Bình luận án: Xác định đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính

Chuyên mụcLuật tố tụng hành chính, Thảo luận pháp luật Vụ án hành chính
Ảnh minh họa - Hocluat.vn

Trong bài viết này, tác giả bình luận về việc xác định đối tượng khởi kiện hành chính qua vụ việc cụ thể nhằm góp phần rút ra được một số kinh nghiệm khi tham gia, giải quyết vụ án hành chính.

Bình luận án: xác định đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính” là bài viết của tác giả Lê Thu Thảo – Thạc sỹ, Giảng viên Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp đăng tải trên Tạp chí Nghề luật ngày 17/8/2020 đăng tải trên Tạp chí Nghề luật ngày 17/8/2020.

Tóm tắt: Xác định đối tượng khởi kiện là bước đầu tiên và quan trọng trong việc giải quyết một vụ án hành chính. Việc nhận diện một quyết định hành chính, hành vi hành chính là đối tượng khởi kiện hay không phải đảm bảo tuân theo các quy định pháp luật của Luật tố tụng hành chính (Luật TTHC). Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết vụ án hành chính cho thấy, vẫn còn tồn tại tình trạng lúng túng, sai sót trong áp dụng pháp luật luật tố tụng hành chính, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người khởi kiện. Trong bài viết này, tác giả bình luận về việc xác định đối tượng khởi kiện hành chính qua vụ việc cụ thể nhằm góp phần rút ra được một số kinh nghiệm khi tham gia, giải quyết vụ án hành chính.

Từ khóa: Đối tượng khởi kiện, Quyết định hành chính, Luật tố tụng hành chính. Nhận bài: 20/07/2020; Hoàn thành biên tập: 24/07/2020; Duyệt đăng: 17/8/2020.

Abstract: Determining what is suing is the first and important step in resolving an administrative case. The identification of an administrative decision or administrative act is the subject of a lawsuit or not must comply with the provisions of the Law on Administrative Procedure. However, the practice of resolving administrative cases shows that there still exist embarrassments and errors in the application of the administrative procedure law, affecting the legal rights of the petitioners. In this article, I would like to comment on identifying the object of administrative action through the specific case. With the comments, Lawyers, Judges, Procurators gained some experience when participating in and handling administrative cases.

Key words: Subject of lawsuit, Administrative decision, the Law on Administrative Procedure.

Date of receipt: 20/07/2020; Date of revision: 24/07/2020; Date of Approval: 17/8/2020.

1. Nội dung vụ việc

Năm 1991, gia đình anh Hoàng Văn O được Ủy ban nhân dân (UBND) xã L cho sử dụng phần đất giáp đường liên xã thuộc thôn Hà X1 2, xã L, huyện H1, tỉnh Thái Bình, gia đình anh O đã xây dựng nhà cấp 4 để làm máy xay xát. Tháng 12/2006, UBND xã L tổ chức thực hiện đấu giá 18 lô đất tại khu vực sau Trường tiểu học giáp mặt đường liên xã thuộc địa bàn thôn Hà X1 2, xã L và có chủ trương cho các gia đình đang sử dụng đất được mua đất đang sử dụng theo giá khởi điểm do UBND huyện H1 ấn định, không phải thông qua đấu giá. Phần đất gia đình anh O đang sử dụng là 02 lô đất số 17 và 18, nhưng do vợ chồng anh O và chị M1 chỉ có điều kiện mua 01 lô đất nên đã để cho vợ chồng ông H và bà M (là bố mẹ chị M1) tham gia mua 01 lô thuộc tiêu chuẩn của mình. Gia đình ông H mua 01 lô đất số 17 có diện tích 100m2 và ông H đã nộp 70.000.000 đồng tiền đấu giá đất, gia đình anh O mua 01 lô đất số 18 có diện tích 100m2 và đã nộp 80.000.000 đồng tiền đấu giá (Lô đất số 18 của anh O ở ngoài cùng giáp 2 mặt đường nên xã thu thêm 10.000.000 đồng).

Việc đấu giá đất đã được UBND huyện H1 ra Quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất ngày 29/12/2006. UBND xã L đã giao đất trúng đấu giá cho gia đình ông H và gia đình anh O tại thực địa, người trực tiếp giao đất trúng đấu giá là ông Hà Khắc Kết khi đó là cán bộ địa chính xã L, khi giao đất ông Kết không lập biên bản giao mốc giới. Bên cạnh lô 18 còn có mảnh đất hẹp không có mặt tiền, gia đình anh O đã đề nghị UBND xã L chuyển nhượng lại cho gia đình anh O sử 3 dụng và được UBND xã L đồng ý. Ngày 01/12/2007, ông Hà Khắc K đã xuống đo và giao cho gia đình anh O sử dụng phần diện tích đất nêu trên nhưng không lập thành biên bản gì. Sau đó, gia đình ông H và gia đình anh O đã xây tường bao xung quanh phần diện tích đất được giao, đến năm 2010 gia đình anh O xây dựng 3 gian nhà mái bằng 1 tầng, 1 nhà xưởng hàn xì trên lô số 18 và diện tích đất tiếp giáp lô 18. UBND huyện H1 đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSD đất) số BA 225159 ngày 05/11/2010, người sử dụng đất là ông Trần Khắc H, diện tích đất là 100m2 tại thửa đất số 299 tờ bản đồ số 11 thuộc thôn Hà Tân, xã L (thửa đất số 17); GCNQSD đất số BA 225158 ngày 05/11/2010, người sử dụng đất là anh Hoàng Văn O, diện tích đất là 100m2 tại thửa đất số 299 tờ bản đồ số 11 thuộc thôn Hà Tân, xã L (thửa đất số 18).

Đến ngày 04/11/2015, UBND huyện H1 ban hành Thông báo số 160/TB-UBND với nội dung: Kết luận số 169/KL-TTR của Thanh tra huyện H1 kết luận GCNQSD đất số BA225158 cấp ngày 05/11/2010 cho anh Hoàng Văn O đối với thửa đất số 298 diện tích 100m2 và GCNQSD đất số BA225159 cấp ngày 05/11/2010 cho ông Trầấn Khắc H tại thửa số 299 diện tích 100m2 thuộc tờ bản đồ số 11 thôn Hà Tân, xã L là không đúng vị trí đất các hộ gia đình đã được UBND xã L giao sử dụng từ năm 2008, không đúng đối tượng sử dụng đất. Sau 30 ngày kể từ ngày gửi thông báo mà ông H, anh O không có khiếu nại thì UBND huyện H1 quyết định thu hồi và cấp lại GCNQSD đất theo quy định của Luật đất đai.

Sau khi nhận được Thông báo số 160/TBUBND ngày 04/11/2015, ngày 11/11/2015 ông H và anh O đã có đơn khiếu nại. Đến ngày 20/10/2017, Chủ tịch UBND huyện H1 đã ban hành Quyết định số 5726/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) của ông Trần Khắc H, anh Hoàng Văn O với nội dung: Không công nhận nội dung khiếu nại của ông Trần Khắc H, anh Hoàng Văn O khiếu nại Thông báo số 160/TB-UBND ngày 04/11/2015 của UBND huyện H1.

Ngày 30/11/2017, ông Trần Khắc H, bà Bùi Thị M, anh Hoàng Văn O và chị Trần Thị M1 nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

– Hủy Thông báo kết luận của Thanh tra huyện H1 về thẩm tra GCNQSD đất đã cấp số 160/TB-UBND ngày 04/11/2015 của UBND huyện H1, tỉnh Thái Bình (Thông báo số 160/TB-UBND).

– Hủy Quyết định số 5726/QĐ-UBND ngày 20/10/2017 của Chủ tịch UBND huyện H1 về việc giải quyết khiếu nại của ông Trần Khắc H, anh Hoàng Văn O, thôn Hà T, xã L (lần đầu) (Quyết định số 5726/QĐ-UBND).

2. Các quan điểm về xác định đối tượng khởi kiện vụ án hành chính trong vụ việc trên

Để trở thành đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, quyết định hành chính (QĐHC) phải đảm bảo đầy đủ các dấu hiệu theo quy định tại Khoản 1, 2 Điều 3 Luật TTHC năm 2015, cụ thể:

– Quyết định hành chính là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn có chứa đựng nội dung của quyết định hành chính.

Chủ thể ban hành: cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành.

Nội dung của Quyết định hành chính mang tính mệnh lệnh, được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lư hành chính.

Quyết định hành chính đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Như vậy, để đánh giá Thông báo số 160/TB-UBND và Quyết định số 5726/QĐUBND là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính hay không thì phải đảm bảo các dấu hiệu trên.

Quan điểm thứ nhất cho rằng,: đối tượng khởi kiện trong vụ án mà ông H, bà M, anh O và chị M1 xác định là đúng. Thông báo kết luận của Thanh tra huyện H1 về thẩm tra GCNQSD đất đã cấp số 160/TB-UBND ngày 04/11/2015 của UBND huyện H1, tỉnh Thái Bình là đối tượng khởi kiện. Mặc dù Thông báo số 160/TB-UBND là văn bản được ban hành dưới hình thức thông báo nhưng có chứa đựng nội dung quản lý hành chính nhà nước[2] : “là không đúng vị trí đất các hộ gia đình đã được UBND xã L giao sử dụng từ năm 2008, không đúng đối tượng sử dụng đất”. Nội dung trên thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai, cụ thể là thuộc nội dung cấp và thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất[3] , áp dụng cho đối tượng cụ thể và đã làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Đồng thời, Thông báo số 160/TB-UBND cũng quy định quyền khiếu nại trong vòng 30 ngày, quá thời hạn trên mà ông H, anh O không có khiếu nại thì UBND huyện H1 quyết định thu hồi và cấp lại GCNQSD đất theo quy định của Luật đất đai. Thông báo số 160/TB-UBND do cơ quan hành chính nhà nước ban hành và có nội dung quản lý hành chính nhà nước.

Quyết định số 5726/QĐ-UBND ngày 20/10/2017 của Chủ tịch UBND huyện H1 về việc giải quyết khiếu nại của ông Trần Khắc H, anh Hoàng Văn O, thôn Hà T, xã L (lần đầu) là đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính trên, bởi lẽ đây là quyết định giải quyết khiếu nại đối với Thông báo số 160/TB-UBND. Quyết định giải quyết khiếu nại đảm bảo điều kiện là đối tượng khởi kiện theo Khoản 1, 2 Điều 3 Luật TTHC, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của ông H, anh O.

Quan điểm thứ hai cho rằng, Thông báo số 160/TB-UBND và Quyết định số 5726/QĐUBND không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, bởi những luận điểm sau đây:

Thứ nhất, Thông báo số 160/TB-UBND chưa đảm bảo các dấu hiệu của đối tượng khởi kiện theo Khoản 1, 2 Điều 3 Luật TTHC. Cụ thể:

Nội dung của Thông báo số 160/TBUBND không chứa đựng nội dung của QĐHC được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính[4] . Khi nhân danh nhà nước, đại diện cho quyền lực nhà nước ra quyết định, cơ quan hành chính nhà nước về quản lý đất đai buộc cá nhân, tổ chức phải thực hiện theo sự điều chỉnh theo nội dung quản lý hành chính nhà nước, nếu không sẽ bị cưỡng chế. Nội dung của quyết định hành chính cần phải mang tính mệnh lệnh, bắt buộc áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Cơ quan quản lý hành chính nhà nước căn cứ vào điều kiện, quy định của pháp luật đất đai cho phép người sử dụng đất được thực hiện nội dung yêu cầu hợp pháp như: yêu cầu xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xin giao đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất. Bên cạnh đó, đối với các hành vi vi phạm về pháp luật đất đai, cơ quan hành chính nhà nước cũng có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi hoặc buộc thực hiện một số biện pháp khắc phục hậu quả khôi phục lại tình trạng ban đầu do hành vi vi phạm gây ra, ví dụ: xử phạt vi phạm hành chính về đất đai, cưỡng chế thu hồi đất, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… Đặc điểm này để phân biệt quyết định hành chính về đất đai được thể hiện dưới dạng quyết định, công văn hay thông báo…

Trong vụ việc trên, UBND huyện H1 căn cứ kết luận số 169/KL-TTR của Thanh tra huyện H1 và thông báo về kết luận GCNQSD đất số BA225158 cấp ngày 05/11/2010 cho anh Hoàng Văn O đối với thửa đất số 298 diện tích 100m2 và GCNQSD đất số BA225159 cấp ngày 05/11/2010 cho ông Trấn Khắc H tại thửa số 299 diện tích 100m2 thuộc tờ bản đồ số 11 thôn Hà Tân, xã L là không đúng vị trí đất các hộ gia đình đã được UBND xã L giao sử dụng từ năm 2008, không đúng đối tượng sử dụng đất. Nội dung của Thông báo số 160/TBUBND chưa mang tính mệnh lệnh, bắt buộc áp dụng cho anh O và ông H là buộc phải thực hiện hoặc cho phép người sử dụng đất thực hiện một nội dung quản lý hành chính nhà nước nào cụ thể. Bên cạnh đó, theo điểm b Khoản 4 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐCP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định về Thủ tục thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSD đất), Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp. Trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai tại điểm d, Khoản 2 Điều 106 của Luật đất đai năm 2013 được thực hiện như sau: “b) Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai thì thông báo bằng văn bản cho cơ quan thanh tra cùng cấp thẩm tra; nếu kết luận là Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật thì thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý do; sau 30 ngày kể từ ngày gửi thông báo cho người sử dụng đất mà không có đơn khiếu nại thì ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp”. Cơ quan hành chính nhà nước ban hành Thông báo về việc thu hồi GCNQSD đất đối với người sử dụng đất chỉ là một trong trình tự, thủ tục thu hồi GCNQSD đất theo Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP: ra thông báo cho chủ sử dụng đất trước khi có Quyết định thu hồi GCNQSD đất. Nội dung Thông báo số 160/TB-UBND chỉ mang tính chất thông báo về kết luận số 169/KL-TTR của Thanh tra huyện H1, là bước tiền đề để ra Quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, Thông báo số 160/TB-UBND không đáp ứng được các yếu tố để được xem là một quyết định hành chính cá biệt.

Thông báo số 160/TB-UBND không phải là quyết định hành chính bị kiện theo Khoản 2 Điều 3 Luật TTHC năm 2015. Quyết định hành chính bị kiện không chỉ vừa đảm bảo dấu hiệu là quyết định quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật TTHC 2015 mà quyết định đó còn làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân[5] . Như đã phân tích ở lập luận trên, nội dung Thông báo số 160/TBUBND mang tính chất thông báo về vụ việc trước khi ra Quyết định thu hồi GCNQSD đất của ông H, anh O. Nội dung thông báo số 160/TB-UBND chưa làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của ông H, anh O theo Khoản 2 Điều 3 Luật TTHC. Quyền sử dụng đất của ông H, anh O vẫn còn tồn tại, chưa bị tác động bởi Thông báo số 160/TB-UBND. Chỉ khi UBND huyện H1 ban hành Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp, trong đó có nội dung buộc thu hồi GCNQSD đất khi đó mới làm chấm dứt quyền sử dụng đất của ông H, anh O và xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông H, anh O.

Như vậy, Thông báo số 160/TB-UBND không đảm bảo các dấu hiệu là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính theo Khoản 1,2 Điều 3 Luật TTHC năm 2015 do đây không phải là một quyết định hành chính cá biệt và nội dung Thông báo không làm ảnh hưởng, phát sinh quyền và lợi ích hợp pháp của ông H và anh O.

Thứ hai, Quyết định số 5726/QĐ-UBND ngày 20/10/2017 của Chủ tịch UBND huyện H1 về việc giải quyết khiếu nại của ông Trần Khắc H, anh Hoàng Văn O, thôn Hà T, xã L không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.

Theo quy định tại Luật khiếu nại năm 2011, quyết định giải quyết khiếu nại do người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để xem xét QĐHC, hành vi hành chính (HVHC) của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại xem xét giải quyết đối với các QĐHC cá biệt (là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể)[6] , xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu thì có thể khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Thời hiệu khiếu nại đối với thông báo thu hồi GCNQSD đất được quy định tại điểm b Khoản 4 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐCP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai là 30 ngày và chỉ được khiếu nại 01 lần (không có quy định khiếu nại lần hai). Việc khiếu nại theo quy định tại Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 và Thông báo số 160/TB-UBND không nằm trong sự điều chỉnh về trình tự thủ tục của Luật khiếu nại năm 2011.

Bên cạnh đó, quyết định giải quyết khiếu nại khi nào được coi là đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính? Theo Nghị quyết số 01/2015/NQ-HĐTP ngày 15/01/2015 sửa đổi bổ sung Nghị quyết số 02/2011/NQHĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính:

Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính ….. bao gồm:

a) Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính; b) Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại có nội dung giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính được hướng dẫn tại điểm a Khoản 1 Điều này.

Quyết định giải quyết khiếu nại đảm bảo các quy định tại Khoản 1,2 Điều 3 Luật TTHC năm 2015 thì quyết định đó là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.

Như vậy, Quyết định giải quyết khiếu nại hành chính là đối tượng khởi kiện phải là quyết định được người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ban hành sau khi xem xét, giải quyết khiếu nại đối với Quyết định hành chính cá biệt. Trong trường hợp này như đã phân tích, Thông báo số 160/TB-UBND không phải một quyết định hành chính cá biệt, do vậy Quyết định số 5726/QĐ-UBND không phải là quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật khiếu nại năm 2011 và không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính theo Khoản 1,2 Điều 3 Luật TTHC năm 2015.

Theo quan điểm này, thẩm phán phải trả lại đơn khởi kiện theo điểm đ, Khoản 1 Điều 123 Luật TTHC năm 2015. Khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, thẩm phán phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện. Văn bản trả lại đơn khởi kiện được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp. Khi xét thấy có căn cứ, Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến nghị với Tòa án để trả lại đơn khởi kiện và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị về trả lại đơn khởi kiện để đảm bảo giải quyết đúng thời hạn quy định. Đối với luật sư, kỹ năng xác định đối tượng khởi kiện là kỹ năng quan trọng khi luật sư tham gia tư vấn cho khách hàng trong vụ án hành chính. Luật sư cần có kỹ năng nghiên cứu vụ việc dựa trên các tài liệu, chứng cứ và dựa vào các quy định pháp luật để đánh giá QĐHC, HVHC trong vụ việc có phải là đối tượng khởi kiện theo quy định của Luật TTHC năm 2015 không. Với quan điểm thứ hai, luật sư chưa nên vội khởi kiện Thông báo số 160/TBUBND và Quyết định số 5726/QĐ-UBND. Luật sư nên đợi UBND huyện H1 ban hành Quyết định thu hồi GCNQSD đất đối với ông H, anh O, khi đó Quyết định thu hồi GCNQSD đất đã làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và lợi ích hợp pháp của ông H và anh O, đảm bảo các dấu hiệu là đối tượng khởi kiện hành chính theo Điều 3, 30 Luật TTHC năm 2015.

Từ những phân tích trên, tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai. và mong nhận được ý kiến trao đổi từ các bạn đọc./.


[2] Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao ban hành hướng dẫn thi hành Luật Tố tụng hành chính.

[3] Khoản 7 Điều 22 Luật Đất đai năm 2013.

[4] Khoản 1 Điều 3 Luật TTHC năm 2015, Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao ban hành hướng dẫn thi hành Luật TTHC năm 2010.

[5] Khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015.

[6] Khoản 8 Điều 2 Luật khiếu nại năm 2011.

4.1/5 - (8 bình chọn)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền