TNHS của người chưa thành niên cơ sở pháp lý thực trạng giải pháp

nguoi-chua-thanh-nien-pham-toi

Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là một việc khá phức tạp bởi người chưa thành niên còn có nhận thức chưa đầy đủ, hành vi của họ thường mang tính bột phát do bị lôi kéo hoặc kích động, hoặc chưa đủ khả năng làm chủ hành động của mình, hơn nữa họ còn có một tương lai dài phía trước. Do đó, không thể áp dụng các biện pháp xử lý người chưa thành niên phạm tội giống như những người đã thành niên.

Các nội dung liên quan được tìm kiếm:

1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên 

1.1. Khái niệm người chưa thành niên 

Pháp luật ở mỗi quốc gia khác nhau quy định khái niệm người chưa thành niên khác nhau. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổithành niên sớm hơn”. Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến Pháp năm 2013, Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của ngườichưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Theo Điều 1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.

Có thể đưa ra khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.

Ở Việt Nam, tuổi kết nạp Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là từ 10 đến 15 tuổi, tuổi kết nạp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là từ 15 đến 30 tuổi. Trong tuổi Đoàn gọi là thanh niên, trong tuổi Đội là thiếu niên, dưới tuổi Đội gọi là nhi đồng. Ở mỗi lứa tuổi, người chưa thành niên được Nhà nước và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục để phát triển tốt nhất về thể chất và nhân cách, trở thành người khỏe mạnh, có ích cho xã hội

1.2. Đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên 

Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Chính vì vậy mà họ có những đặc điểm riêng về tâm lý; Về trạng thái cảm xúc: Người chưa thành niên là người đang trong quá trình phát triển cả về sinh lí, tâm lí và ý thức; Về nhận thức pháp luật: khả năng nhận thức về pháp luật của người chưa thành niên còn nhiều hạn chế. Một phần không nhỏ người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội chỉ để thỏa mãn nhu cầu, hứng thú không đúng đắn của cá nhân, không quan tâm đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội; Về nhu cầu độc lập: Nhu cầu độc lập có thể được hiểu là việc cá nhân tự hành động và tự ra quyết định theo ý kiến riêng mà không muốn bị ảnh hưởng của người khác. Ở lứa tuổi chưa thành niên, nhu cầu độc lập thái quá thường biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng các hành vi như ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ, phô trương. Về nhu cầu khám phá cái mới: Tìm hiểu, khám phá cái mới là một trong những nhu cầu của các em ở lứa tuổi chưa thành niên. Tuy vậy, sự tò mò và khám phá cái mới cũng có thể trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các em.

1.3. Khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên

Qua phân tích khái niệm trách nhiệm hình sự, khái niệm người chưa thành niên ta có thể rút ra khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên như sau: Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên là trách nhiệm mà người chưa thành niên phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình.

2. Thực trạng về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội 

2.1. Một số quy định của pháp luật về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội

2.1.1. Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội 

Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 91 BLHS 2015, có các nguyên tắc cụ thể như sau:

Thứ nhất, so với Điều 69 BLHS 1999, Điều 91 BLHS năm 2015 bổ sung nguyên tắc:“Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi (khoản 1, Điều 91). Đây là nguyên tắc định hướng, nội dung của nguyên tắc này là đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, cá nhân, khi tiến hành một hoạt động liên quan đến việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cần bảo đảm rằng quyết định đó là tốt nhất cho trẻ em trong mối quan hệ hài hòa với các lợi ích khác cũng như bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật.

Như vậy mục đích của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là để giáo dục, giúp họ sửa chữa lỗi lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội chứ không đề cập trực tiếp đến mục đích trừng trị. Do đó ta cần hiểu rằng, đối với người chưa thành niên, nếu như hành vi mà họ thực hiện bị BLHS coi là tội phạm nhưng việc có đưa ra truy tố xét xử hay không là việc mà các cơ quan chức năng có thẩm quyền phải xem xét, cân nhắc và ngay trong giai đoạn này mục tiêu giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên cũng phải được đặt lên hàng đầu. Để thực hiện được nguyên tắc này, khi người chưa thành niên phạm tội các cơ quan tư pháp phải xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Việc làm này sẽ giúp người chưa thành niên phạm tội nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc về hành vi của mình có như vậy mới có thể giúp họ sửa chữa lỗi lầm và trở thành người có ích cho xã hội.

Thứ hai là điều kiện miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội thấp hơn so với người thành niên phạm tội.

Trên cơ sở kế thừa quy định tại khoản 2, Điều 69 của BLHS năm 1999 về miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên, khoản 2, Điều 91 của BLHS năm 2015 quy định người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp theo quy định của pháp luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục.

Theo đó, các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục gồm: người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại các điều: Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy). Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật tức là phạm tội rất nghiêm trọng thuộc một trong 28 tội danh mà BLHS năm 2015 quy định đối tượng này phải chịu trách nhiệm hình sự, trừ trường hợp quy định tại các điều: Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy). Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.

Như vậy, so với BLHS 1999, khoản 2, Điều 91 BLHS năm 2015 đã mở rộng đối tượng được miễn trách nhiệm hình sự đối với cả người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, quy định cụ thể điều kiện miễn trách nhiệm hình sự, đồng thời bổ sung quy định về việc áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với các em được miễn trách nhiệm hình sự nhằm bảo đảm tính khả thi cũng như hiệu quả áp dụng của chế định pháp lý này.

Thứ ba, việc truy cứu TNHS người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội thì tòa án áp dụng các biện pháp giám sát giáo dục và biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng được quy định tại mục 2 và mục 3, Chương XII của BLHS, gồm: Khiển trách (Điều 93), Hòa giải tại cộng đồng (Điều 94), Giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 95) và biện pháp tư pháp Giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 96).

Như vậy, có thể nói rằng việc truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với người thành niên phạm tội là biện pháp cuối cùng. Nguyên tắc thứ tư đối với người chưa thành niên phạm tội là nguyên tắc giảm nhẹ TNHS. Tính chất giảm nhẹ được thể hiện ở những quy định về loại và mức phạt  tù có thể áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.

Thứ năm“Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”;

Thứ sáu,“Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”.

Tử hình và tù chung thân là hai biện pháp nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt được quy định trong BLHS, người phạm tội chỉ bị áp dụng hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và khi khả năng giáo dục không còn nữa. Chính vì vậy đối với người chưa thành niên phạm tội, khi mục đích của việc truy cứu TNHS chủ yếu là nhằm giáo dục cải tạo họ, thì không thể áp dụng hai hình phạt này.
Nguyên tắc cuối cùng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Khoản 7 Điều 91 BLHS: “Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”.

2.1.2. Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội 

Trước đây Bộ luật hình sự 1999 chỉ quy định chung chung rằng người chưa thành niên phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự thì sẽ có gia đình hoặc cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục. Bộ luật hình sự 2015 bổ sung một số biện pháp giám sát, giáo dục đối với người chưa thành niên được miễn trách nhiệm hình sự là: biện pháp khiển trách (Điều 93), hòa giải tại cộng đồng (Điều 94) và giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 95). Đây là những quy định cụ thể nhằm đưa việc giáo dục, nâng cao nhận thức đối với người phạm tội đi vào thực tế và có hiệu quả.
Trên cơ sở quy định của BLHS, Bộ luật tố tụng hình sự năm (BLTTHS) 2015 cũng bổ sung các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại các Điều từ 426 đến 429 của bộ luật.

Ngoài ra, Bộ luật hình sự 2015 bỏ đi biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 (do đã có các biện pháp giám sát, giáo dục cụ thể nêu trên) và chỉ giữ lại 1 biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, đó là biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 96).

+ Biện pháp khiển trách (Điều 93 BLHS 2015)

Được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2, Điều 91 của BLHS 2015; người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.

Việc khiển trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi. Người bị khiển trách phải tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc; trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.

Tùy từng trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền ấn định thời gian thực hiện các nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3, Điều 93 BLHS 2015 từ 03 tháng đến 01 năm.

Biện pháp này nhằm giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm tội và hậu quả gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ.

+ Hòa giải tại cộng đồng (Điều 94 BLHS năm 2015)

Được áp dụng đối với  người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 điều 91 của BLHS 2015; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của BLHS.

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức việc hòa giải tại cộng đồng khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS.
Người được áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng phải xin lỗi người bị hại và bồi thường thiệt hại; tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc; trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.
Tùy trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền ấn định thời điểm xin lỗi, thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại quy định tại điểm a khoản 3 điều 94 BLHS 2015 và nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 điều 93 của BLHS 2015 từ 03 tháng đến 01 năm.

+ Giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 95 BLHS năm 2015)

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 01 năm đến 02 năm đối với  người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của BLHS; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của BLHS.

Người được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức giám sát, giáo dục phải chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về học tập, lao động; chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình, xã, phường, thị trấn; không đi khỏi nơi cư trú khi không được phép và thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 3 Điều 93 của BLHS 2015.

Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã chấp hành một phần hai thời hạn, có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, cơ quan đã áp dụng biện pháp này có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Việc áp dụng các biện pháp thay thế xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một trong những điểm mới nổi bật của BLHS 2015, thể hiện rõ chính sách nhân đạo của Nhà nước ta, tăng tính hướng thiện trong chính sách xử lý hình sự, nhất là đối với đối tượng cần bảo vệ đặc biệt là người chưa thành niên.

2.1.3. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 96 BLHS 2015)

Biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội nếu xét cần phải cách ly họ ra khỏi môi trường gia đình- xã hội để giáo dục và cải tạo họ thành công dân có ích.
Khi quyết định biện pháp tư pháp này, tòa án cần xem xét tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và môi trường sống của người đó. Thời hạn của biện pháp giáo dục trường giáo dưỡng là từ 1 năm đến 2 năm.

Trường giáo dưỡng là cơ sở giáo dục đặc biệt được Nhà nước thành lập để giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội hoặc có những vi phạm pháp luật khác. Tuy biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng bắt buộc người chưa thành niên phạm tội phải chịu sự quản lý chặt chẽ và phải cách li ra khỏi xã hội nhưng họ được học tập văn hóa và nghề nghiệp. Tại đây, họ được học tập, rèn luyện để trờ thành công dân tốt trong tương lai.

Nếu người được giáo dục tại trường giáo dưỡng đã chấp hành một phần hai thời hạn, có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của trường giáo dưỡng được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, Tòa án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 97 BLHS).

2.1.4. Hệ thống hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội 

Hệ thống hình phạt được quy định trong BLHS bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, căn cứ vào đặc điểm của người chưa thành niên, yêu cầu của việc phòng chống tội phạm, nguyên tắc nhân đạo XHCN, luật hình sự quy định các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội bao gồm:

1. Cảnh cáo.

2. Phạt tiền.

3. Cải tạo không giam giữ.

4. Tù có thời hạn.

+ Cảnh cáo: Cảnh cáo là hình phạt chính, có tính giáo dục sâu sắc, thể hiện sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với người phạm tội và hành vi phạm tội của họ. Cảnh cáo gây ra cho người bị kết án những tổn hại về tinh thần. Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cảnh cáo khi phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ.

+ Phạt tiền: Phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm tước đi quyền lợi vật chất của họ. Người chưa thành niên phạm tội bị phạt tiền khi có đủ hai điều kiện: Họ là người đã từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và có thu nhập hoặc tài sản riêng.

+ Cải tạo không giam giữ: Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý.

Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính có nội dung giáo dục sâu sắc không buộc người được áp dụng hình phạt này phải cách li khỏi xã hội. Họ vẫn có thể thực hiện công việc thường ngày và sống trong môi trường gia đình và xã hội như trước đây. Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ cần đáp ứng hai điều kiện sau: Hành vi phạm tội thuộc vào tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do vô ý hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý; Họ phải có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng.

+ Tù có thời hạn: Tù có thời hạn là hình phạt cách li người phạm tội ra khỏi xã hội để giáo dục, cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Đây là hình phạt có hiệu quả giáo dục và ngăn ngừa cao. Chính vì vậy loại hình này có thể áp dụng đối với mọi tội phạm được quy định trong luật hình sự Việt Nam. Tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc nhất có thể áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau:

Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.

2.2. Thực trạng tình hình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở nước ta 

Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm bảo đảm sự phát triển toàn diện của trẻ em và người chưa thành niên. Chính phủ, các Bộ, ban, ngành và chính quyền các cấp đã đề ra nhiều chương trình, kế hoạch cũng như áp dụng nhiều biện pháp để tăng cường bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật nói chung trong đó có vi phạm pháp luật của người chưa thành niên nói riêng. Tuy nhiên, tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội ở nước ta hiện nay vẫn có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Đặc biệt có một bộ phận thanh thiếu niên đã tham gia vào các băng nhóm tội phạm có tổ chức, phạm tội có sử dụng bạo lực với tính chất côn đồ hung hãn; thực hiện các hành vi giết người, cướp của, chống người thi hành công vụ, bảo kê, đâm thuê, chém mướn gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng, báo động về số trẻ em phạm tội đang “gia tăng và trẻ hóa” thực sự trở thành mối lo ngại với con số trung bình 10.000 vụ tội phạm hình sự do trên 15.000 trẻ em gây ra trên toàn quốc mỗi năm [3]. Các vụ án, có người chưa thành niên phạm tội tham gia có xu hướng tăng nhanh cả ở cấp huyện và cấp tỉnh. Nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng, do các bị cáo đang ở độ tuổi chưa thành niên một mình hay cùng đồng bọn cũng là những người chưa thành niên gây ra như vụ án Đào Thị Thu Hương (tức My sói) sinh năm 1996 ở quận Hoàng Mai, Hà Nội và đồng bọn về tội “hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và cướp tài sản” hay vụ án Lê Văn Luyện phạm tội “Giết người” xảy ra tại tiệm vàng Ngọc Bích ngày 20/8/2011.

Tuy ở độ tuổi còn rất trẻ, song hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm và quyết liệt, có sự chuẩn bị về công cụ, phương tiện với thủ đoạn tinh vi, xuống tay sát hại người khác một cách hết sức dã man. Do vậy, hậu quả để lại là rất nặng nề, gây bức xúc trong nhân dân và gây dư luận xấu trong xã hội.

3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội

3.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội

3.1.1. Về xác định độ tuổi của người chưa thành niên phạm tội

Theo qui định tại Điều 12 BLHS năm 2015, tuổi chịu TNHS là tuổi tính tròn. Nhưng vấn đề đặt ra là đột tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hay 16 tuổi đó được tính từ thời điểm nào? Trường hợp chúng ta có đủ điều kiện xác định chính xác ngày tháng năm sinh (thông thường qua giấy khai sinh) thì việc tính tuổi không có điều gì cần bàn. Nhưng thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay cho thấy, có rất nhiều trường hợp không có căn cứ xác định chính xác ngày sinh, tháng sinh thậm chí cả năm sinh của người chưa thành niên có hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Giải quyết những tình trạng này, nghị quyết số 02 ngày 5-1-1986 của HĐTP TANDTC đã khẳng định: “Trong trường hợp không có điều kiện xác định chính xác ngày sinh thì tính ngày sinh theo ngày cuối cùng của tháng, và nếu cũng không có điều kiện xác định chính xác tháng sinh thì xác định là ngày cuối cùng của năm sinh”. 

Có thể nói việc đưa ra cách tính tuổi nêu trên hoàn toàn là sự áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo. Quán triệt nguyên tắc này tại Công văn số 81 ngày 10 tháng 6 năm 2002, TANDTC lại một lần nữa cụ thể hóa cách xác định tuổi trong từng trường hợp cụ thể. Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng không xác định được ngày nào trong tháng đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo. Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được cụ thể ngày nào, tháng nào của quí đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của quí đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo. Nếu xác định được cụ thể nửa năm đầu hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hay nửa cuối năm thì lấy ngày 30 tháng 6 hay 31 tháng 12 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo bị cáo. Tuy vậy, các văn bản hướng dẫn này mới chỉ nêu ra cách xác định mốc thời gian để tính tuổi chịu TNHS khi không có đủ điều kiện xác định được chính xác ngày sinh hoặc tháng sinh, quí sinh mà chưa đề cập đến trường hợp có sự tranh chấp chính năm sinh của người chưa thành niên phạm tội.

Thông thường đối với trường hợp này, người ta thường căn cứ vào kết quả giám định. Theo các cơ quan giám định Việt Nam thì đa số các trường hợp có thể xác định chính xác năm sinh, những trường hợp phức tạp thì xác định trong khoảng thời gian và độ sai số từ 1 đến 2 năm. Còn việc giám định để xác định tháng sinh, có trường hợp cho kết quả chính xác tới tháng, nhưng đa số trường hợp chỉ xác định trong một khoảng thời gian nhất định với mức sai số từ 3 đến 6 tháng. Như vậy việc xác định tuổi chịu TNHS trong trường hợp căn cứ vào kết quả giám định với mức sai số như trên chưa được pháp luật qui định. Trong những trường hợp như vậy, việc vận dụng để giải quyết thường chỉ mang tính tùy nghi. Do vậy, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể trường hợp không xác định được chính xác năm sinh mà phải căn cứ vào kết quả giám định theo hướng việc xác định đó dựa trên nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo.

3.1.2. Vấn đề áp dụng hình phạt

Trong một số hình phạt không tước tự do áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội chưa thực sự phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, cũng như nhu cầu giáo dục của đối tượng này. Hình phạt cảnh cáo (khoản 1, Điều 98 BLHS) là một ví dụ. Hình phạt này thể hiện sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với người phạm tội. Khi hội đồng xét xử tuyên án xong, cũng có nghĩa rằng hình phạt được thi hành xong. Vì không có cơ chế theo dõi, hỗ trợ người chưa thành niên phạm tội thực sự nhận thức được lỗi lầm mình gây ra, cho nên không phải lúc nào hình phạt cảnh cáo cũng phát huy hiệu quả. Hay như hình phạt tiền (Khoản 2, Điều 98 BLHS) cũng là vấn đề phải suy nghĩ. Hình phạt này đánh vào lợi ích vật chất của người phạm tội. Thế nhưng phần lớn người chưa thành niên phạm tội đều không có tài sản và chưa nhận thức đầy đủ giá trị đồng tiền. Do vậy, áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên là không hợp lý.

Ở khía cạnh khác, một số tội phạm và ranh giới giữa tội phạm và vi phạm hành chính (bảo kê mại dâm, môi giới mại dâm người chưa thành niên…) chưa rõ ràng. Ngoài ra, BLHS chưa quy định một tội danh riêng, cụ thể về sản xuất, tàng trữ, lưu hành những văn hoá phẩm có sử dụng hình ảnh người chưa thành niên để khiêu dâm, mà chỉ có một tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147) và tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 146). Do vậy, cần thiết kế một điều luật riêng về hành vi sản xuất, tàng trữ, lưu hành những văn hóa phẩm có sử dụng hình ảnh người chưa thành niên để khiêu dâm vào BLHS 2015.

3.1.3. Các biện pháp bảo vệ người chưa thành niên trong quá trình tham gia tố tụng

Mặc dù BLHS 2015 dành hẳn một chương quy định về người chưa thành niên phạm tội, nhưng nhìn chung chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu hỗ trợ và bảo vệ người chưa thành niên người chưa thành niên. Khi người chưa thành niên tham gia tố tụng với tư cách bị can, bị cáo, bị hại… dù ở giai đoạn điều tra, truy tố hay xét xử chưa được quan tâm đúng mức. Vấn đề bảo vệ bí mật đời tư của người chưa thành niên, đặc biệt là người chưa thành niên là nạn nhân trong các vụ án hình sự chưa được quy định đầy đủ, gây tổn thương cho các người chưa thành niên trong quá trình tố tụng. Do vậy, cần một cơ chế để giúp cho việc bảo vệ người chưa thành niên tốt hơn khi tham gia vào các hoạt động tố tụng.

3.1.4. Vấn đề khi xét xử người chưa thành niên phải có đại diện  gia đình 

Đây vấn đề đang rất vướng mắc hiện nay, Tại mục 16 phần II Công văn 81/2002/TANDTC ngày 10-6-2002 của TANDTC có hướng dẫn “…Trong trường hợp không xác minh được lý lịch của bị cáo thì tại phiên tòa xét xử không nhất thiết phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo, đại diện của nhà trường  hoặc tổ chức xã hội…”.
Công văn trên chỉ hướng dẫn trong trường hợp không xác định được lí lịch của bị cáo, còn trong trường hợp xác định được lí lịch của bị cáo, nhưng gia đình bị cáo ở quá xa, không thể gửi giấy triệu tập được thì sẽ giải quyết thế nào? Thực tế, có những vụ án cơ quan chức năng không thể triệu tập được bất cứ người đại diện gia đình nào vì họ ở quá xa. Hồ sơ chuyển sang Tòa án, Tòa án cũng không triệu tập được. Trong những trường hợp này, Toà án thường gửi giấy triệu tập thông qua bưu điện (vì không có điều kiện đi trực tiếp). Đến ngày xử không có mặt của đại diện gia đình, nên phải hoãn phiên tòa. Có nhiều vụ án phải hoãn phiên tòa nhiều lần mới xét xử được.

Những trường hợp cán bộ Tòa án trực tiếp đi đến tận nơi để gửi giấy triệu
tập, thì tốn rất nhiều thời gian và chi phí. Trong trường hợp Toàn án không thể đi đến tận nơi trực tiếp được, thì Tòa án thường vận dụng linh hoạt bằng cách yêu cầu Đoàn thanh niên cử người tham gia tố tụng đại diện cho gia đình bị cáo và Tòa án tiến hành xét xử luôn. Nhưng việc Đoàn thanh niên tham gia như trên là không đúng với qui định của BLTTHS, bởi lẽ Đoàn thanh niên chỉ tham gia khi không có đại diện của gia đình bị cáo, chứ không tham gia trong trường hợp có đại diện của gia đình bị cáo là có, nhưng không thể triệu tập họ được.

3.1.5. Về hiểu biết và đánh giá tâm lý người chưa thành niên của Hội đồng xét xử: 

Đây là vấn đề thuộc về trình độ, kỹ năng của Hội đồng xét xử, bởi vì mỗi cá nhân người chưa thành niên, có môi trường sống hoàn toàn khác nhau. Cách nhìn nhận của họ về cuộc sống, về xã hội là khác nhau. Điều quan trọng là Hội đồng xét xử phải thấu hiểu và có cái nhìn đúng về mỗi cá nhân là người chưa thành niên phạm tội, để đánh giá chứng cứ và xác định hình phạt cho chính xác. Hiện nay, trong ngành Tòa án và các tổ chức giáo dục chưa có những lớp tập huấn riêng về tâm lý người chưa thành niên, nên việc hiểu tâm lý để đánh giá ý thức phạm tội của người chưa thành niên chưa sâu. Vì vậy, cần mở nhiều lớp tập huấn bài bản, một cách chuyên nghiệp về tâm lý người chưa thành niên trong ngành Tòa án, tại các trường Đại học, cơ quan chức năng và trong tổ chức Đoàn thanh niên.

3.1.6. Về việc áp dụng qui định của pháp luật về miễn TNHS và án treo 

Trên thực tế, rất ít (hầu như không có) áp dụng chế định miễn TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội khi xét xử. Về vấn đề áp dụng chế định án treo cũng không có ưu tiên nào cho người chưa thành niên. Điều 65 BLHS qui định về án treo, Điều 91 BLHS qui định về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và hướng dẫn tại Mục 6 Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn về việc áp dụng chế định án treo, cũng không có qui định nào về việc ưu tiên áp dụng án treo đối với người chưa thành niên.

Về việc giao người chưa thành niên cho cơ quan nào để giám sát, giáo dục trong trường hợp họ được hưởng án treo cũng gặp nhiều vướng mắc. Khoản 2, Điều 65 BLHS qui định: “Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó”.

Trên thực tế trong nhiều trường hợp, cha, mẹ người chưa thành niên không sống cùng địa chỉ và có nhiều người chưa thành niên có tên trong hộ khẩu của cha (hoặc mẹ), nhưng lại thường sống chung với người kia nên việc giao giám sát, giáo dục cũng còn áp dụng khác nhau. Vì vậy, TANDTC cần ban hành những qui định cụ thể cho việc áp dụng chế định án treo cho người chưa thành niên.

3.1.7. Về việc bồi thường thiệt hại và xác định trách nhiệm bồi thường

Điều 588 BLDS 2015 qui định:

1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật dân sự 2015.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.

Luật chỉ qui định người chưa thành niên chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường. Như vậy, trường hợp bị cáo chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà không còn cha, mẹ đồng thời, họ cũng không có người giám hộ, thì ai phải bồi thường? Giả sử, người chưa thành niên đó có tài sản, thì có được phép lấy tài sản của người chưa thành niên bồi thường hay không? Luật chỉ qui định trường hợp người chưa thành niên dưới 15 tuổi còn cha, mẹ mà tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường và trong trường hợp người dưới 15 tuổi có tài sản, thì mới được lấy tài sản của ngưới dưới 15 tuổi để bồi thường, chứ luật không qui định người dưới 15 tuổi có tài sản nhưng không còn cha mẹ, không có người giám hộ thì lấy tài sản của người dưới 15 tuổi để bồi thường.

Mặt khác, trong trường hợp bị cáo chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại, nhưng không còn cha me và cũng không có người giám hộ, đồng thời, họ cũng không có tài sản để bồi thường, thì vấn đề bồi thường sẽ giải quyết như thế nào? Những vấn đề trên, luật không qui định nên việc áp dụng còn nhiều vướng mắc. Luật nên qui định rõ ràng trách nhiệm bồi thường là của bị cáo chưa đủ 15 tuổi trong trường hợp bị cáo không còn cha, mẹ, không có người giám hộ. Nếu bị cáo có tài sản, thì lấy tài sản của bị cáo bồi thường ngay. Nếu bị cáo không có tài sản, thì Tòa án vẫn tuyên trách nhiệm dân sự là buộc bị cáo bồi thường, chờ đến khi nào bị cáo có tài sản sẽ thực hiện nghĩa vụ thi hành bản án đã tuyên. Có như vậy, việc giải quyết mới dứt điểm và đầy đủ.

3.2. Một số giải pháp nhằm giảm việc vi phạm pháp luật hình sự của người chưa thành niên 

Từ thực trạng tình hình vi phạm pháp luật của người chưa thành niên có nhiều nguyên nhân, nguyên nhân từ phía gia đình, nguyên nhân từ nhà trường, xã hội, nguyên nhân từ phía cơ quan bảo vệ pháp luật và nguyên nhân từ chính người chưa thành niên phạm tội…Trước tình trạng người chưa thành niên phạm tội đang có chiều hướng gia tăng như hiện nay, thiết nghĩ, để làm giảm việc vi phạm pháp luật hình sự của người chưa thành niên thì cần có sự chung tay vào cuộc của toàn thể công đồng, xã hội nhằm giúp cho các em có được một môi trường giáo dục, sinh hoạt lành mạnh, tránh xa các cạm bẫy,…từ đó có cơ hội để phát triển đầy đủ cả về vật chất và tinh thần, trở thành một công dân tốt, có ích cho xã hội. Một số giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, tuyên truyền pháp luật sâu rộng đến mọi người dân đặc biệt là tầng lớp học sinh, sinh viên. Thường xuyên phát động các phong trào như tìm hiểu pháp luật, tọa đàm, giải thích pháp luật… nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của các em đối với pháp luật, giáo dục ý thức “thượng tôn pháp luật”.

Thứ hai, Tăng cường quản lý chặt chẽ các lĩnh vực nhạy cảm như văn hóa, công nghệ thông tin (Internet)… Có chính sách ưu tiên dạy nghề, tạo công ăn việc làm cho những người chưa thành niên lang thang, không gia đình để khi bước vào đời họ có một nghề tự nuôi sống bản thân. Nhà nước cần đầu tư thêm nhiều khu vui chơi cho cộng đồng trong đó có người chưa thành niên như công viên, các câu lạc bộ…

Thứ ba, nâng cao giá trị đạo đức trong giáo dục, giảng dạy, kết hợp hài hòa quan hệ giữa nhà trường – gia đình, giữa thầy – trò để các học sinh, sinh viên hiểu biết hơn nữa về truyền thống “tôn sư trọng đạo”, “tiên học lễ, hậu học văn”… đây là một trong những cách để phòng ngừa tội phạm có hiệu quả nhất; Mỗi giáo viên, mỗi học sinh, sinh viên là một tấm gương điển hình về chấp hành pháp luật, là một gương tốt cho mọi người noi theo.

Thứ tư, hàng năm, các cơ quan tố tụng nên tổng hợp, có báo cáo về tình hình người chưa thành niên phạm tội, tìm ra được những nguyên nhân, thiếu sót, yếu kém, hạn chế từ khâu nào, từ đơn vị nào trong việc quản lý, giáo dục. Từ đó, đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm để cơ quan chức năng khắc phục và có những chương trình phù hợp.

Thứ năm, cần xây dựng một đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân chuyên trách, được đào tạo có hệ thống, được trang bị những kiến thức về tâm lý học, về khoa học giáo dục để có thái độ đúng mực khi tiến hành các hoạt động tố tụng đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của người chưa thành niên.

Người chưa thành niên chính là tương lai của đất nước, xuất phát từ chính sách nhân đạo của Nhà nước ta trong đường lối xử lý trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội là nhằm cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ, tạo điều kiện cho họ để trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội. Do vậy, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là vấn đề vừa mang tính pháp lý vừa mang tính nhân văn sâu. Trong công tác xét xử người chưa thành niên phạm tội đòi hỏi các cơ quan tư pháp, nhất là Tòa án phải cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng trước khi quyết định áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, nhằm đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, nhưng cũng thể hiện rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Bên cạnh đó, cần quan tâm chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp chuyên trách tiến hành tố tụng, có kiến thức chuyên sâu về tâm lý người chưa thành niên, cũng như các kỹ năng làm việc phù hợp với người chưa thành niên là hết sức cần thiết.

 

Hồ Quân – Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 4 / Cổng thông tin điện tử Bộ tư pháp

 

[1] Lê Văn Cảm, Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005];

[2] Đào Trí Úc (1993), Mô hình lý luận về Bộ luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr41.]…

[3] http://congly.vn/

 


Các tìm kiếm liên quan đến trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên cơ sở pháp lý thực trạng giải pháp, luận văn người chưa thành niên phạm tội, người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự 2015, chính sách hình sự đối với người chưa thành niên, đề tài người chưa thành niên phạm tội, quy định về người chưa thành niên phạm tội, xử lý hình sự đối với người chưa thành niên, xử lý người chưa thành niên phạm tội, biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

đánh giá bài viết

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền