Quyền và nghĩa vụ giải thích luật của Tòa án – từ góc nhìn luật so sánh và trong bối cảnh áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015.
Các nội dung liên quan:
- Giải thích pháp luật ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp
- Vì sao nên để tòa án giải thích luật?
Tóm tắt: Giải thích luật là việc sử dụng các công cụ phân tích thích hợp để tìm hiểu và làm sáng tỏ nội dung của một quy định trong văn bản luật, nhằm tạo điều kiện cho việc áp dụng quy định ấy trong thực tiễn một cách hợp lý. Việc giải thích luật là cần thiết trong điều kiện luật có những khuyết tật cố hữu và không phải trong trường hợp nào cũng có thể được áp dụng bằng cách chỉ dựa vào ngôn từ được dùng để diễn đạt quy định. Với tư cách là người được giao nhiệm vụ xử lý các vụ, việc theo quy định của luật, thẩm phán đưa ra phán quyết xử lý nhân danh Nhà nước trên cơ sở áp dụng luật và không có quyền từ chối xét xử với lý do không có luật. Bởi vậy, thẩm phán có quyền và nghĩa vụ giải thích luật. Trong bối cảnh áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền và nghĩa vụ giải thích luật của thẩm phán có những đặc điểm đáng chú ý.
Từ khoá: Giải thích luật, Tiền lệ, Án lệ.
Abstract: Interpretation of law might be defined as the use of appropriate scientific analysis instruments to study and clarify the content of legal provision in order to facilitate its reasonable application. The interpretation of law is indispensable owing to the fact that law has inevitable defects as well as it is not literally applicable in all cases. In his capacity as the person entrusted by law to conduct a trial, the judge is obliged to say what to do in the case in accordance with law and must not refuse to say under the pretext of silence of law. By way of consequence, the judge has the right and the obligation as well to interpret law.
Keywords: Interpretation of law, Precedent, Caselaw.
Giải thích luật từ góc nhìn luật học so sánh.
Giải thích luật, theo quan niệm được chấp nhận trong khoa học luật, là việc sử dụng các công cụ phân tích thích hợp để tác động vào một quy định của văn bản luật, nhằm làm sáng tỏ nội dung của quy định ấy, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng quy định trong thực tiễn.
Vấn đề giải thích luật được đặt ra, như là một vấn đề quan trọng về phương diện hoàn thiện hệ thống các nguồn luật, trong bối cảnh thực tiễn pháp lý đặc trưng bởi hai yếu tố:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật được xây dựng với trụ cột lớn nhất là luật thành văn hay còn gọi là văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Nhà nghiên cứu, nhà thực hành, đặc biệt là thẩm phán Tòa án, không được trao chức năng tạo ra chuẩn mực ứng xử[1]. Yếu tố này có tác dụng lý giải tại sao vấn đề giải thích luật được đặt ra với sự quan tâm đặc biệt ở các nước chịu ảnh hưởng của văn hoá pháp lý Latinh so với các nước theo văn hoá pháp lý Anh – Mỹ. Ở các nước theo truyến thống luật Anh – Mỹ, luật thành văn cũng là một nguồn của luật, nhưng không giữ vai trò quan trọng như ở các nước theo văn hoá pháp lý Latinh. Tòa án tạo ra chuẩn mực trong quá trình xét xử gọi là precedent hoặc caselaw, mà giới luật gia Việt Nam thường dịch là án lệ[2]. Một trong những căn cứ để tạo ra án lệ là giải thích các quy định của luật thành văn; ngoài ra, thẩm phán có thể tự mình suy nghĩ, lập luận theo lẽ công bằng để đề ra giải pháp cho vấn đề cụ thể mà mình được yêu cầu giải quyết[3].
Thứ hai, Tòa án không có quyền từ chối xét xử với lý do không có luật. Thẩm phán được xác định là chỗ dựa tối hậu của xã hội, của chủ thể trong trường hợp xảy ra xung đột, tranh chấp cần được phân xử. Một khi được yêu cầu phân định đúng sai trong một vụ tranh chấp trong điều kiện mọi nỗ lực hoà giải đều đi vào bế tắc, thẩm phán có trách nhiệm nêu chính kiến của mình với tư cách là là người phán xử. Đưa ra phán quyết nhân danh công lý, thẩm phán có quyền, đồng thời có nghĩa vụ khẳng định cách giải quyết của mình đối với vấn đề đặt ra ngay cả trong trường hợp không có luật.
Giải thích luật trong luật Việt Nam.
Trong một thời kỳ dài, chức năng giải thích luật của thẩm phán ở Việt Nam không được thừa nhận. Điều này được cho là có nguồn gốc sâu xa từ nền tảng triết lý đặc thù của khái niệm quyền chủ thể, chứ không phải do áp dụng cơ học nguyên tắc phân quyền như ở Pháp trong thời kỳ đầu sau cuộc Cách mạng Tư sản[4]. Thay vì được tự do làm tất cả những gì pháp luật không cấm, chủ thể quan hệ pháp luật chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Quyền chủ thể là những quyền được pháp luật định danh và xác định điều kiện, thể thức thực hiện. Trong cuộc sống dân sự, người dân ứng xử, giao tiếp dưới sự giám sát của công quyền; các giao dịch giữa tư nhân liên quan đến tài sản, đặc biệt là tài sản có giá trị lớn phải được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có thể được thực hiện.
Từ tư tưởng chủ đạo đó, VBQPPL được nhìn nhận là nguồn chính thức của luật, thậm chí là nguồn chuẩn mực duy nhất chi phối đời sống xã hội và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của quyền lực công. Được trao chức năng xét xử nhân danh Nhà nước, thẩm phán chỉ có quyền dựa vào luật thành văn và phải áp dụng quy định của pháp luật theo đúng câu chữ, chứ không được phép tìm cách diễn giải theo ý riêng. Trong trường hợp gặp khó khăn trong việc giải quyết một vấn đề nào đó, đặc biệt là do luật không có quy định liên quan, thì Tòa án cấp dưới xin ý kiến của Tòa án cấp trên; nếu toà cấp trên có thẩm quyền cũng không xác định được căn cứ pháp lý trong luật viết để giải quyết vấn đề, thì Tòa án có trách nhiệm (và có quyền) từ chối xét xử[5].
Quá trình đổi mới và hội nhập của đất nước đồng thời cũng là quá trình điều chỉnh quan niệm về quyền chủ thể theo hướng tiệm cận với quan niệm chung được thừa nhận ở các nền dân chủ. Dần dần, quyền chủ thể được hiểu là sự thể hiện quyền tự do của công dân, đã được hiến định, trong cuộc sống dân sự và trong một xã hội có tổ chức. Việc ban hành Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đánh dấu bước ngoặt trong quá trình chuyển biến về nhận thức của người làm luật về cơ sở triết học của quyền chủ thể, được nhận biết trong BLDS dưới tên gọi quyền dân sự.
Tư tưởng chủ đạo của pháp luật dân sự là cá nhân, pháp nhân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm (BLDS Điều 3 khoản 2). Sự cấm đoán của pháp luật, về phần mình, chỉ nhằm mục đích bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể khác (Điều 3 khoản 4) hạn chế. Mặt khác việc hạn chế quyền của cá nhân, pháp nhân phải được luật quy định và chỉ được ghi nhận trong các trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ của cộng đồng (Điều 2 khoản 2).
Trong quan hệ dân sự, để bảo đảm sự tôn trọng đối với quyền tự do của cá nhân, pháp nhân, đặc biệt trong trường hợp có tranh chấp, xung đột, việc đánh giá chất lượng hành vi của chủ thể dưới ánh sáng của luật để xem liệu hành vi đó có bị cấm, bị hạn chế phải được thực hiện một cách thận trọng và nhất là phải có căn cứ khoa học, đạo lý.
Nói cách khác, thẩm phán từ nay không chỉ làm công việc đơn giản là áp dụng điều luật theo đúng câu chữ; trong trường hợp cần thiết, thẩm phán phải tìm hiểu nội hàm của quy định, thông qua hoạt động phân tích luật, để xác định liệu có thể sử dụng điều luật làm căn cứ xây dựng giải pháp cho vấn đề pháp lý liên quan. Trong trường hợp một điều luật có thể được hiểu theo nhiều cách, thì quan điểm của thẩm phán về cách hiểu điều luật thật sự là kết quả giải thích của thẩm phán đối với điều luật đó[6].
1. Ý nghĩa của việc giải thích luật của thẩm phán
1.1 Luật so sánh
Làm rõ, hoàn thiện và vận dụng luật thành văn. Trong điều kiện luật thành văn được cho là nguồn chủ đạo của luật, là căn cứ chủ yếu để xử lý các vấn đề pháp lý nảy sinh trong đời sống xã hội, thì việc giải thích luật của thẩm phán có thể được nhìn nhận là cách mà luật thành văn được vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể.
Theo học thuyết pháp lý của Pháp, kết quả giải thích luật của thẩm phán không chỉ đơn thuần là làm lộ ra ý nghĩa đích thực của điều luật viết. Trong nhiều trường hợp, thẩm phán đứng giữa và nghe đề xuất khác nhau của hai bên trong cuộc tranh chấp pháp lý (đúng hơn nữa là các luật sư của hai bên) về cách hiểu một điều luật. Việc thẩm phán thừa nhận một cách hiểu nào đó và dùng cách hiểu đó làm căn cứ giải quyết vấn đề đặt ra, về mặt kỹ thuật, được cho là kết quả phân tích điều luật từ một góc nhìn đặc thù. Về phương diện khoa học, kết quả đó mang một trong ba ý nghĩa: góp phần làm rõ và hoàn thiện luật thành văn trong tình trạng mập mờ hoặc thiếu sót; loại bỏ sự mâu thuẫn giữa các quy định của luật; vận dụng quy định của luật trong hoàn cảnh xã hội có thay đổi.
Tự do trong việc sử dụng phương pháp phân tích luật. Phương pháp phân tích được thẩm phán sử dụng phổ biến nhất được gọi là phân tích câu chữ hay phân tích chú giải (exegesis)[7]. Tư tưởng chủ đạo của phương pháp này là luật viết chứa đựng đầy đủ các quy tắc chi phối quan hệ xã hội trong mọi trường hợp. Bởi vậy, trong điều kiện câu chữ của luật có giới hạn, có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau trong trường hợp cần thiết để mổ xẻ, đi xuyên qua câu chữ của luật mà phát hiện các quy tắc người làm luật gửi gắm trong văn bản luật. Các công cụ phân tích theo phương pháp này rất đa dạng: biện luận tương tự (reasoning by analogy), suy lý nghịch (a contrario reasoning), suy lý mạnh (a fortiori reasoning), quy nạp và diễn dịch (reasoning by induction and deduction), dựa vào các nguyên tắc phổ quát (general principles), dựa vào các công trình thực hiện trong khuôn khổ biên soạn và hoàn thiện dự thảo văn bản luật (preparatory documents),…
Bên cạnh phương pháp phân tích câu chữ, phương pháp phân tích lịch sử cũng được sử dụng mỗi khi cần phân tích để vận dụng tinh thần của một điều luật đã được ban hành từ lâu vào hoàn cảnh mới có nhiều thay đổi. Ngoài ra, nếu cần, người Pháp dựa vào phương pháp gọi là tự do nghiên cứu khoa học (free scientific reasearch), cho phép vượt qua khuôn khổ chật hẹp của câu chữ của luật để tìm kiếm giải pháp. Việc lựa chọn phương pháp phân tích luật là việc của thẩm phán. Luật không xác định một thứ tự ưu tiên các phương pháp được sử dụng.
1.2 Luật Việt Nam
Tương đồng về các vấn đề liên quan đến chất lượng của luật. Trong chừng mực nào đó, quan niệm của người Pháp về ý nghĩa của kết quả giải thích luật cũng có thể được chấp nhận ở Việt Nam. Thực tiễn cho thấy những vấn đề liên quan đến việc áp dụng luật ở Việt Nam cũng tương tự như ở Pháp: luật có thể mập mờ, thiếu sót, mâu thuẫn,…
Tình trạng mập mờ của luật có nhiều nguyên nhân: do người làm luật bị cuốn theo dòng suy nghĩ đặc thù khi biên soạn và không chú ý đến việc tương tác để làm rõ ý của mình; do người làm luật quen với môi trường nghề nghiệp và sử dụng thuật ngữ theo thói quen; do người làm luật quen dùng ngôn từ địa phương khi giao tiếp[8];… Tình trạng thiếu sót của luật cũng có nhiều nguyên nhân nữa: do người làm luật bị hạn chế tầm nhìn, không dự kiến được tình huống đặc thù; do cuộc sống xã hội sau thời gian luật được áp dụng có nhiều biến chuyển và làm phát sinh tình huống, vấn đề mới;…
Tình trạng mâu thuẫn giữa các quy định của luật liên quan đến cùng một vấn đề thường là do thiếu sự kết hợp giữa các cơ quan đảm nhận công việc biên soạn luật, thậm chí giữa các nhóm công tác trong khuôn khổ một dự án luật[9]. Bên cạnh đó, là sự mâu thuẫn mang tính “kỹ thuật”, chẳng hạn mâu thuẫn giữa ngoại lệ và nguyên tắc, giữa luật chuyên ngành và luật chung.
Sử dụng phương pháp phân tích luật theo thứ tự luật định. Tuy nhiên, về phương pháp phân tích luật, thẩm phán ở Việt Nam dường như không được tự do lựa chọn như thẩm phán ở Pháp. Luật chủ động ấn định một thứ tự ưu tiên các căn cứ mà thẩm phán phải dựa vào trong trường hợp không thể áp dụng luật thành văn một cách trực tiếp để giải quyết vụ việc, như quy định tại Điều 6 BLDS: “1. Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.
Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng”.
Với các quy định như trên, thì tập quán là chỗ dựa đầu tiên trong trường hợp không có luật. Áp dụng tương tự pháp luật là phương pháp được cân nhắc trước hết một khi cả tập quán cũng không có quy tắc cần thiết. Lần lượt sau đó là các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công bằng.
Để định hướng cho thẩm phán trong việc xây dựng căn cứ giải quyết các vụ, việc được thụ lý, người làm luật can thiệp sâu vào việc định dạng các nguồn chuẩn mực ngoài luật. Cụ thể, người làm luật đưa ra định nghĩa tập quán tại khoản 1 Điều 5 BLDS và thiết lập các tiêu chí lựa chọn tập quán tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS); việc áp dụng tương tự pháp luật được tái khẳng định trong Bộ luật TTDS là biện pháp được sử dụng chỉ trong trường hợp tập quán không có quy tắc cần thiết (khoản 2 Điều 45). Đặc biệt, thuật ngữ án lệ được chính thức sử dụng để chỉ những lập luận, phán quyết được lựa chọn từ các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, theo một quy trình chặt chẽ. Còn lẽ công bằng cũng được định nghĩa chính thức tại khoản 3 Điều 45 Bộ luật TTDS.
2. Giá trị pháp lý của kết quả phân tích luật
2.1 Trong luật so sánh
2.1.1 Luật của Anh
Ratio decidendi và obiter dictum[10]. Ở các nước theo Thông luật (Common Law) bản án hoặc quyết định của Tòa án, về nội dung pháp lý, được chia thành hai phần – phần lý do của quyết định (ratio decidendi) và phần giải thích của thẩm phán về phạm vi áp dụng của quyết định tuỳ theo đặc điểm của trường hợp (obiter dictum).
Trong phần ratio decidendi, thẩm phán chỉ ra các sự kiện được xác định là chứng cứ trong vụ án, sau đó chỉ ra quy tắc cần được áp dụng để xử lý hậu quả của các sự kiện, rồi đề ra quyết định giải quyết vấn đề trên cơ sở quy tắc đó. Trong phần obiter dictum, thẩm phán nêu quan điểm về việc xác định nội dung của quyết định giải quyết vấn đề trong trường hợp nội dung của các sự kiện có khác biệt so với các sự kiện cụ thể trong vụ án.
Trong điều kiện thẩm phán có quyền tạo ra luật, thì phần ratio decidendi không nhất thiết là kết quả phân tích, giải thích một quy định của luật thành văn. Đó có thể là một quy tắc của tập quán hoặc của tiền lệ xét xử.
Hiệu lực của bản án hoặc của quyết định của thẩm phán về phương diện nguồn luật. Ở Anh, các bản án hoặc quyết định của Tòa án, như đã nói ở trên, trở thành các tiền lệ xét xử (judicial precedent). Trong trường hợp có tranh chấp, xung đột có cùng tính chất, nội dung, thì trên nguyên tắc, bất kỳ ai cũng có thể viện dẫn tiền lệ để đòi hỏi thẩm phán cùng cấp hoặc cấp dưới phải xử vụ việc tương tự theo cùng một cách. Quyền viện dẫn tiền lệ được cho là xuất phát từ Lẽ công bằng (Equity) ràng buộc người cầm cân nảy mực theo quy tắc “tiền lệ phải được tôn trọng” – stare decisis: một người đã được hưởng cách xét xử như thế, thì không lý do gì người khác không được hưởng cùng một cách xét xử trong trường hợp tương tự.
Tuy nhiên, tiền lệ xây dựng bởi một Tòa án địa phương cấp cơ sở không có hiệu lực ràng buộc như chuẩn mực đối với bất kỳ Tòa án nào. Thay vào đó, các quan điểm, lập luận của thẩm phán toà sơ cấp có tính thuyết phục (persuasive authority), nghĩa là có thể được các thẩm phán tham khảo để xét xử đối với các vụ việc tương tự.
Về hiệu lực ràng buộc của bản án, quyết định của Tòa án cấp cao, Toà phúc thẩm và Tòa án tối cao (House of Lords), cần phân biệt giữa ratio decidendi và obiter dictum.
Ratio decidendi có hiệu lực ràng buộc (binding authority) như luật. Cách lập luận và giải pháp đề ra trong bản án trở thành quy tắc và có hiệu lực ràng buộc đối với các thẩm phán cùng cấp và các cấp toà thuộc quản hạt tư pháp theo nguyên tắc stare decisis.
Trái lại, các obiter edictum chỉ có giá trị tham khảo, định hướng đối với các thẩm phán. Trong trường hợp thụ lý vụ việc có tính chất, đặc điểm như được mô tả trong phần obiter dictum, thì thẩm phán có thể ghi nhận cách giải quyết của thẩm phán trước đó như một kinh nghiệm.
2.1.2 Trong luật của Pháp
Bản án sự vụ, án lệ sự vụ và án lệ nguyên tắc. Nội dung bản án hoặc quyết định của Tòa án ở Pháp, ngoài án được tuyên, cũng được chia thành hai phần – phần mô tả sự việc và phần nhận định. Trong phần mô tả sự việc, thẩm phán nêu ra các yếu tố của sự việc mà giá trị chứng cứ (của các yếu tố đó) được thừa nhận. Trong phần nhận định, thẩm phán dẫn ra điều luật có liên quan và đưa ra các lập luận cần thiết cho phép áp dụng điều luật trong trường hợp cụ thể. Về phương diện giải thích luật, các lập luận của thẩm phán được nhìn nhận như là cách thẩm phán hiểu điều luật được sử dụng là căn cứ giải quyết vấn đề đặt ra trong tình huống được xem xét.
Ở góc nhìn án lệ, bản án hoặc quyết định của Tòa án được chia thành ba cấp độ[11]. Có những bản án, quyết định mang tính sự vụ, chỉ giải quyết những vấn đề đặc thù, không có hoặc ít có khả năng được đặt lại trong thực tiễn. Có những bản án, quyết định liên quan đến những vấn đề đặc thù, nhưng được lặp đi lặp lại trong thực tiễn và các thẩm phán có xu hướng giải quyết theo cùng một cách, thì trở thành án lệ. Đặc biệt, có những bản án, quyết định có nội dung lập luận và giải pháp như nhau đối với cùng một vấn đề nổi cộm, mang ý nghĩa to lớn, trở thành án lệ nguyên tắc.
Người Pháp không phủ nhận vai trò chủ chốt của cơ quan xét xử cao nhất là Toà Phá án trong việc xây dựng án lệ; nhưng không loại trừ khả năng án lệ hình thành từ bản án của toà cấp thấp, thậm chí ở cấp sơ thẩm. Yếu tố xu hướng hiểu luật theo một cách nào đó, chứ không phải yếu tố cấp xét xử, là yếu tố quyết định đối với sự hình thành án lệ.
Án lệ không ràng buộc. Người Pháp không coi án lệ là nguồn luật, mà chỉ là cách áp dụng luật của thẩm phán và có thể được các thẩm phán khác tham khảo khi xét xử vụ án có nội dung, tính chất tình tiết tương tự[12].
Trong điều kiện luật có thể được nói theo nhiều cách, thì cách thẩm phán nói luật trở nên đáng chú ý, hay đúng hơn là có ý nghĩa định hướng mạnh mẽ đối với ứng xử xã hội. Người dân, về phần mình, có xu hướng dựa vào án lệ để chấn chỉnh hành vi của mình trong giao tiếp, nhằm tránh rơi vào thế bất lợi trong trường hợp có tranh chấp. Nhưng án lệ không được coi là chuẩn mực pháp lý và không được đảm bảo thực hiện bằng chế tài của nhà chức trách, như luật. Thẩm phán cũng không bị buộc phải xử theo một tiền lệ nào đó, dù tiền lệ đó đã được nhất trí chấp nhận trong giới quan toà và mang đầy đủ ý nghĩa của án lệ nguyên tắc[13].
Cũng có trường hợp một án lệ được duy trì trong một thời gian, nhưng dần dần các thẩm phán lại có xu hướng xét xử vụ việc tương tự theo một cách khác. Một khi xu hướng mới đủ mạnh, nghĩa là có nhiều bản án giống nhau được ghi nhận, đặc biệt là có sự tán đồng của Toà phá án, thì người ta nói án lệ (cũ) bị đảo ngược. Khả năng đảo ngược án lệ, trong chừng mực nào đó, được cho là hệ quả tất yếu của tính không ràng buộc của án lệ đối với thẩm phán.
2.2. Luật Việt Nam
Bản án sự vụ và án lệ. Điều 1 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) quy định:“Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán TANDTC lựa chọn và được Chánh án TANDTC công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”.
Như vậy, án lệ ở Việt Nam, cũng như án lệ ở các nước, hình thành từ cách xét xử của Toà án. Nhưng, khác với án lệ các nước, án lệ ở Việt Nam ra đời theo một quy trình chặt chẽ và phức tạp với vai trò trung tâm chủ động của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Để được chọn làm án lệ, bản án, quyết định của Toà án được đề xuất với TANDTC thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học; sau đó, bản án, quyết định liên quan được công bố để lấy kiến rộng rãi của toàn xã hội, nhất là của giới luật gia, trước khi được một cơ quan gọi là Hội đồng Tư vấn án lệ cân nhắc, lựa chọn để đề xuất với Hội đồng thẩm phán TANDTC thông qua và được Chánh án TANDTC công bố.
Nếu không được lựa chọn để hoàn chỉnh về nội dung theo quy trình hình thành án lệ, thì bản án, quyết định của Tòa án, dù ở cấp xét xử nào, chỉ là bản án, quyết định thông thường.
Án lệ có tính ràng buộc. Các bản án, quyết định thông thường không có giá trị bắt buộc áp dụng đối với thẩm phán trong trường hợp tương tự. Tất nhiên, các thẩm phán có thể tham khảo các bản án, quyết định này trong quá trình xét xử. Người dân, về phần mình, có thể dựa theo những đòi hỏi của thẩm phán về cách ứng xử của các bên trong vụ, việc nào đó, được mô tả trong bản án, quyết định liên quan để xác định cách ứng xử của mình mỗi khi ở trong trường hợp tương tự. Nhưng hoàn toàn không có gì bảo đảm rằng cách ứng xử đó không bị cho là không đúng khi có tranh chấp và sự việc được đưa ra Tòa án để phân xử. Nói cách khác, bản án, quyết định thông thường của Toà án ở Việt Nam ít nhiều có ý nghĩa của bản án sự vụ ở Pháp và không có hiệu lực thuyết phục như tiền lệ của Tòa án cấp cơ sở ở Anh.
Trái lại, các bản án, quyết định được lựa chọn và “thử thách” theo quy trình được mô tả ở trên để trở thành án lệ, được coi là cách áp dụng luật chính thức đối với toàn bộ hệ thống xét xử. Hình thành theo cách đó, án lệ có tính ràng buộc đối với thẩm phán, thậm chí còn mạnh hơn án lệ trong luật của Anh. Điều 8 khoản 2 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng thẩm phán TANDTC nói trên khẳng định rằng “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau”.
Ở Anh, án lệ cũng ràng buộc thẩm phán trong trường hợp được yêu cầu giải quyết vụ việc có nội dung, tính chất tương tự, như đã nói. Để tránh sự ràng buộc của một án lệ, thẩm phán thường tìm cách định dạng vụ án như thế nào để cho phép nói rằng đó không phải là vụ tương tự, từ đó, loại bỏ án lệ để xử lý vụ án theo cách khác.
Ở Việt Nam, khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP nói trên quy định, trường hợp không áp dụng án lệ thì phải phân tích, lập luận, nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án. Trong điều kiện án lệ có hiệu lực ràng buộc đối với vụ việc tương tự, thì phân tích, lập luận để không áp dụng án lệ tất yếu là phân tích, lập luận cho thấy vụ việc mà thẩm phán xem xét không phải là vụ việc tương tự. Nói cách khác, hoàn toàn có khả năng hiện tượng “lách án lệ” kiểu Anh cũng sẽ xuất hiện trong thực tiễn xét xử ở Việt Nam trong tương lai./.
Bài viết được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12, kỳ 2 tháng 6/2018
[1] Ở Pháp, “thẩm phán chỉ có thiên chức nói luật chứ không có thiên chức tạo ra luật (Le juge a pour vocation de dire le droit non de le créer): G. Cornu, Droit civil – Introduction. Les personnes. Les biens, Montchrestien, Paris, 1990, tr. 146. Trong thời kỳ đầu sau cuộc Cách mạng Tư sản, người Pháp cho rằng với nguyên tắc phân quyền, thì chỉ có Nghị viện là cơ quan duy nhất có quyền đề ra quy tắc ứng xử gọi là luật, cơ quan xét xử chỉ có quyền áp dụng luật; nếu luật không rõ hoặc thiếu sót, thì phải hỏi nhà làm luật, yêu cầu giải thích. Tuy nhiên, quan niệm có phần cực đoan này không được duy trì lâu, bởi nếu chỉ bó hẹp trong phạm vi câu chữ của luật, thì thẩm phán không tài nào xử được tất cả các vụ tranh chấp, xung đột rắc rối trong thực tiễn: J. Ghestin và G. Goubeaux, Droit civil – Introduction générale, L.G.D.J, Paris, 1986, tr. 380.
[2] Thật ra từ “án lệ” chỉ thích hợp để dịch từ precedent; caselaw thực sự là chuẩn mực có tính ràng buộc, như luật, hình thành từ thực tiễn xét xử và là một nguồn luật đích thực, chứ không chỉ là “lệ”.
[3] Án lệ trong luật của Anh được xây dựng theo một trình tự nghiêm ngặt với các điều kiện tương đối khắt khe: tham khảo: R. Cross và J.W Harris, Precedent in English Law, Clarendon Press, London, 1991, tr. 15 và kế tiếp. Xem tiếp trong phần sau bài viết này.
[4] Xem lại footnote 1 trên đây.
[5] Trong một thời kỳ dài, các toà án từ chối xét xử các tranh chấp về hụi. Trong trường hợp có đủ các dấu hiệu của hành vi lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản, thì các cơ quan chức năng tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự và giải quyết các hậu quả liên quan đến tài sản như một phần của vụ án hình sự.
[6] Ví dụ, án lệ số 14/2017/AL ban hành kèm theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28/12/2017 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Sự việc được nêu ra tại án lệ liên quan đến cách hiểu các điều 125 và 470 BLDS năm 2005 về giao dịch có điều kiện và tặng cho tài sản có điều kiện. Với câu chữ của các điều luật, người ta có thể nói rằng điều kiện của giao dịch, cũng như của hợp đồng tặng cho phải là một phần nội dung của giao dịch, của hợp đồng và phải được xác lập cùng một lúc với việc xác lập giao dịch, hợp đồng; nhưng mặt khác, cũng có thể hiểu rằng luật không cấm việc xác lập điều kiện đối với giao dịch, hợp đồng theo một thoả thuận riêng biệt. Toà án đã chọn cách hiểu thứ hai.
[7] XemG. Cornu, Droit civil – Introduction. Les personnes. Les biens, đã dẫn, tr. 125 và kế tiếp.
[8] Theo khoản 1 Điều 296 BLDS quy định: “một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Quy định này chỉ mang ý nghĩa cảnh báo, đặc biệt là đối với chủ nợ có bảo đảm. Khi giao kết việc bảo đảm bằng tài sản, thì chủ nợ phải tìm hiểu xem liệu tài sản có đang được dùng để bảo đảm nghĩa vụ khác; nếu có, thì phải xem khả năng bảo đảm còn lại của tài sản. Tất cả nhằm mục đích giúp chủ nợ nhận diện rủi ro, chứ không nhằm áp đặt bất kỳ giới hạn nào. Nếu không hiểu đúng tinh thần của điều luật, thẩm phán có thể sẽ đi đến chỗ tuyên bố vô hiệu một giao dịch bảo đảm có tác dụng làm cho tổng số nợ được bảo đảm lớn hơn giá trị tài sản bảo đảm.
[9] Theo quy định của Điều 273 BLDS, một khi quyền bề mặt chấm dứt thì người đã từng có quyền bề mặt phải xử lý tài sản và bàn giao mặt đất, mặt nước, không gian, lòng đất cho người có quyền sử dụng đất. Nói nôm na là người này phải dọn dẹp tài sản của mình; nếu không, thì các tài sản ấy thuộc sở hữu của người có quyền sử dụng đất. Nhưng mặt khác, phải hiểu rằng tài sản thuộc sở hữu bề mặt (nhà cửa, công trình xây dựng khác, cây trồng,..) là bất động sản. Nếu người có quyền bề mặt không dọn dẹp, thì có nghĩa là người này từ bỏ các tài sản ấy. Theo khoản 1 Điều 228 BLDS, tài sản mà chủ sở hữu từ bỏ là bất động sản thì thuộc về Nhà nước.
[10]Xem R. Cross và J.W Harris, Precedent in English Law, đd, tr. 25 và kế tiếp; P. Watford, R. Chen và M. Basile, The Crafting Precedent – Book Review of the Law of Judicial Precedent, Harvard Law Review, 2017, quyển 131:543, tr. 543 đến 580.
[11] Tham khảo G. Cornu, sđd, tr. 166.
[12]Thamkhảo G. Cornu, sđd, tr. 168; F. Terré, Introduction à l’étude du droit, Dalloz, Paris, 1994, tr. 200 vàkếtiếp.
[13]Xem J. Ghestin và G. Goubeaux, Droit civil – Introduction générale, L.G.D.J, Paris, 1986, tr. 300 đến 302.
Nguyễn Ngọc Điện, Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học hải ngoại (Pháp); PGS.TS. GV. Trường Đại học Kinh tế – Luật Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Các tìm kiếm liên quan đến Quyền và nghĩa vụ giải thích luật của Tòa án, giải thích pháp luật là gì, giải thích hiến pháp, ví dụ về giải thích pháp luật, giải thích pháp luật ở việt nam hiện nay, các phương pháp giải thích pháp luật, viet nam co nen trao quyen giai thich luat cho toa an hay khong, các hình thức giải thích pháp luật
Để lại một phản hồi