Tình huống không trực tiếp trộm cắp tài sản nhưng vẫn là đồng phạm

Tổng hợp các bài tập tình huống luật hình sự

Tổng hợp những bài tập tình huống không trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhưng vẫn là đồng phạm.

A, B và C bàn nhau trộm cắp tài sản của nhà ông H. Theo sự phân công của nhóm, C mang theo một thanh sắt để cạy phá cửa. Chúng hẹn nhau 10 giờ đêm tập kết ở địa điểm X. Đến giờ hẹn, C đem thanh sắt đến địa điểm X như đã thỏa thuận nhưng chờ mãi không thấy A và B đến nên bỏ về nhà ngủ. A và B đến chỗ hẹn quá muộn nên không gặp được C, nhưng vẫn quyết định đi lấy tài sản theo kế hoạch và đã lấy được tài sản giá trị 80 triệu đồng. Do không đi lấy tài sản nên C chỉ được A và B chia cho 5 triệu đồng, C chê ít không lấy và cũng không nói gì về vụ trộm với bất cứ ai. Sau một tháng vụ việc bị phát hiện.

CÂU HỎI:

1. A, B và C có phải là đồng phạm trong vụ trộm cắp tài sản nói trên không? Tại sao? (2 điểm)

2. Hành vi của C có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không? Tại sao? (1 điểm)

3. Sau khi lấy được tài sản của nhà ông H, A và B đã mang số tài sản đó bán cho K và K đã mua lại số tài sản này. Vậy, K có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao? (2 điểm)

4. Giả sử A, B và C mới tròn 15 tuổi thì A, B và C có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao? (2 điểm)

BÀI LÀM:

1. A, B và C có phải là đồng phạm trong vụ trộm cắp tài sản nói trên không? Tại sao?

Trả lời : A,B và C là đồng phạm trong vụ trộm cắp tài sản trên.

Giải thích :

Theo điều 20, BLHS : “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cùng thực hiện một tội phạm.”

Về mặt khách quan, đồng phạm đòi hỏi có 2 dấu hiệu:

– Có từ 2 người trở lên:

Yếu tố chủ thể tham gia thực hiện tội phạm là cơ sở quyết định tính chất của đồng phạm. Chủ thể trong trường hợp này buộc có từ 2 người trở lên và những người này có đủ điều kiện của chủ thể tội phạm đó là: có năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS. Trong tình huống trên: “ A, B và C bàn nhau trộm cắp tài sản của nhà ông H » tức là ở đây đã có 3 người đó là A, B và C và họ đã có hành vi « bàn nhau » lên kế hoạch trộm cắp tài sản nhà ông H thì họ đã nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi trộm cắp tài sản nhà ông H là thiệt hại về tàn sản của ông H. Đề bài không đề cập gì thêm, tức là A,B, C có khả năng điều khiển được hành vi của mình. Vì vậy, A,B,C đều có năng lực trách nhiệm hình sự.

– Cùng thực hiện tội phạm một cách cố ý: nghĩa là người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một trong 4 hành vi sau: Hành vi thực hiện tội phạm,
hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm và hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm. Lúc đầu cả A, B, C đã bàn bạc, thỏa thuận và thống nhất với nhau cùng thực hiện hoạt động: trộm cắp tài sản của nhà ông H. Thêm vào đó thì C đã còn được phân công mang theo một thanh sắt để cạy phá cửa, mặc dù C không trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cùng với A và B nhưng việc C đã đồng ý và có hành vi mang thanh sắt như thỏa thuận đến điểm hẹn X thể hiện mục đích muốn góp phần thực hiện tội phạm.Việc chuẩn bị công cụ phương tiện, lựa chọn phương thức phạm tội ( tìm kiếm, chuẩn bị phạm tội, phân công nhau..) của A, B và C có sự thông mưu trước dẫn đến sự phối hợp của những người này này có tính toán kỹ hơn, sự chuẩn bị chu đáo hơn đưa lại hậu quả lớn hơn, cho xã hội cao hơn.

Về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi nhưng người cùng thực hiện tội phạm đều có lỗi cố ý. Trong một số trường hợp thì đồng phạm còn đòi hỏi dấu hiệu cùng mục đích nên mục đích là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP.

– Lỗi:

Về lý trí: nhận thức được hành vi của mình và người khác là gây nguy hiểm cho xã hội và thấy trước được hậu quả nguy hiểm đó.

Về ý chí: những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và cùng mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh.

Ở đây, A, B và C đều nhận thức được hành vi của họ gây nguy hiểm cho xã hội và thấy trước được những hậu quả, tuy vậy 3 người trên đều mong muốn hậu quả xảy ra và họ mong muốn lấy cắp được tài sản như đã định. C nhận thức được rằng hành động chuẩn bị mang 1 thanh sắt để tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm trộm cắp tài sản của ông H và mong muốn hậu quả xảy ra. Việc dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội này do những nguyên nhân ngoài ý muốn của C: A, B đến điểm hẹn quá muộn, C không thấy A, B nên đã bỏ về nhà ngủ nhưng bản thân C luôn mong muốn sự chuẩn bị này sẽ được dùng vào việc thực hiện tội phạm. Ta cũng có thể thấy rõ được động cơ và mục đích của A, B và C một cách rõ ràng nên có thể khẳng định rằng: A, B và C là đồng phạm trong vụ trộm cắp tài sản nói trên.

2. Hành vi của C có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không? Tại sao? (1 điểm)

Trả lời: Hành vi của C không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội.

Giải thích:

Điều 19 BLHS quy định “ Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.

Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.”

Theo quy định này thì hafnh vi được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải thỏa mãn những dấu hiệu sau:

– Đầu tiên là về mặt thời điểm phạm tội, tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội chỉ xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.

Trong tình huống này ta thấy C đã đem thanh sắt đến địa điểm X để chuẩn bị cậy cửa nhà ông H, nhưng vì A và B trễ hẹn nên C đã bỏ về nhà ngủ, do vậy C không thực hiện hết các hành vi để trộm cắp như kế hoạch mà cả ba đã định ra, nên giai đoạn phạm tội của C là chuẩn bị phạm tội. Bởi lẽ, C mới chỉ sửa soạn, chuẩn bị phương tiện phạm tội là thanh sắt dùng để cạy cửa và mang tới địa điểm X, thời điểm C “bỏ về” là thời điểm trước lúc C bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm. Như vậy, hành vi của C thoả mãn dấu hiệu thứ nhất.

– Về tâm lý, việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải là tự nguyện và dứt khoát. Tự nguyện là do bên trong thúc đẩy, do ý thức chủ quan của người đó, không phải do những nguyên nhân khách quan chi phối. Khi dừng lại, người phạm tội vẫn tin rằng, hiện tại không có gì ngăn cản và vẫn có thể thực hiện được tội phạm. Sự dứt khoát là phải chấm dứt hành vi một cách triệt để, không còn ý định tiếp tục thực hiện nữa. Xét về yếu tố tự nguyện thì tự nguyện phải xuất phát từ ý thức chủ quan của bản thân C. Nhưng ở đây C dừng hành vi phạm tội của mình là do đợi không thấy A và B nên bỏ về. Việc “chờ mãi không thấy A và B đến nên bỏ về” tức là nếu A và B đến đúng giờ thì giữa thỏa thuận giữa chúng vẫn được thực hiện, chúng vẫn tiếp tục thực hiện tội phạm, đồng nghĩa với việc C vẫn mong muốn cho hành vi phạm tội được diễn ra. Hơn nữa, C biết là hành vi của A và B có gây nguy hiểm cho xã hội nhưng C đã không ngăn cản hay tố giác hành vi đó và để mặc hậu quả xảy ra. Vì vậy, hành vi của C không phải là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.

3. Sau khi lấy được tài sản của nhà ông H, A và B đã mang số tài sản đó bán cho K và K đã mua lại số tài sản này. Vậy, K có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao? (2 điểm)

Trả lời :

Trường hợp 1: Ông K mua lại số tài sản của A, B mà không biết số tài sản mua được là từ hành vi trộm cắp mà có thì không phải chịu TNHS do:

Thứ nhất, xét về nguyên tắc lỗi trong mặt chủ quan của tội phạm trong bộ luật hình sự. Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Mà lỗi là dấu hiệu không thể thiếu trong bất cứ CTTP nào. Điều 27 BLHS quy định “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới…”. Như vậy, một người không có lỗi thì không cần thiết phải giáo dục để nhận ra lỗi lầm vì sự thực là họ không có lỗi để nhận ra. Một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà không có lỗi thì sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

Thứ hai, nếu ta liên hệ mở rộng thì K rơi vào tình huống được quy định trong điều 189 BLDS “…Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.”. Nhưng bên cạnh đó cũng có thể có thêm một trường hợp xảy ra đó là tài sản mà A và B bán cho ông K là động sản phải đăng kí quyền sở hữu. Vậy thì dù có thỏa thuận, hứa hẹn trước hay không thì ông K cũng buộc phải biết được tài sản này là do A và B đi ăn trộm mà có được. Tuy nhiên, trong đề bài chỉ nêu chung chung là tài sản chứ không nêu rõ là loại nào nên nhóm em coi rằng tài sản ông K mua của A và B là động sản không phải đăng ký sở hữu theo BLDS.

Trường hợp 2: Ông K mua lại số tài sản của A, B mà biết số tài sản mua được là từ hành vi trộm cắp mà có thì phải chịu TNHS do:

Hành vi của K thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Điều 250-BLHS quy định : “1.Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”

Đó là các dấu hiệu về khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm. Cụ thể:

– Khách thể của tội phạm: Hành vi tiêu thụ tài sản của K trực tiếp xâm phạm an toàn công cộng, ngoài ra hành vi này còn cản trở hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc điều tra, xử lí người phạm tội, gián tiếp người khác phàm tội nhiều lần.

– Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Ở đây, K biết rõ tài sản có được do thực hiện hành vi phạm pháp nhưng vẫn tiêu thụ .

– Chủ thể của tội phạm: Do đề bài không đề cập đến tuổi và năng lực trách nhiệm của K nên nhóm xin mặc định cho K là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Vì nếu là người chưa đủ năng lực trách ngiệm hình sự và dưới 16 tuổi thì rất khó có thể thực hiện được hành vi này.

– Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tài sản do người khác phạm tội mà có được hiểu là tài sản đang được một người chiếm hữu không hợp pháp và tài sản đó là đối tượng của tôi phạm mà họ đã thực hiện trước đó. Hành vi tiêu thụ tài sản được hiểu là những hành vi có tính chất làm “ dịch chuyển” tài sản từ người có tài sản do phạm tội sang người khác như hành vi mua tài sản đó, tạo điều kiện để bán trao đổi tài sản .

Trong quy định về tội, điều luột khôn xác định chứa chấp, tiêu thụ tài sản có giá trị bao nhiêu mà quy định “ ….. chứ chấp, tiêu thụ tài sản mà biết do người khác phạm tội mà có….” . Qua quy định này có thể hiểu chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ( trừ đối tượng hàng cấm) luôn cấu thành tội phạm mà không phụ thuộc vao mức đội. Cụ thể trong tình huống này K có hành vi mua lại tài sản của A và B do hành vi trộm cắp mà có.

Như vậy , từ sự phân tích trên ta có thể thấy hành vi mua lại tài sản của A và B trộm cắp được từ nhà ông H của K đã đủ các dấu hiệu cấu thành tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có quy định tại Điều 250- BLHS.

4. Giả sử A, B và C mới tròn 15 tuổi thì A, B và C có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao? (2 điểm)

Trả lời: Nếu theo đề bài cho là A,B và C mới tròn 15 tuổi thì A,B và C sẽ không phải chịu TNHS về hành vi của mình.

Chứng minh:

TNHS là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình.

Theo đề bài cho thì A và B đã lấy được tài sản trị giá 80 triệu đồng.Trường hợp này đã phạm tội trộm cắp tài sản theo điểm e khoản 2 Điều 138 BLHS:

“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.”

Vì A và B đã “ lấy được tài sản có giá trị 80 triệu đồng” nên sẽ phạm tội thuộc điểm e khoản 2 Điều 138 BLHS. Mức phạt tù cao nhất đối với khoản này là “đến bảy năm tù” nên trường hợp này thuộc trường hợp phạm tội nghiêm trọng.

Theo Khoản 3 Điều 8 BLHS quy định: “tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất là của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”

Điều luật căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Theo điều 12 BLHS quy định tuổi chịu TNHS :

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

2 .Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Đề bài cho độ tuổi của A, B và C “mới tròn 15 tuổi” nên sẽ thuộc khoản 2 Điều 12 BLHS thì sẽ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội đặc biệt nghiêm trọng. Như đã phân tích ở trên thì A, B và C chỉ phạm tội nghiêm trọng ( “Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù”- theo khoản 3 Điều 8 BLHS). Đới chiếu với Khoản 2 Điều 12 BLHS : “2.Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.” thì A, B và C sẽ khôm phạm tội vì tội phạm mà họ thực hiện là tội nghiêm trọng, nên nếu theo giả thiết cả đề bài cho là tuổi của A, B và C thì họ không phải chịu TNHS về hành vi của mình. Trong trường hợp này có thể bị xử lý hành chính và bố mẹ hoặc người giám hộ của A, B và C sẽ chịu trách nhiệm phải trả lại tài sản cho ông H, nếu không trả được lại tài sản thì phải trả số tiền tương ứng và những yêu cầu khác nếu ông H yêu cầu.

5/5 - (2 bình chọn)

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền