Trong số các quốc gia châu Âu, Anh Quốc (bao gồm cả xứ Wales) là một trong những quốc gia có nghề luật sư phát triển từ lâu đời và đạt được nhiều dấu ấn nhất. Đây cũng là một trong số ít những quốc gia duy trì hai hình thức hành nghề là luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn, do đó nghiên cứu về Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư tại đây sẽ mang đến cái nhìn chi tiết và rõ nét hơn về quá trình hành nghề của luật sư, cũng như các cảnh báo về các vấn đề đạo đức của từng loại công việc cụ thể mà luật sư có thể gặp phải.
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư tư vấn của Anh
Hiệp hội luật sư Anh Quốc (Te Law Society of England and Wales) là tổ chức nghề nghiệp của các luật sư tư vấn theo Điều lệ Hoàng gia vào năm 1845. Tiền thân của Hiệp hội được thành lập vào năm 1823, khi một số luật sư hàng đầu nhận thấy rằng, cần phải nâng cao chất lượng dịch vụ, tiêu chuẩn và đạo đức hành nghề của luật sư. Cho tới năm 1834, Hiệp hội lần đầu tiên thực hiện chức năng quản lý, kỷ luật hành nghề với các luật sư hành nghề không trung thực. Cuối cùng, Luật luật sư tư vấn được ban hành năm 1974 cho phép Hiệp hội được ban hành các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử, các quy định về giáo dục, đào tạo của riêng mình dành cho các luật sư tư vấn, bất kể họ hành nghề trong hay ngoài nước Anh. Hiện nay chức năng đại diện của Hiệp hội luật sư do Hội đồng (Council) thực hiện, Hội đồng này ủy quyền cho Ủy ban quản lý luật sư (Solicitors Regulation Authority, viết tắt là SRA) một số chức năng của mình. Ủy ban thực hiện điều này bằng cách giám sát tất cả các yêu cầu giáo dục và đào tạo cần thiết để hành nghề luật sư, cấp phép cho các cá nhân và công ty hành nghề, thiết lập các tiêu chuẩn của nghề nghiệp và quy định, thực thi các nguyên tắc tuân thủ đối với các tiêu chuẩn này.
>>> Xem thêm: Bộ quy tắc đạo đức của luật sư Liên minh châu Âu
Trong nhiều năm, luật sư và công ty luật hoạt động tuân theo Bộ quy tắc ứng xử SRA năm 2011 được ban hành theo Sổ tay SRA.1 Vào ngày 25/11/2019, Sổ tay SRA bao gồm Bộ quy tắc ứng xử SRA năm 2011 đã được thay thế bởi Bộ tiêu chuẩn mới. Bộ tiêu chuẩn mới này nêu ra các quy định mới một cách ngắn gọn hơn so với Sổ tay SRA trước đây cũng như xóa bỏ đi một số quy tắc và quy định cũ. Đặc biệt, Bộ tiêu chuẩn mới giới thiệu hai bộ quy tắc ứng xử riêng biệt cho các luật sư (bao gồm các luật sư của Anh, các luật sư đăng ký hành nghề tại châu Âu (viết tắt là RELuật sư) và các luật sư đăng ký với tư cách là luật sư nước ngoài (viết tắt là RFLuật sư)). Ngoài ra, một số điểm nổi bật của Bộ quy tắc ứng xử mới này là đơn giản hóa Quy tắc về tài khoản (Account rules) và tập trung vào nguyên tắc giữ an toàn cho tiền của khách hàng hơn là tập trung vào các vấn đề kỹ thuật cụ thể theo quy định, cho phép luật sư thực hiện các công việc pháp lý “đặc thù”2 trong các tổ chức không phải là tổ chức được quản lý bởi cơ quan quản lý dịch vụ pháp lý, cho phép luật sư cung cấp pháp lý “đặc thù” trên cơ sở tự do và yêu cầu các công ty luật áp dụng việc sử dụng logo (có thể truy cập) của SRA trên trang web của mình.
Bộ quy tắc mới được ban hành theo Nguyên tắc SRA bao gồm 07 nguyên tắc cơ bản – rút gọn hơn so với 10 nguyên tắc cơ bản trước đây theo Sổ tay SRA. Các nguyên tắc cơ bản cho các luật sư bao gồm: (i) duy trì nguyên tắc lập hiến của Nhà nước pháp quyền và hỗ trợ thực thi công lý; (ii) duy trì niềm tin của công chúng và niềm tin vào nghề luật sư và các dịch vụ pháp lý; (iii) sự độc lập; (iv) sự trung thực; (v) tính chính trực; (vi) khuyến khích sự bình đẳng, đa dạng và toàn vẹn, và (vii) vì lợi ích tốt nhất cho mỗi khách hàng. Ngoài ra, đối với các công ty luật, Bộ tiêu chuẩn mới quy định thêm các tiêu chuẩn bổ sung được đặt ra cho các nhà quản lý và cán bộ tuân thủ (gồm cán bộ tuân thủ thực hành pháp lý (Compliance Ofcer for Legal Practice – COLP) hoặc cán bộ tuân thủ về tài chính và quản trị (Compliance Ofcer for Finance and Administration – COFA) trong các công ty đó).
Dịch vụ và năng lực của luật sư
Khi nhận một vụ việc, luật sư cần thông báo cho khách hàng của mình, hay tổ chức hành nghề và bên thứ ba sẽ thực hiện những hoạt động gì, thực hiện như thế nào để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đồng thời bảo đảm rằng khách hàng hiểu được họ được bảo vệ ra sao trước pháp luật. Luật sư chỉ thực hiện công việc theo yêu cầu của khách hàng hoặc từ người được ủy quyền hợp lệ của họ. Trong trường hợp, luật sư nghi ngờ rằng những yêu cầu này không đại diện cho mong muốn của khách hàng thì có quyền từ chối thực hiện. Nghĩa vụ của luật sư là phải luôn cập nhật kiến thức và kỹ năng chuyên môn của mình để bảo đảm rằng dịch vụ cung cấp cho khách hàng được thực hiện một cách tốt nhất và kịp thời, trong khi đó cần chú ý tới nhu cầu và hoàn cảnh của khách hàng. Nhiệm vụ này còn nặng nề hơn đối với các luật sư quản lý, ngoài việc phải chịu trách nhiệm để công việc được thực hiện một cách hiệu quả, họ còn phải bảo đảm rằng các luật sư dưới quyền có đủ năng lực để thực hiện vai trò của họ, đồng thời cập nhật kiến thức và kỹ năng chuyên môn cũng như hiểu biết về các nghĩa vụ pháp lý, đạo đức.
Giải quyết tranh chấp và thủ tục trước Tòa án, HĐXX và các cơ quan khác
Vai trò của luật sư là bảo vệ khách hàng, tuy nhiên, việc này không có nghĩa rằng luật sư có thể dùng bất cứ hành động, thủ đoạn nào để thực hiện công việc của mình. Bộ quy tắc quy định luật sư không được lạm dụng hoặc giả mạo bằng chứng hay tác động đến nội dung của bằng chứng, hoặc thuyết phục nhân chứng thay đổi bằng chứng của họ, cũng như không cung cấp hoặc đề nghị cung cấp bất kỳ lợi ích nào cho nhân chứng. Trong quá trình làm việc trước Toà, luật sư phải nghiêm túc tuân thủ các yêu cầu của Tòa án cũng như thể hiện thái độ tôn trọng và không làm mất thời gian của Toà.
Xung đột lợi ích
Khi có nghi ngờ về xung đột lợi ích, Bộ tiêu chuẩn mới quy định một số hành động cụ thể mà một luật sư hoặc một công ty luật cần phải tuân theo1. Cụ thể, luật sư sẽ không nhận vụ việc khi: (1) có xung đột đối với lợi ích riêng của bản thân luật sư, hoặc trong trường hợp có nguy cơ cao sẽ xảy ra xung đột nếu luật sư thực hiện vụ việc hoặc công việc liên quan đến vụ việc đó, trừ các ngoại lệ sau: (i) Khách hàng cũng có lợi ích tương đồng nhau một cách nhất định liên quan đến vụ việc hoặc một phần của vụ việc; (ii) Trường hợp khách hàng có cùng mục đích và đáp ứng các điều kiện sau: Tất cả các khách hàng đều cho phép bằng văn bản để luật sư thực hiện vụ việc; Luật sư thực hiện việc bảo vệ các thông tin bảo mật của khách hàng một cách phù hợp; Luật sư cảm thấy việc luật sư thực hiện vụ việc cho khách hàng là hợp lý. (2) luật sư cũng không được nhận tư vấn cho một khách hàng khác nếu họ có lợi ích xung đột với khách hàng hiện tại, hay khách hàng cũ của luật sư, doanh nghiệp hoặc tổ chức hành nghề mà luật sư đang làm việc, trừ khi các biện pháp hữu hiệu nhằm bảo mật thông tin đã được thực hiện và không còn nguy cơ thông tin bí mật bị lộ, hoặc khách hàng đồng ý rõ ràng bằng văn bản, trong đó bao gồm cả các biện pháp bảo mật thông tin.
Bảo mật và tiết lộ thông tin
Trong bất cứ trường hợp nào, luật sư cũng phải giữ bí mật các vấn đề của khách hàng hiện tại cũng như khách hàng cũ trừ khi pháp luật yêu cầu hoặc cho phép tiết lộ, hoặc được sự đồng ý của khách hàng.
Luật sư cần cho khách hàng biết về tất cả tài liệu, thông tin mà mình có, ngoại trừ trường hợp việc tiết lộ thông tin đó bị cấm do quy định của pháp luật vì lợi ích an ninh quốc gia hoặc phòng, chống tội phạm; khách hàng đồng ý bằng văn bản rằng thông tin này không được tiết lộ cho họ; Luật sư có lý do để tin rằng thông tin được tiết lộ sẽ gây tổn thương thể chất hoặc tinh thần nghiêm trọng cho khách hàng hoặc người khác hoặc, thông tin được chứa trong một tài liệu riêng vô tình bị tiết lộ mà luật sư biết được.
Quy tắc về tài khoản và bảo vệ tiền bạc, tài sản của khách hàng
Liên quan đến nhiệm vụ quản lý tiền bạc và tài sản của khách hàng, luật sư cũng như công ty luật phải bảo đảm tuân thủ các quy tắc cơ bản sau:1 (i) Các lợi ích tài chính mà luật sư/công ty luật nhận được từ việc thực hiện các yêu cầu của khách hàng phải được thông báo và quyết toán đầy đủ cho khách hàng trừ khi các bên có thỏa thuận khác; (ii) luật sư/công ty luật phải bảo vệ tiền bạc và tài sản được ủy thác bởi khách hàng và các bên khác; (iii) Riêng đối với cá nhân luật sư, luật sư không được giữ tiền cho khách hàng trừ trường hợp được cho phép hoặc khi luật sư làm việc tại một cơ quan/tổ chức được phép theo quy định này.
Nghĩa vụ báo cáo
Bộ tiêu chuẩn mới đặt ra nghĩa vụ báo cáo kịp thời của luật sư khi phát hiện những vấn đề có nguy cơ dẫn đến vi phạm đối với quy định của SRA hay bất kỳ quy định nào khác mà luật sư có nghĩa vụ phải tuân theo. Nghĩa vụ báo cáo này bao gồm việc báo cáo đối với SRA, các cán bộ tuân thủ trong công ty luật cũng như đối với khách hàng của luật sư.2 Ví dụ một số trường hợp luật sư phải báo cáo SRA như sau: Luật sư sẽ cung cấp cho SRA những giải trình, thông tin và tài liệu cần thiết để trả lời bất kỳ yêu cầu nào và luôn bảo đảm việc SRA có thể kiểm tra các thông tin sở hữu bởi luật sư hay bên thứ ba liên quan nào hỗ trợ cho việc cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư. Luật sư sẽ không cản trở việc SRA hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác thu thập thông tin cung cấp từ bất kỳ người nào vì mục đích phục vụ lợi ích của cộng đồng. Luật sư kịp thời thông báo cho SRA nếu luật sư có liên quan đến bất kỳ cáo buộc hình sự, kết án hoặc cảnh cáo, hoặc phải tuân theo Đạo luật cải tạo người phạm tội năm 1974. Luật sư cần báo cáo kịp thời cho SRA hoặc cơ quan thẩm quyền khác nếu luật sư tin tưởng một cách hợp lý rằng bất kỳ sự kiện hoặc vụ việc nào có thể dẫn tới việc vi phạm nghiêm trọng các quy định của SRA. Nếu được yêu cầu, luật sư sẽ tiến hành điều tra các sự kiện vi phạm cần được báo cáo cho SRA và kịp thời tiến hành các biện pháp khắc phục theo yêu cầu.
Ngoài nghĩa vụ báo cáo với SRA, luật sư có nghĩa vụ báo cáo với khách hàng. Luật sư cần cởi mở và trung thực với khách hàng nếu có sự cố xảy ra, và nếu khách hàng phải gánh chịu tổn thất hoặc tổn hại từ sự cố đó, luật sư cần phải điều chỉnh và khắc phục sự cố (nếu có thể) và giải thích kịp thời và đầy đủ cho khách hàng về sự cố xảy ra cũng như ảnh hưởng của sự cố đó. Nếu được yêu cầu bởi SRA, luật sư sẽ tiến hành điều tra về các khiếu nại mà luật sư đang gặp phải, cung cấp cho SRA các báo cáo kết quả điều tra cũng như thông báo cho các bên liên quan rằng họ có thể có yêu cầu tương tự.
Một điểm cần lưu ý rằng nghĩa vụ báo cáo của luật sư với SRA nêu trên sẽ được xem như là hoàn thành nếu các báo cáo, thông tin đó được thực hiện, cung cấp cho các cán bộ tuân thủ tại công ty luật của luật sư.
Các quy định khác
Bộ quy tắc còn có các quy định khác như phí giới thiệu, luật sư bị cấm không được nhận các khoản thanh toán liên quan đến giới thiệu hoặc thanh toán cho người giới thiệu đối với khách hàng là đối tượng của thủ tục tố tụng hình sự; Quy định về việc không được tiếp cận với công chúng để quảng cáo dịch vụ mà không được yêu cầu, trừ trường hợp đó là khách hàng hiện tại hoặc khách hàng cũ của mình.
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư tranh tụng của Anh
Luật sư tranh tụng ở Anh chủ yếu hành nghề độc lập, nhưng hoạt động trong khuôn khổ của một Đoàn luật sư. Họ cũng có thể làm việc như một nhân viên trong các tổ chức thuộc khu vực công hoặc tư nhân. Ví dụ, luật sư được tuyển dụng làm việc trong các bộ hoặc cơ quan chính phủ, như văn phòng công tố, bộ phận pháp lý của các công ty và trong một số trường hợp cho các công ty luật. Khi đó, các luật sư vẫn tuân theo Quy tắc ứng xử nghề nghiệp của Hội đồng luật sư (Te Bar Council). Hội đồng luật sư đưa ra hướng dẫn đầy đủ về cách thức hoạt động của cả hai nhóm luật sư này, mặc dù vào năm 2006, một số chức năng quản lý đã được chuyển giao cho Ủy ban tiêu chuẩn luật sư (Bar Standard Board).
Trước đây, luật sư tranh tụng được quản lý bởi Hội đồng luật sư và Inns of Court – Hiệp hội nghề nghiệp dành cho các luật sư tranh tụng ở Anh và xứ Wales. Muốn trở thành thành viên của Đoàn luật sư, các luật sư tranh tụng phải là thành viên của một trong bốn “Inns of Court” bao gồm – Grey’s Inn, Lincoln’s Inn, Inner Temple và Middle Temple. Từ năm 2006, Ủy ban tiêu chuẩn luật sư phụ trách ban hành các tiêu chuẩn để luật sư được nhận vào Đoàn luật sư và quản lý, thi hành các thủ tục kỷ luật, Ủy ban này vốn là một ban điều hành của Hội đồng luật sư, tuy nhiên hoạt động một cách độc lập. Quyền hạn của Ủy ban tiêu chuẩn bao gồm: Thiết lập các tiêu chuẩn ứng xử cho luật sư; Giám sát dịch vụ do luật sư cung cấp để bảo đảm chất lượng; Đặt ra các yêu cầu về giáo dục và đào tạo để trở thành luật sư cũng như đặt ra các yêu cầu đào tạo liên tục để bảo đảm rằng các kỹ năng của luật sư được duy trì; Xử lý các khiếu nại và thực hiện các biện pháp thi hành, hoặc hành động cần thiết khác. Để hành nghề ở Anh và xứ Wales, luật sư tranh tụng phải có Chứng chỉ hành nghề được gia hạn hàng năm, việc gia hạn này có thể được thực hiện qua hình thức trực tuyến có trả phí.
Ủy ban tiêu chuẩn luật sư đã ban hành Sổ tay BSB nhằm thiết lập các tiêu chuẩn ứng xử cho luật sư tranh tụng từ năm 2014, với mục đích không chỉ đặt ra các tiêu chuẩn, hướng dẫn một cách rõ ràng để luật sư tuân thủ, mà còn cho phép khách hàng hiểu họ có thể mong đợi những gì từ luật sư. Cuốn sổ tay này bao gồm 06 phần quy định về phạm vi hành nghề, ứng xử của luật sư tranh tụng, quản lý và cấp phép, các tiêu chuẩn chất lượng, các quy định về thi hành. Trong đó riêng phần phạm vi về ứng xử của luật sư (code of conduct) nằm ở phần 2 của cuốn Sổ tay đã dài 91 trang. Các quy tắc đạo đức và ứng xử này tập trung vào các vấn đề chính bao gồm: Quan hệ giữa luật sư và Tòa án, đạo đức ứng xử, quan hệ giữa luật sư và khách hàng, quan hệ giữa luật sư và Ủy ban tiêu chuẩn luật sư, luật sư với nghề nghiệp.
Trong khi làm việc tại Toà, luật sư cần bảo đảm hành động vì lợi ích tốt nhất của khách hàng, bảo đảm sự trung thực, đồng thời tuân thủ theo các quy tắc ứng xử do Tòa đặt ra. Đặc biệt không được lạm dụng vai trò luật sư tranh tụng để thực hiện các hành vi sau: Không được đưa ra tuyên bố hoặc đặt câu hỏi để xúc phạm, làm nhục hoặc làm phiền nhân chứng hoặc bất kỳ người nào khác; không được đưa ra cáo buộc nghiêm trọng chống lại bất kỳ người nào hoặc gợi ý rằng một người cũng phạm tội mà khách hàng của luật sư đang bị cáo buộc trừ khi luật sư có cơ sở hợp lý cho cáo buộc, và cáo buộc này phải có liên quan đến vụ việc của khách hàng hoặc có nhân chứng tin cậy, đồng thời khi cáo buộc có liên quan đến một bên thứ ba, cần tránh nêu tên họ trong phiên tòa trừ trường hợp thực sự cần thiết; Luật sư không được đưa ra ý kiến cá nhân về các sự kiện hoặc ý kiến pháp lý trừ khi được Tòa án hoặc luật pháp cho phép1
Đặc thù nghề nghiệp yêu cầu luật sư trong ứng xử cần tuân thủ các quy tắc đạo đức nhằm bảo vệ phẩm giá và sự độc lập nghề nghiệp của mình, cho dù là trong quan hệ với khách hàng, hay với các cơ quan tố tụng, truyền thông. Các luật sư tranh tụng cũng không được phép nhận phí giới thiệu vụ việc trong mọi trường hợp. Nếu được khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng hoặc khách hàng cũ, khách hàng chuyên nghiệp hoặc người trung gian khác tặng quà, luật sư cần cân nhắc cẩn thận xem hoàn cảnh tặng quà và quy mô của món quà có khiến người khác nghĩ rằng việc này có gây ảnh hưởng tới sự độc lập của luật sư hay không. Nếu rơi vào trường hợp này, luật sư nên từ chối nhận quà. Các hành vi khác như mời chào, hứa hẹn quà/cho khách hàng vay tiền hoặc chấp nhận bất kỳ khoản tiền nào (cho dù là khoản vay hay cách khác) từ bất kỳ khách hàng nào trừ khi đó là khoản thanh toán cho các dịch vụ pháp lý do luật sư cung cấp cũng có thể bị coi là vi phạm ảnh hưởng tới sự độc lập của luật sư. Luật sư khi tiếp xúc với giới truyền thông cần bảo đảm vì lợi ích tốt nhất của khách hàng, bảo mật và không được hành xử không phù hợp dẫn tới làm giảm niềm tin mà công chúng dành cho luật sư và nghề nghiệp luật sư.
Trong quan hệ với khách hàng, luật sư cần hành động vì lợi ích tốt nhất của khách hàng, bảo mật thông tin và không gây hiểu nhầm cho khách hàng. Nhiệm vụ của luật sư là cung cấp dịch vụ đạt tiêu chuẩn và có nhiệm vụ thông báo ngay cho khách hàng trong trường hợp luật sư không thể thực hiện được công việc kịp thời. Việc gây hiểu nhầm có thể bao gồm trường hợp luật sư tính phí theo giờ cho công việc do người đang học nghề thực hiện, trong trường hợp này hành vi của luật sư còn có thể vi phạm nghĩa vụ trung thực và liêm chính. Trong ứng xử với khách hàng, luật sư cần lịch sự và cân nhắc khi sử dụng các thuật ngữ pháp lý, hãy bảo đảm rằng khách hàng có thể hiểu được những gì luật sư nói và thực hiện tất cả các bước hợp lý để tránh phát sinh chi phí không cần thiết.
Ngoài việc tuân thủ các quy tắc của Sổ tay BSB, các luật sư tranh tụng có nghĩa vụ báo cáo kịp thời với Ủy ban tiêu chuẩn luật sư về bất cứ yêu cầu nào cho dù việc đó có liên quan đến luật sư đó không. Các trường hợp luật sư phải báo cáo với Ủy ban bao gồm: Luật sư bị buộc tội với một tội danh có thể truy tố trong khu vực tài phán của Anh và xứ Wales hoặc với một hành vi phạm tội có mức độ nghiêm trọng tương đương ở bất kỳ khu vực tài phán nào khác; theo Đạo luật Tội phạm năm 1974 (đã được sửa đổi) mà luật sư bị kết án, hoặc chấp nhận cảnh cáo, đối với bất kỳ tội hình sự nào, ở bất kỳ khu vực tài phán nào, ngoài các tội hình sự nhỏ; Luật sư (hoặc pháp nhân mà luật sư là người quản lý) là đối tượng của bất kỳ hình thức kỷ luật nào do các cơ quan khác thi hành; Luật sư đã đăng ký hành nghề ở châu Âu và có điều tra về hành vi sai trái của luật sư, giấy phép hành nghề của luật sư bị thu hồi hoặc bị đình chỉ; Luật sư bị buộc tội vi phạm kỷ luật hoặc bất kỳ hành vi nào chống lại luật sư theo hướng dẫn tại Sổ tay BSB.
Để lại một phản hồi