làm ăn sinh sống bình thường ở nhà.

– 11/6/2001 B nhờ D chữa xe. Sau khi chữa xe xong D ngồi lên xe khởi động máy nổ. Lợi dụng B đang lúi húi buộc hành lý vào sau xe D đã cài số phóng xe đi thẳng. Ngày hôm sau khi D đem xe đến một cửa hàng cầm đồ để bán thì bị Công an hình sự bắt giữ.

2. Hướng xâm hại của hành vi và lựa chọn quy phạm pháp luật cần kiểm tra

– Hành vi D thực hiện đêm ngày 14/7/1995 đã xâm hại tới quan hệ sở hữu tài sản của công dân. Các qui phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra: Khoản 1, 2 Điều 155, khoản 2 Điều 8, khoản 1 Điều 45 Bộ luật hình sự 1985 và khoản 1 Điều 138; khoản 3 Điều 7; khoản 2, 3 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999.

– Hành vi D thực hiện ngày 11/6/2001 đã xâm hại tới quan hệ sở hữu tài sản của công dân. Quy phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra: Khoản 1 Điều 136, Bộ luật hình sự năm 1999.

3. Kiểm tra các quy phạm pháp luật hình sự đã lựa chọn

 *  Khoản 1, 2 Điều 155 khoản 2 Điều 8, khoản 1 Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1985 liên quan tới hành vi chiếm đoạt chiếc xe máy

* Khoản 1, 2  Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985

Khoản 1 Điều 155 quy định cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản của công dân.

– Khách thể bị tội phạm xâm hại là quan hệ sở hữu tài sản của công dân. Đối tượng tác động của nó là tài sản của công dân.

Hành vi lấy chiếc xe máy Dream II của D đã trực tiếp xâm hại tới quan hệ sở hữu tài sản của anh L. Ông L đã mất quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt chiếc xe máy của mình

– Mặt khách quan của tội phạm

Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản của công dân gồm có hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn lén lút, bí mật; hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi chiếm đoạt tài sản và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm hoàn thành khi hậu quả phạm tội xảy ra.

Các tình tiết của vụ án cho thấy D lợi dụng mọi người trong gia đình nhà Ông Lê Quốc L (ở làng lân cận) đi vắng, đã dùng kìm cộng lực cắt khoá cửa vào nhà lấy chiếc xe Dream II. Như vậy, D đã thực hiện hành vi chiếm đoạt chiếc xe Dream II của ông L bằng thủ đoạn lén lút, bí mật che giấu tính chất phạm pháp của hành vi của mình đối với ông L- chủ sở hữu tài sản. Tội phạm hoàn thành kể từ khi D chiếm đoạt được chiếc xe Dream II trị giá 5 lượng vàng.

– Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi cố ý trực tiếp, động cơ tư lợi.

Các tình tiết của vụ án cho thấy D đã nhận thức được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, biết được việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của ông L là hành vi bị pháp luật cấm. Tuy nhận thức được rất rõ như vậy nhưng D vẫn thực hiện hành vi phạm tội với động cơ tư lợi.

Chủ thể của tội phạm đòi hỏi người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt từ đủ 16 tuổi trở lên ở khoản 1 và từ đủ 14 tuổi trở lên ở khoản 2 và 3 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985. D đã thoả mãn các điều kiện của chủ thể của tội phạm này.

Tóm lại: Đối chiếu với các dấu hiệu đặc trưng pháp lý của tội trộm cắp tài sản của công dân theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hành vi của D đã thoả mãn các dấu hiệu của tội phạm này. Tuy nhiên, tài sản của ông L là chiếc xe Dream II với giá trị 5 lượng vàng. Theo Nghị quyết số 01/89/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì “khoảng 5 tấn gạo, 5 tấn xăng dầu, phân đạm, 5 tạ mỳ chính, 2 tấn đường trắng loại 1, hai lượng vàng, đối với tiền hoặc các loại tài sản hàng hoá, vật tư khác quy ra trị giá tương đương với 5 tấn gạo- được coi là số lượng tài sản, hàng hoá, vật tư có giá trị lớn hoặc thu lợi bất chính lớn. Khi trị giá gấp 3 lần các mức nêu trên thì được coi là giá trị rất lớn hoặc có số lượng rất lớn, thu lợi bất chính rất lớn”.

Như vậy, Phạm Văn D đã phạm tội trộm cắp tài sản của công dân trong trường hợp chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn theo điểm c khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985.

* Khoản 1 Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1985

Do hành vi trộm cắp tài sản của công dân xảy ra từ ngày 14/7/1995, nhưng cho đến ngày 11/6/2001 Cơ quan công an mới phát hiện ra nên cần phải kiểm tra để xác định hành vi phạm tội này đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự chưa và D có được hưởng thời hiệu không.

Theo khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1985, tội trộm cắp tài sản của công dân theo khoản 2 Điều 155 là tội nghiêm trọng (khung hình phạt từ 2 đến 10 năm tù). Điểm c khoản 1 Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội này là 15 năm. Kể từ khi D phạm tội trộm cắp tài sản của công dân (14/7/1995) đến ngày phạm tội mới (11/6/2001) chưa đến 6 năm cho nên D vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Nhưng do hành vi phạm tội này lại được phát hiện và xử lý sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực pháp luật, nên cần phải vận dụng những điều luật có lợi cho D theo quy định khoản 3 Điều 7 Bộ luật này.

Hai tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 132 và Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985 được Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sáp nhập thành một tội.

Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 500.000 đồng đến dưới 50 triệu đồng… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”. Như vậy, so với quy định về tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1985 cho thấy nhà làm luật không chỉ phi tội phạm hoá mà còn phi hình sự hoá một phần loại tội phạm này.

Đối chiếu với hành vi trộm cắp chiếc xe máy Dream II (giá trị 5 lượng vàng – dưới 50 triệu đồng) của D chúng ta thấy nó chỉ thoả mãn các dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138. Theo khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 thì khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này được áp dụng với hành vi phạm tội trên của D (áp dụng theo hướng có lợi cho D). Cũng theo khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, tội trộm cắp tài sản do D thực hiện là tội ít nghiêm trọng và căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999 thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm đối với loại tội này là 5 năm.

Theo các tình tiết của vụ án thì từ khi phạm tội trộm cắp tài sản của công dân (14/7/1995) đến ngày phạm tội mới (11/6/2001) đã qua gần 6 năm. Trong thời gian này D vẫn làm ăn sinh sống bình thường ở nhà, không trốn tránh và cũng không có lệnh truy nã của Cơ quan công an. Căn cứ vào các quy định tại khoản 2 và 3 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999 thì D không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản nữa.

 *  Khoản 1 Điều 136, Bộ luật hình sự năm 1999 liên quan tới hành vi D thực hiện ngày 11/6/2001

Khoản 1 Điều 136 quy định cấu thành tội cướp giật tài sản

Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội này thể hiện ở chỗ tội phạm xâm phạm tới quan hệ sở hữu tài sản. Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của nạn nhân rồi nhanh chóng tẩu thoát. Tội phạm hoàn thành khi chiếm đoạt được tài sản. Tội cướp giật tài sản được người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt đủ tuỏi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp với động cơ tư lợi

So sánh, đối chiếu các dấu hiệu cấu thành của tội cướp giật tài sản quy định tại khoản 1 Điều 136 như đã trình bày ở trên với các tình tiết khách quan và chủ quan của vụ án cho thấy hành vi của D đã xâm phạm trực tiếp quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ. D đã có hành vi lợi dụng chủ xe đang lúi húi buộc hành lý vào sau xe đã nhanh chóng nổ máy cài số phóng xe đi thẳng. Sau đó mang xe đến hiệu cầm đồ để bán. Hành vi này rõ ràng là hành vi cố ý chiếm đoạt tài sản của công dân bằng thủ đoạn nhanh chóng chiếm đoạt rồi tẩu thoát. Đây là dấu hiệu của tội cưopứp giật chứ không phải là dấu hiệu đặc trưng của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 137 Bộ luật hình sự. D có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của rmình là nguy hiểm cho xã hội nhận thực được hậu quả của hành vi đó những vẫn có ý thức chiếm đoạt bằng được tài sản của nạn nhân để thoả mãn động cơ tư lợi.

Dựa vào những phân tích trên đây cho thấy hành vi của D đã thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội cướp  giật tài sản theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự.

4. Kết luận:

Phạm Văn D chỉ chịu trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản của công dân. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự.

Bài tập số 4:

A, B, K uống rượu say, đi loạng choạng và ngã ở dọc đường, H và Q phát hiện chị B cùng với hai người bạn nằm bên đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an.

Về vụ án này có các ý kiến sau đây về tội danh của H và Q:

  1. H và Q phạm tội cướp tài sản;
  2. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản;
  3. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.

Câu hỏi:  Hành vi của H, Q cấu thành tội gì? Tại sao?

Lời giải

BƯỚC 1. XÁC ĐỊNH QPPL ĐƯỢC ÁP DỤNG

Trong tình huống trên hành vi của H đã xâm phạm đến quan hệ sở hữu của chị B, ( cụ thể trong lúc chị C say nằm ngủ ở dọc đường H và Q đã lấy đi số trang sức trị giá 10 triệu đồng của chị) đây là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.

Nên trong tình huông này quy phạm pháp luật hình sự sẽ được áp dụng.

BƯỚC 2. XÁC ĐỊNH CÁC DÂU HIỆU CÙNG LOẠI CỦA HÀNH VI VI PHẠM

1. Ý kiến H và Q phạm tội cướp tài sản: Ý kiến này là sai, vì các tình tiết của vụ án không đủ yếu tố cấu thành tội cướp tài sản

Khoản 1 Điều 168 BLHS 2018 quy định về tội cướp tài sản như sau: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.”.

Tội cướp tài sản là “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhắm chiếm đoạt tài sản.

Dấu hiệu pháp lý (cấu thành tội cướp tài sản)

* Khách thể của tội phạm:

Hành vi cướp tài sản xâm hại đồng thời hai quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Bằng hành vi phạm tội của mình, người phạm tội cướp tài sản xâm phạm trước hết đến thân thể, đến tự do của con người để qua đó có thể xâm phạm được sở hữu.

Trong tình huống trên, H và Q thấy chị B và hai người bạn say rượu nằm mê mệt bên đường, lại thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng nên H và Q lấy đi toàn bộ tài sản của chị B trị giá 10 triệu đồng. Như vậy, trong tình huống này, H và Q không xâm hại đến thân thể, đến tự do của chị B và hai người bạn hay nói cách khác là không xâm phạm đến quan hệ nhân thân. H và Q chỉ xâm hại đến quan hệ sở hữu của chị B. Như vậy, trong tình huống này, H và Q không xâm hại đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm hại đến quan hệ sở hữu của chị B.

* Mặt khách quan:

Theo quy định của điều luật có 3 dạng hành vi khách quan được coi là hành vi khách quan của tội cướp tài sản. Đó là: Hành vi dùng vũ lực; hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc; hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được để nhằm chiếm đoạt tài sản.

Hành vi dùng vũ lực là hành vi mà người phạm tội đã thực hiện, tác động vào cơ thể của nạn nhân như: đấm, đá, bóp cổ, trói, bắn, đâm chém… Hay có thể nói một cách khái quát là hành vi dùng sức mạnh vật chất nhằm chiếm đoạt tài sản.

Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi dùng lời nói hoặc hành động nhằm đe dọa người bị hại nếu không đưa tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện ngay. Vũ lực đe dọa sẽ thực hiện có thể sẽ nhằm vào chính người bị đe dọa nhưng cũng có thể nhằm vào người khác có quan hệ thân thuộc với người bị đe dọa. Để xác định dấu hiệu đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, ta thấy ngay tức khắc là ngay lập tức không chần chừ, khả năng xảy ra là tất yếu nếu người bị hại không giao tài sản cho người phạm tội. Khả năng này không phụ thuộc vào lời nói hoặc hành động của người phạm tội mà nó tiềm ẩn ngay trong hành vi của người phạm tội. Đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc cũng có nghĩa là nếu người bị hại không giao tài sản hoặc không để cho người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện.

Hành vi khác làm cho người khác lâm vào tình trạng không thể chống cự được là hành vi không phải dùng vũ lực, cũng không phải là đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng lại làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Để xác định hành vi này, trước hết xuất phát từ phía người bị hại phải là người bị tấn công, nhưng không phải bị tấn công bởi hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc mà bị tấn công bởi hành vi khác. Như vậy, hành vi khác mà nhà làm luật quy định trong cấu thành trước hết nó phải là hành vi tấn công người bị hại, mức độ tấn công tới mức người bị hại không thể chống cự được. Ví dụ như bỏ thuốc ngủ vào cốc nước cho người bị hại uống làm cho người đó ngủ say, bị mê mệt không biết gì sau đó mới chiếm đoạt tài sản của người bị hại…

Trong tình huống trên, H và Q không có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hay có hành vi nào khác làm cho chị B và hai người bạn lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Chị B và hai người bạn lâm vào tình trạng không thể chống cự được là do uống quá nhiều rượu nên say, việc chị B và hai người bạn lâm vào tình trạng không nhận thức, không chống cự được không có lỗi của H và Q. Vì vậy, trong tình huống này H và Q chỉ chiếm đoạt tài sản của chị B.

=> Từ phân tích về khách thể và mặt khách quan của tội phạm ta thấy, H và Q không thỏa mãn dấu hiệu để cấu thành tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 168 BLHS. Như vậy ý kiến cho rằng H và Q phạm tội cướp tài sản là sai.

2. Ý kiến H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: ý kiến này cũng sai vì các tình tiết không cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 BLHS 2015. Qua thực tiễn xét xử có thể hiểu: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là lợi dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ.

Đặc điểm nổi bật của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là người phạm tội ngang nhiên lấy tài sản trước mắt người quản lý tài sản mà họ không làm gì được (không có biện pháp nào ngăn cản được hành vi chiếm đoạt của người phạm tội hoặc nếu có thì biện pháp đó cũng không đem lại hiệu quả, tài sản vẫn bị người phạm tội lấy đi một cách công khai). Tính chất công khai, trắng trợn của hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu giếm hành vi phạm tội của mình , trước, trong hoặc ngay sau khi bị mất tài sản, người bị thiệt hại biết ngay người lấy tài sản của mình (biết mà không thể giữ được).

Do đặc điểm riêng của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức công khai, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan như: thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh… Mặc dù tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là tội phạm chưa được các nhà nghiên cứu khoa học nghiên cứu nhiều, nhưng qua thực tiễn xét xử chúng ta có thể thấy một số trường hợp công nhiên chiếm đoạt tài sản như sau:

  • Người phạm tội lợi dụng sơ hở, vướng mắc của người quản lý tài sản để công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ;
  • Người phạm tội lợi dụng hoàn cảnh khách quan như: thiên tai, hỏa hoạn, bị tai nạn, đang có chiến sự để chiếm đoạt tài sản. Những hoàn cảnh cụ thể này không do người có tài sản gây ra mà do hoàn cảnh khách quan làm cho họ lâm vào tình trạng không thể bảo vệ được tài sản của mình, nhìn thấy người phạm tội lấy tài sản mà không làm gì được.

Trong tình huống trên, H và Q đã lợi dụng lúc chị B và hai người bạn say rượu nằm mê mệt bên đường nên đã chiếm đoạt tài sản của chị B. Trong trường hợp nếu chị B và hai người bạn không hẳn bị mê mệt mà vẫn có thể  nhìn thấy hành vi chiếm đoạt tài sản của H và Q nhưng do quá say nên họ không thể ngăn cản hành vi của H và Q thì H và Q có thể bị cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Nhưng trong tình huống có ghi rõ “… H và Q phát hiện chị B cùng với hai người bạn đang say nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an…”, như vậy trong khi H và Q đang thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, chị B và hai người bạn không hề biết và nhìn thấy hành vi của H và Q, phải đến sáng hôm sau chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an. Như vậy, hành vi của H và Q không thể là công nhiên mà có hành vi lén lút, hành vi của H và Q chỉ có thể bị coi là công nhiên khi chị B hoặc hai người bạn của chị B tỉnh giấc nhận thấy chị B bị chiếm đoạt tài sản nhưng do quá say nên không có khả năng chống cự và H và Q vẫn công khai, trắng trợn lấy số nữ trang trên người chị B. Tính chất công khai, trắng trợn tuy không phải là hành vi khách quan, nhưng nó lại là một đặc điểm cơ bản, đặc trưng đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Công nhiên chiếm đoạt tài sản trước hết là công nhiên với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, sau đó là công nhiên đối với mọi người xung quanh. Tuy nhiên, đối với người xung quanh, người phạm tội có thể có những thủ đoạn gian dối, lén lút để tiếp cận tài sản, nhưng khi chiếm đoạt, người phạm tội vẫn công khai, trắng trợn.

=> Từ những phân tích trên, ta thấy H và Q không có đủ các dấu hiệu cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 172 BLHS 2015. Như vậy, ý kiến H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là sai.

3. Ý kiến H và Q phạm tội trộm cắp tài sản: ý kiến này đúng, vì đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS. Điều 173 không mô tả những dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản mà chỉ nêu tội danh. Qua thực tiễn xét xử có thể hiểu: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác.

Đặc điểm nổi bật của tội trộm cắp tài sản là người phạm tội lén lút (bí mật) lấy tài sản mà chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết mình bị lấy tài sản, chỉ sau khi mất họ mới biết mình bị mất tài sản.

* Khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội trộm cắp tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Trong tình huống trên, H và Q không hề xâm hại đến quan hệ nhân thân của chị B và hai người bạn mà chỉ có hành vi xâm phạm đến tài sản của chị B, cụ thể là lấy đi toàn bộ số nữ trang bằng vàng của chị B.

* Mặt khách quan:

Do đặc điểm của tội trộm cắp tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức lén lút, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản, không trông giữ cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cành khách quan khác như chen lấn, xô đẩy, nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người quản lý tài sản không biết.

Để xác định hành vi trộm cắp tài sản và phân biệt tội trộm cắp với một số tội phạm khác gần kề, chúng ta có thể có một số dạng trộm cắp tài sản có tính chất đặc thù như sau:

  • Người phạm tội dùng những thủ đoạn gian dối tiếp cận tài sản để đến khi có điều kiện sẽ lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản;
  • Người phạm tội lợi dụng chỗ đông người, chen lấn xô đẩy để chiếm đoạt tài sản của người khác;
  • Người phạm tội lợi dụng người quản lý tài sản không có mặt ở nơi để tài sản hoặc người tài sản không trực tiếp quản lý nên đã chiếm đoạt. Đặc trưng hành vi chiếm đoạt của tội trộm cắp tài sản là dấu hiệu lén lút. Lén lút là dấu hiệu có nội dung trái ngược với dấu hiệu công khai ở các tội xâm phạm sở hữu khác, dấu hiệu này vừa chỉ đặc điểm khách quan của hành vi chiếm đoạt vừa chỉ ý thức chủ quan của người thực hiện hành đó. Hành vi chiếm đoạt có đặc điểm khách quan là lén lút và ý thức chủ quan của người thực hiện cũng là lén lút. Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình thức mà hình thức đó đó có khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt khi có hành vi này xảy ra. Ý thức chủ quan của người phạm tội là lén lút nếu khi thực hiện hành vi chiếm đoạt người phạm tội có ý thức che giấu hành vi đang thực hiện của mình. Việc che giấu này chỉ đòi hỏi với chủ tài sản, đối với những người khác, ý thức chủ quan của người trộm cắp tài sản vẫn là công khai. Nhưng trong thực tế, ý thức chủ quan của người phạm tội trong phần lớn vẫn là lén lút, che giấu đối với người khác.

Trong tình huống trên, H và Q đã lợi dụng lúc chị B và hai người bạn say rượu nằm mê mệt bên đường nên đã chiếm đoạt tài sản của chị B. Ta thấy trong tình huống có ghi rõ: “… H và Q phát hiện chị B cùng với hai người bạn đang say nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an…” . Để xác định hành vi phạm tội của H và Q  trong tình huống này ta cần xác định “tại thời điểm mất tài sản, chủ tài sản có biết hay không” là vấn đề cần thiết phải làm rõ, bởi nó liên quan đến bản chất của hành vi chiếm đoạt. Trong tình huống này, chị B là chủ tài sản, do bị say rượu nằm mê mệt bên đường  nên trong khi bị H và Q chiếm đoạt tài sản không hề biết mình bị chiếm đoạt tài sản. Phải đến sáng hôm sau tỉnh giấc chị B mới biết mình bị mất tài sản. Như vậy, dấu hiệu “thời điểm mất tài sản” là mốc thời gian, xác định việc tài sản đã bị chiếm đoạt và không nằm trong vòng kiểm soát của chủ tài sản nữa. Tại thời điểm này, chủ tài sản (chị B) không biết việc mình bị mất tài sản và đây chính là hệ quả của hành vi “lén lút”. Bởi chỉ có “lén lút” mới làm chủ tài sản không biết mình bị mất tài sản. Mặt khác trị giá tài sản bị các đối tượng chiếm đoạt là 10 triệu đồng, thỏa mãn dấu hiệu được nêu trong Điều 173 BLHS (từ hai triệu đồng trở lên ). Hành vi của H và Q được thực hiện do lỗi cố ý. Mục đích cuối cùng của H và Q là mong muốn chiếm đoạt tài sản của trị B, cụ thể là số nữ trang bằng vàng trên người của chị B.

Với sự liên hệ qua lại giữa các dấu hiệu này, giúp chúng ta dễ dàng tìm ra điểm đặc trưng của tội “Trộm cắp tài sản”, từ đó ta có cơ sở để quyết định H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.

BƯỚC 3. ĐỐI CHIẾU HÀNH VI PHẠM TỘI NẰM Ở KHOẢN NÀO ĐIỀU NÀO.

Căn cứ vào những phân tích trên, căn cứ vào khách thể và mặt khách quan của tội phạm ta thấy, H và Q có đủ những dấu hiệu để cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS 2015.

Bài tập số 5:

Nguyễn Phi Hùng sinh ngày 14/09/1993 có hộ khẩu thường trí tại xã Nghĩa Lạc, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An và Trần Mạnh Dũng sinh ngày 28/08/1991 có hộ khẩu thường trú tại xã Nghĩa Lâm, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Hùng và Dũng là đôi bạn thân, sống cùng phòng trọ tại ngõ 3, đường Nguyễn Kiệm, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Dũng và Hùng là hai thanh niên lười lao động, nghiện chơi game và hay rượu chè. Trong đó Dũng là người từng có một tiền án về tội cố ý gây thương tích.

Ngày 15/5/2017 trong lúc hết tiền, Dũng rủ Hùng đi cướp tài sản, sau khi bàn bạc hai người đã làm ngay.  Dũng dùng xe máy chở Hùng đi vòng thành phố để tìm mồi, cả hai nhắm được anh Trần Văn Linh đang đi xe máy SH mang biển kiểm soát 37 – H7 8513 chạy cùng chiều với họ, sau một hồi bám theo chờ thời cơ thấy anh Linh đi vào quãng đường vắng, Dũng lập tức tăng tốc áp sát từ phía sau còn Hùng với tay giật chiếc cặp xách anh Linh đang treo trên xe, do di chuyển tốc độ cao và bất ngờ nên cả hai xe đều ngã, khi Hùng đứng dậy thì anh Linh lao đến, lập tức Hùng bèn giơ tay đấm vào mặt và đá mạnh vào khuỷa chân làm Linh té dúi xuống đất. Sau đó, Hùng và Dũng leo lên xe bỏ chạy, nhưng ngay lập tức hai đối tượng bị một số người dân đi đường quay bắt và gọi công an đến giải quyết. Tài sản trong cặp xách gồm có: 1 điện thoại Sam sung galaxy J7, 1 laptop hiệu Leveno và giấy tờ tùy thân của Linh, tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định là 35 triệu đồng.

Trong quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra phát hiện chiếc điện thoại Sam sung galaxy J7 mà Hùng và Dũng chiếm đoạt là tang vật của một vụ án khác, đó là vụ án do Trần Văn Linh thực hiện trước đó 5 ngày tại cửa hàng điện thoại di động Ánh Ngân, theo đó nội dung sự việc như sau:

Ngày 10/05/2017, Linh (5/4/1994) có đến của hàng di động trên để mua điện thoại do điện thoại của mình hơi cũ. Đến nơi Linh gặp chị Trần Mai Hoa là nhân viên của hàng và hỏi giá điện thoại Sam sung galaxy J7 (có giá 6.999.000 đồng) nhưng do giá quá cao không đủ tiền, Linh đã đề nghị chị Hoa đổi chiếc điện thoại này với chiếc điện thoại Iphone 7 của mình . Tuy nhiên chị Hoa cho biết theo quy định không đổi được.

Sau đó Linh mang điện thoại ra quầy kỹ thuật gặp anh Từ Bá Công là nhân viên kỹ thuật và tiếp tục đề nghị nhưng  không được anh Công đồng ý. Lúc sau chị Hoa đến hỏi Linh để lấy lại chiếc điện thoại mà Linh đã hỏi, để cất vào tủ trưng bày nhưng Linh đã giấu chiếc điện thoại vào túi quần và trả lời: “Em Không cầm” và chỉ tay về phía quầy kỹ thuật  với ý là đã đưa máy cho anh Công. Khi chị Hoa đi ra phía quầy kỹ thuật quay lại thì thấy Thắng chạy nhanh ra phía ngoài cửa hàng nên chị Hoa đã  hô hoán và cùng bảo vệ đuổi theo nhưng không kịp nên đã trình báo với cơ quan công an.

Hãy định tội danh trong tình huống này?

Lời giải

Văn bản quy phạm pháp luật mà nhóm sử dụng là Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) sau đây gọi là Bộ luật hình sự năm 2015 (Viết tắt: BLHS 2015)

Trên cơ sở nội dung vụ án hình sự nêu trên, có thể thấy đây thực chất là hỗn hợp hai vụ án có liên quan với nhau về một số tình tiết, có thể tách ra thành hai vụ án để xét xử độc lập tại phiên tòa mà bị cáo trong vụ án thứ nhất là Nguyễn Phi Hùng và Trần Mạnh Dũng, bị cáo trong vụ án thứ hai là Trần Văn Linh. 

1. Vụ án thứ nhất: Theo quan điểm của nhóm 7 thì Nguyễn Phi Hùng và Trần Mạnh Dũng đã phạm tội cướp giật tài sản được quy định tại điểm d, đ khoản 1 Điều 171 BLHS 2015.

Điều 171. Tội cướp giật tài sản

1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

i) Tái phạm nguy hiểm.


a, Các yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản

– Khách thể: xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ. Cụ thể: Nguyễn Phi Hùng và Trần Mạnh Dũng đã chiếm đoạt chiếc cặp xách của Trần Văn Linh.

– Mặt khách quan: Hùng và Mạnh đã có hành vi chiếm đoạt tài sản của Linh. Cụ thể,  sau khi Hùng và Dũng đi vòng thành phố để tìm mồi, cả hai nhắm được anh Trần Văn Linh đang đi xe máy SH mang biển kiểm soát 37 – H7 8513 chạy cùng chiều với họ, sau một hồi bám theo chờ thời cơ thấy anh Linh đi vào quãng đường vắng, Dũng lập tức tăng tốc áp sát từ phía sau còn Hùng với tay giật chiếc cặp xách anh Linh đang treo trên xe.

– Mặt chủ quan: Nguyễn Phi Hùng và Trần Mạnh Dũng đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp với mục đích là chiếm đoạt tài sản.

– Chủ thể: Nguyễn Phi Hùng và Trần Mạnh Dũng đều có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

b, Quan điểm định tội danh và quyết định hình phạt

– Về định tội danh:

Trong vụ án này, Hùng và Dũng đã có hành vi giật chiếc cắp xách của anh Linh đang treo trên xe, hành vi được thực hiện một cách bất ngờ, công khai và nhanh chóng khiến cho người bị hại là anh Linh không kịp ứng phó. Tuy nhiên, do di chuyển tốc độ cao và bất ngờ nên cả hai xe đều ngã, khi Hùng đứng dậy thì anh Linh lao đến, lập tức Hùng bèn giơ tay đấm vào mặt và đá mạnh vào khuỷa chân làm Linh té dúi xuống đất, lúc này Hùng và Dũng vẫn đang cầm túi sách của Linh vội leo lên xe bỏ chạy, nhưng ngay lập tức hai đối tượng bị một số người dân đi đường quay bắt và gọi công an đến giải quyết. Trên cơ sở xem xét một cách toàn diện các yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản, xét thấy hành vi của Hùng và Dũng đủ yếu tố cấu thành tội này. Vậy nên, việc xác định Hùng và Dũng phạm tội cướp giật tài sản theo quy định của BLHS 2015 là hoàn toàn có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

– Về quyết định hình phạt

Hành vi của Hùng và Dũng là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ và gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội. Hùng và Dũng phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì tính ham chơi, lười lao động nên họ thực hiện hành vi phạm tội. Trên cơ sở xem xét tình tiết vụ án, xét thấy Hùng và Dũng đã đùng thủ đoạn nguy hiểm để thực hiện hành vi cướp giật tài sản (Hùng và Dũng  đã dùng xe máy chạy với tốc độ cao để áp sát và cướp giật túi sách của Linh treo trên xe) cùng với đó là tình tiết hành hung để tẩu thoát (do di chuyển tốc độ cao và bất ngờ nên cả hai xe đều ngã, khi Hùng đứng dậy thì anh Linh lao đến, lập tức Hùng bèn giơ tay đấm vào mặt và đá mạnh vào khuỷa chân làm Linh té dúi xuống đất rồi Hùng và Dũng leo lên xe bỏ chạy). Với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Xét thấy, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và răng đe, giáo dục, phòng ngừa chung trong toàn xã hội. Việc phạt Nguyễn Phi Hùng và Trần Mạnh Dũng 5 năm về tội cướp giật tài sản quy định tại điểm d, đ khoản 2, điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là hoàn toàn có căn cứ và đúng với quy định của pháp luật.

2. Vụ án thứ hai: Theo quan điểm của nhóm 7 thì Trần Văn Linh đã phạm trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS 2015.

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a, Các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản 

Khách thể: xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ. Cụ thể: Trần Văn Linh đã chiếm đoạt chiếc điện thoại Sam sung galaxy J7 (có giá 6.999.000 đồng) của cửa hàng điện thoại di động Ánh Ngân.

– Mặt khách quan: Linh đã có hành vi chiếm đoạt tài sản của cửa hàng điện thoại di động Ánh Ngân. Cụ thể, trong vụ việc này, lợi dụng sự sơ hở quản lý tài sản của chị Hoa, Trần Văn Linh đã lén lút nhét chiếc điện thoại đó vào túi, khi chị Hoa đến hỏi Linh để lấy lại chiếc điện thoại mà Linh đã hỏi, để cất vào tủ trưng bày thì Linh trả lời: “Em Không cầm” và chỉ tay về phía quầy kỹ thuật  với ý là đã đưa máy cho anh Công sau đó thoát khỏi sự quản lý tài sản của chị Hoa.

– Mặt chủ quan: Trần Văn Linh đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp với mục đích là chiếm đoạt tài sản.

– Chủ thể: Trần Văn Linh có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

b, Quan điểm định tội danh và quyết định hình phạt

– Về định tội danh:

Trong vụ án này, lợi dụng sự sơ hở quản lý tài sản của chị Hoa, Trần Văn Linh đã lén lút nhét chiếc điện thoại đó vào túi quần nên cấu thành tội trộm cắp tài sản và tội phạm hoàn thành từ lúc Linh cho điện thoại vào túi quần, thoát khỏi sự quản lý tài sản của chị Hoa. Căn cứ nội dung của vụ việc, có cơ sở để khẳng định với hành vi của Trần Văn Linh đã phạm tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 BLHS 2015. Theo quy định của pháp luật, trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi lén lút, bí mật chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình.

– Về quyết định hình phạt

Hành vi của Trần Văn Linh nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ và gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung. Linh có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra nhưng do mục đích tư lợi và xem thường pháp luật, Linh vẫn thực hiện hành vi phạm tội nêu trên. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở xem xét giá trị tài sản mà Linh đã chiếm đoạt được là chiếc điện thoại Sam sung galaxy J7 có giá 6.999.000 đồng, Linh phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Xét thấy việc phạt Trần Văn Linh 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là hoàn toàn có căn cứ và đúng với quy định của pháp luật.

4.9/5 - (16 bình chọn)

Phản hồi

  1. Cảm ơn anh Thoáng nhìu, hôm bữa nhờ gợi ý của anh mà BT lớn của em từ 7.5 lên thành 9 điểm, mừng lắm ý.

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền