Một số vấn đề về quyền tư pháp và chế độ tư pháp ở Việt Nam

Tư pháp

Bài viết này tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, chế độ tư pháp, kinh nghiệm nước ngoài về lĩnh vực này, từ đó đưa ra những kiến nghị để đóng góp cho việc xây dựng các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ta.

1. Về quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp

1.1. Quan niệm về quyền tư pháp

Tư tưởng, quan niệm về quyền tư pháp có từ thời cổ đại. Quyền tư pháp lần đầu tiên được sử dụng trong Bộ luật Hammurabi – được ban hành từ 1.700 năm trước Công nguyên, với nghĩa là quyền lực xét xử (phân xử, phán xét).

Trong quá trình phát triển, quyền tư pháp và quan niệm về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp gắn liền với sự ra đời và phát triển của tư tưởng, học thuyết  phân quyền. Tư tưởng phân quyền có từ thời cổ đại, nhưng bị lãng quên trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ và phong kiến; khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bắt đầu được hình thành thì tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước được hồi sinh và phát triển.

Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến, quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp và việc thực hiện các quyền đó nằm trong tay một nhà quân chủ và các chế độ xã hội đó là các xã hội chuyên quyền, độc đoán, không có sự phân quyền. Tư tưởng phân quyền ra đời từ thời kỳ này nhằm hạn chế bớt sự chuyên quyền, độc đoán đó. Đại diện là tư tưởng của Platôn (427 – 347 trước Công nguyên) và của Aristốt (384 – 322 trước Công nguyên).

Ngay từ thời Hy Lạp, La Mã cổ Đại người ta đã khẳng định: Ở đâu có pháp luật, thì ở đó phải có một hệ thống bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh. Sự bảo đảm đó trước hết phải bằng hoạt động của các cơ quan trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Các cơ quan nhà nước này có chức năng xét xử các hành vi vi phạm các quy định pháp luật của Nhà nước. Đó là hệ thống các cơ quan Tòa án.

Aristốt cho rằng, quyền lực nhà nước được phân chia và được thực hiện bởi ba bộ phận. Thứ nhất, là Hội nghị nhân dân; thứ hai, là các viên chức nhà nước và thứ ba, là cơ quan Tòa án. Khi đề cập đến các Tòa án thì ông cho rằng, có tám loại Tòa án (phân chia theo từng loại việc có đặc trưng khác nhau): Tòa án kiểm tra tư cách pháp quan (những viên chức nhà nước có quyền giải quyết kiện tụng hoặc người có quyền chỉ huy trong một số lĩnh vực) khi họ bỏ việc; Tòa án trừng phạt những người gây thiệt hại cho công chúng; Tòa án có thẩm quyền trong những việc kiện mà Nhà nước là một bên; Tòa án giải quyết các tranh chấp xuất hiện liên quan đến những hợp đồng có giá trị lớn; Tòa án phân xử giữa những người nước ngoài về những vụ giết người; Tòa án giải quyết những vụ việc giữa những người nước ngoài với nhau hoặc giữa người nước ngoài với công dân; Tòa án phân xử các pháp quan với các cá nhân là những người đã kháng án vì việc họ bị phạt tiền. Như vậy, Aristốt đã có tư tưởng phân chia các loại Tòa án theo loại vụ việc.

Tư tưởng phân quyền được kế thừa và phát triển trong chế độ tư sản; học thuyết “phân chia quyền lực” của các học giả tư sản được ra đời, phát triển từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII và đạt được những thành tựu nhất định. Có thể nêu ra những quan điểm mang tính học thuyết điển hình sau đây:

John Locke cho rằng, quyền lực nhà nước được phân thành quyền lập pháp và quyền hành pháp (quyền tư pháp chỉ là một bộ phận của quyền hành pháp, nhưng khi xét xử thì có sự tham gia của nhân dân, sự độc lập của Thẩm phán cần phải được tôn trọng).

Môngtexkiơ (Tinh thần pháp luật) quan niệm rằng, quyền lực nhà nước cần phải được phân chia thành: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp  và kiềm chế lẫn nhau; quyền tư pháp cần phải được độc lập, hoạt động xét xử cần phải bảo đảm tính đúng đắn và khách quan.

Quan điểm của Ruxơ cho rằng, quyền lực nhà nước là thống nhất vì nó thuộc về nhân dân, quyền hành pháp gắn liền với quyền lập pháp, quyền tư pháp phải lệ thuộc và tuân theo pháp luật nhưng vẫn có tính độc lập cần thiết với quyền lập pháp và quyền hành pháp; trong sự phân quyền, quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp đặt dưới sự kiểm soát lẫn nhau và được phân chia trước hết theo chiều ngang, giữa ba quyền này có sự phân biệt về chức năng, nhưng hợp tác với nhau, không có quyền lực nào chiếm ưu thế hơn hai quyền lực còn lại và không có quyền lực nào thống trị quyền lực nào; phân quyền theo chiều dọc giữa trung ương và địa phương.

Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, quyền lực nhà nước là thống nhất, thống nhất về bản chất, về mục tiêu, về định hướng hoạt động, bởi vì quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; sự thống nhất không có nghĩa là giao cho một cơ quan thực hiện; kỹ thuật tổ chức và thực hiện quyền lực là có sự phân công, phối hợp, giám sát để thực hiện quyền lực đúng quỷ đạo, hiệu quả, tức là phân công quyền lực hay phân công lao động trong lĩnh vực quyền lực.

 Quyền lực nhân dân được hình thành dựa trên nguyên lý chủ quyền nhân dân, quyền lực nhân dân là quyền lực tối cao và là quyền lực gốc trong xã hội dân chủ; nhân dân trực tiếp thực hiện một phần quyền lực, ủy thác thực hiện quyền lực và kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực đã được ủy thác. Quyền lực nhà nước là một bộ phận của quyền lực nhân dân được hình thành thông qua sự đồng thuận ủy quyền của nhân dân bằng chủ nghĩa lập hiến. Bằng Hiến pháp Nhân dân uỷ thác cho Nhà nước thực hiện một phần quyền lực của mình.

Quyền lực nhà nước là quyền lực ủy quyền của nhân dân, quyền lực nhân dân quyết định mục tiêu, phạm vi, nội dung, cách thức sử dụng quyền lực nhà nước, quyền lực nhà nước phụ thuộc và chịu sự kiểm soát của quyền lực nhân dân.

Quyền lực nhà nước là thống nhất. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước xuất phát từ nguyên lý chủ quyền nhân dân. Nhân dân, bằng quyền lực của mình thiết lập ra Nhà nước, ủy quyền cho Nhà nước thực hiện quyền lực nhân dân. Quyền lực nhà nước, xét về bản chất, là loại quyền lực không thể phân chia, chỉ thuộc về chủ thể duy nhất là nhân dân và được thống nhất ở nhân dân.

Sự phân chia hoặc phân công giữa các bộ phận, phạm vi, lĩnh vực, loại quyền lực nhà nước mang tính chất kỹ thuật tổ chức, phân công lao động quyền lực để thực hiện quyền lực nhà nước có hiệu quả, đúng quỹ đạo của nó, phản ánh được ý chí của nhân dân và không làm phương hại đến chủ quyền nhân dân.

Quyền lực nhà nước được phân chia hoặc phân công theo chiều ngang và theo chiều dọc. Theo chiều ngang quyền lực nhà nước được phân thành: quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp, quyền giám sát. Theo chiều dọc quyền lực nhà nước được phân thành: quyền lực trung ương, quyền lực địa phương.

Trong nhận thức phổ quát, quyền tư pháp được giải nghĩa là một trong ba bộ phận, phạm vi, lĩnh vực, loại quyền lực nhà nước: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Quyền tư pháp chỉ thuộc về Tòa án.

Dựa trên nhận thức chung về quyền lực, theo quan điểm của chúng tôi, quyền tư pháp được hiểu là khả năng và năng lực riêng có của Tòa án trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử và các thẩm quyền khác theo phương thức nhất định để tác động đến hành vi của con người và các quá trình phát triển xã hội.

Đây là quan niệm khái quát nhất về quyền tư pháp mà ở đó chỉ rõ các bộ phận cấu thành quan trọng nhất của quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp. Đó là: quyền tư pháp là khả năng và năng lực riêng có của Toà án; quyền tư pháp được thực hiện bằng việc thực hiện thẩm quyền xét xử và các thẩm quyền khác; quyền tư pháp được thực hiện bằng phương thức tố tụng tư pháp; quyền tư pháp và việc thực hiện quyền tư pháp tác động đến hành vi của con người và các quá trình phát triển xã hội. Nội dung của các bộ phận cấu thành quan trọng đó được nhận thức cụ thể thông qua việc phân tích bản chất, phạm vi, nội dung, chủ thể, phương thức và thể chế hoá quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp.

Bản chất của quyền tư pháp. Quyền tư pháp mang bản chất dân chủ và pháp quyền, thể hiện ở xét xử và phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp, xung đột trong xã hội. Bản chất dân chủ thể hiện ở chổ quyền tư pháp là quyền lực của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bản chất pháp quyền thể hiện ở chổ quyền tư pháp là quyền lực gắn liền với quyền con người, quyền công dân và pháp luật. Bản chất dân chủ và pháp quyền được thể hiện tập trung ở việc xét xử và phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp, xung đột trong xã hội.

Phạm vi của quyền tư pháp. Phạm vi của quyền tư pháp thể hiện ở phạm vi các quyền năng của quyền tư pháp và phạm vi của từng quyền năng thuộc quyền tư pháp. Theo nội dung, phạm vi của quyền tư pháp bao quát hết các quyền năng thuộc quyền tư pháp: quyền năng xét xử và các quyền năng khác. Theo tiến trình tố tụng, phạm vi của quyền tư pháp bao gồm từ hoạt động khởi kiện, khởi tố đến xét xử và kết thúc ở việc thi hành xong bản án, quyết định của Toà án. Như vậy, quyền tư pháp có phạm vi quyền năng rộng lớn như vốn có của nó.

Nội dung của quyền tư pháp. Nội dung của quyền tư pháp bao gồm các thẩm quyền: xét xử và phán quyết về các tranh chấp, xung đột trong xã hội; giải thích pháp luật; tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng pháp luật; xây dựng và phát triển án lệ; xây dựng và phát triển cộng đồng Thẩm phán; kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các quyết định và hoạt động của các cơ quan nhà nước và của những người có chức vụ, quyền hạn; bảo đảm việc thi hành và chấp hành các bản án, các quyết định khác.

Các thẩm quyền trên có tính độc lập tương đối, có mối liên hệ, tương tác, bổ sung cho nhau. Không được đồng nhất thẩm quyền xét sử và phán quyết với các thẩm quyền khác thuộc quyền tư pháp; không được coi các thẩm quyền khác đó là các yếu tố bổ trợ của thẩm quyền xét xử và phán quyết. Các thẩm quyền khác thuộc quyền tư pháp có mối liên hệ chặt chẽ với thẩm quyền xét xử và phán quyết và tạo điều kiện cho việc thực hiện tốt thẩm quyền xét xử và phán quyết.

Chủ thể của quyền tư pháp, của thực hiện quyền tư pháp. Quyền tư pháp thuộc về Toà án, do vậy, chủ thể của quyền tư pháp hay cơ quan thực hiện quyền tư pháp là Toà án. Ở đây có một logic quyền lực: quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, do vậy, chủ thể của quyền lập pháp là Quốc hội, chủ thể thực hiện quyền lập pháp là Quốc hội; quyền hành pháp thuộc về Chính phủ, do vậy, chủ thể của quyền hành pháp là Chính phủ, chủ thể thực hiện quyền hành pháp là Chính phủ; quyền tư pháp thuộc về Toà án, do vậy, chủ thể của quyền tư pháp là Toà án, chủ thể thực hiện quyền tư pháp là Toà án. Khái niệm “Toà án”, theo Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, được dùng để chỉ một cơ quan, bất kể nó được gọi tên là gì, được thiết lập theo luật, độc lập với quyền lập pháp và hành pháp và được trao sự độc lập tư pháp đặc biệt để quyết định khía cạnh pháp lý trong các vụ kiện. Ở nước ta, Tòa án được hiểu là một hệ thống các Tòa án được hình thành phù hợp với mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được đặt ra đối với các Tòa án. Toàn bộ hệ thống Tòa án ở nước ta là một hệ thống thống nhất, bao gồm các cấp toà án và các cấp xét xử.

Các chủ thể hay các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp ở nước ta là Cơ quan điều tra; Viện Kiểm sát; Cơ quan thi hành án; Các cơ quan, tổ chức khác theo quy định.

Phương thức thực hiện quyền tư pháp. Quyền tư pháp được thực hiện bằng những phương thức nhất định. Những phương thức thực hiện quyền tư pháp là những trình tự, thủ tục, hoạt động thực hiện quyền tư pháp. Những phương thức thực hiện quyền tư pháp được gọi một cách khái quát là các loại tố tụng và các loại hoạt động tố tụng. Đó là: Tố tụng hiến pháp và các hoạt động tố tụng hiến pháp; Tố tụng hình sự và các hoạt động tố tụng hình sự; Tố tụng dân sự và các hoạt động tố tụng dân sự; Tố tụng hành chính và các hoạt động tố tụng hành chính; Tố tụng kinh tế và các hoạt động tố tụng kinh tế; Tố tụng lao động và các hoạt động tố tụng lao động; các tố tụng khác và các hoạt động tố tụng khác.

Từng loại tố tụng và hoạt động tố tụng đó được quy định khá cụ thể, rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật tương ứng. Đó là Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật khác.

Thể chế hoá quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp. Quyền tư pháp và hệ thống các cơ quan thực hiện và tham gia thực hiện quyền tư pháp, phương thức thực hiện quyền tư pháp được thể chế hoá bằng Hiến pháp và các đạo luật. Quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp được thể chế hoá chi tiết, cụ thể, chặt chẽ, rõ ràng, minh bạch trong chế độ pháp luật về tư pháp.

Ở nước ta, quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp là vấn đề mang tính chính trị – pháp lý, tính cương lĩnh, tính hiến pháp.

Đảng ta khẳng định và ghi nhận trong Cương lĩnh: Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công dân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Trong Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 Đảng ta chỉ rõ: xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét sử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.

Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hoá quan điểm chính trị – pháp lý đó của Đảng ta tại Điều 2 như sau:

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Tiếp đến, Hiến pháp năm 2013, Điều 102, quy định:

Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.

Toà án nhân dân gồm Toà án nhân dân tối cao và các Toà án khác do luật định.

Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Đó là một thành tựu của đổi mới tư duy chính trị – pháp lý của Đảng ta, là một thành tựu của lập hiến Việt Nam, thể hiện rõ nhất ở tính thống nhất của quyền lực nhà nước, ở việc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước, ở việc khẳng định quyền tư pháp thuộc về Toà án.

Như vậy, quyền tư pháp là một giá trị, một bộ phận, phạm vi, lĩnh vực, một loại quyền lực nhà nước; quyền tư pháp là độc lập, chỉ thuộc về Toà án, có mối tương tác với quyền lập pháp, quyền hành pháp; quyền tư pháp được thực hiện bằng phương thức tố tụng tư pháp; quyền tư pháp gắn liền với việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

1.2. Các đặc trưng của quyền tư pháp

– Các đặc trưng phổ quát của quyền tư pháp

Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của quyền tư pháp trong tiến trình phát triển của xã hội loài người có thể rút ra các đặc trưng mang tính phổ quát của quyền tư pháp như sau: tính độc lập, tính đối trọng, sự kiểm soát của quyền tư pháp đối với quyền lập pháp và quyền hành pháp, tính phi chính trị.

– Các đặc trưng của quyền tư pháp ở Việt Nam

Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển quan niệm về quyền tư pháp và hiện thực quyền tư pháp hiện nay ở nước ta có thể nêu lên các đặc trưng (đặc điểm) của quyền tư pháp hiện nay ở Việt Nam như sau: tính độc lập, tính thống nhất, tính phối hợp, sự kiểm soát của quyền tư pháp đối với quyền hành pháp, tính chính trị (do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo).

Chúng tôi cho rằng, quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp hiện nay ở Việt Nam có hai đặc trưng mang tính phổ quát theo quan niệm phổ quát hiện nay trên thế giới về quyền tư pháp là: tính độc lập, sự kiểm soát của quyền tư pháp đối với quyền hành pháp.

Các đặc trưng mang tính đặc thù của quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp hiện nay ở Việt nam là: tính thống nhất, tính phối hợp, quyền tư pháp chưa kiểm soát quyền lập pháp, tính chính trị  (do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo).

Tất nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, mức độ của tính độc lập, mức độ của sự kiểm soát của quyền tư pháp đối với quyền hành pháp ở nước ta cũng không giống như ở các nước theo chế độ phân quyền tuyệt đối.

Xét trên phương diện nghiên cứu, hiện nay, các nhà luật học nước ta có nhiệm vụ quan trọng là nghiên cứu để luận giải, làm sáng tỏ một cách sâu sắc, toàn diện, hệ thống về các đặc trưng nói trên của quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp hiện nay và các xu hướng vận động của chúng trong thời gian tới để từ đó đưa ra các giải pháp cũng cố, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của quyền tư pháp và của thực hiện quyền tư pháp. Thực hiện nhiệm vụ này có ý nghĩa nhận thức lý luận rất quan trọng đối với việc hiểu biết lý luận về quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp ở nước ta hiện nay.

Tính độc lập của quyền tư pháp và của thực hiện quyền tư pháp

  Tính độc lập của quyền tư pháp là đặc trưng cốt lõi của quyền tư pháp hay nói cách khác là đặc trưng của đặc trưng. Đồng thời, tính độc lập của quyền tư pháp cũng là một giá trị cốt lõi của quyền tư pháp. Trong số các đặc trưng phổ biến của quyền tư pháp trong mọi Nhà nước pháp quyền thì tính độc lập của quyền tư pháp là đặc trưng vốn có, không thể thiếu. Thiếu tính độc lập thì không thể có quyền tư pháp. Tính độc lập không được bảo đảm đầy đủ thì không thể có quyền tư pháp đúng nghĩa của nó. Quyền tư pháp được độc lập để thực hiện chức năng rất quan trọng của quyền lực nhà nước là áp dụng pháp luật đúng đắn, thực hiện xét xử để bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật và khôi phục các quyền đã bị xâm phạm. Tính độc lập của Toà án, tất yếu, dẫn đến tính độc lập của thực hiện quyền tư pháp.

Tính độc lập của quyền tư pháp và của thực hiện quyền tư pháp thể hiện ở những nội dung sau: độc lập về vị trí, vai trò trong cơ chế quyền lực nhà nước; độc lập về quyền năng; độc lập về chủ thể thực hiện: độc lập của Toà án, độc lập của Thẩm pháp và hội thẩm nhân dân khi xét xử; độc lập về phương thức thực hiện quyền năng: tố tụng tư pháp; chỉ tuân theo pháp luật; độc lập trong việc đưa ra phán quyết (bản án, quyết định); nghiêm cấm mọi sự can thiệp, mọi sự gây áp lực. Nói cách khác, đó là độc lập về tổ chức và độc lập về hoạt động.

Độc lập về vị trí tức là quyền tư pháp có vị trí riêng trong cơ chế quyền lực nhà nước, không bị “hoà lẫn”, “hoà tan” trong quyền lập pháp, quyền hành pháp và ngược lại; quyền tư pháp có một vị trí độc lập như vị trí độc lập của quyền lập pháp, vị trí độc lập của quyền hành pháp. Nói cách khác, quyền tư pháp có “chổ đứng độc lập” trong cơ chế quyền lực nhà nước.

Độc lập về vai trò nghĩa là quyền tư pháp có vai trò riêng của mình trong cơ chế quyền lực nhà nước, tức là có sự tác động quyền lực riêng, có chức năng riêng , có mối liên hệ tương tác với hai lĩnh vực quyền lực còn lại là quyền lập pháp và quyền hành pháp.

Độc lập về quyền năng nghĩa là quyền tư pháp bao gồm các quyền năng riêng có của mình: quyền năng xét xử và phán quyết, quyền năng giải thích pháp luật, quyền năng tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất trong cả nước, quyền năng xây dựng và phát triển án lệ, quyền năng xây dựng và phát triển cộng đồng thẩm phán, quyền năng giám sát thi hành án.

Độc lập về chủ thể thực hiện: độc lập của Toà án, độc lập của Thẩm pháp, Hội thẩm nhân dân. Toà án là một hệ thống các cơ quan độc lập trong hệ thống các cơ quan nhà nước, có chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu của mình; Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập.

Độc lập của mỗi cấp xét xử theo thẩm quyền: hệ thống các Toà án bao gồm những cấp xét xử theo thẩm quyền tố tụng đã được quy định; khi xét xử các Hội đồng xét xử hoàn toàn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Ở Toà án chỉ có quan hệ giữa Toà “cấp cao hơn” và “cấp thấp hơn” về thẩm quyền tố tụng mà không có “Toà cấp trên” và “Toà cấp dưới” theo thẩm quyền tố tụng.

Độc lập về phương thức thực hiện quyền: quyền tư pháp được thực hiện bằng phương thức riêng có của mình là tố tụng tư pháp với tư cách là các loại tố tụng tư pháp và các hoạt động tố tụng tư pháp được quy định rất rõ ràng, minh bạch, cụ thể, chặt chẽ.

Tính tuân thủ pháp luật, tính tự quyết định, tự chịu trách nhiệm trước công lý, trước pháp luật: hoạt động xét xử là một loại hoạt động áp dụng pháp luật, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật; Toà án độc lập trong việc đưa ra phán quyết (bản án, quyết định) và tự chịu trách nhiệm trước công lý, trước pháp luật về phán quyết do mình đưa ra.

Tính không được can thiệp có nghĩa là không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào có quyền can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm; nghiêm cấm mọi sự gây áp lực đối với Toà án, Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử.

Tính thống nhất, tính phối hợp của quyền tư pháp ở nước ta

Tính thống nhất của quyền tư pháp ở nước ta thể hiện ở chổ quyền lực nhà nước là thống nhất: thống nhất về bản chất, về mục tiêu, về định hướng hoạt động, bởi vì quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; sự thống nhất không có nghĩa là giao cho một cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước; kỹ thuật tổ chức và thực hiện quyền lực là có sự phân công, phối hợp, giám sát để thực hiện quyền lực nhà nước đúng quỷ đạo, hiệu quả.

 Quyền lực nhân dân được hình thành dựa trên nguyên lý chủ quyền nhân dân, quyền lực nhân dân là quyền lực tối cao và là quyền lực gốc trong xã hội dân chủ; nhân dân trực tiếp thực hiện một phần quyền lực, ủy thác thực hiện quyền lực và kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực đã được ủy thác. Quyền lực nhà nước là một bộ phận của quyền lực nhân dân được hình thành thông qua sự đồng thuận ủy quyền của nhân dân bằng chủ nghĩa lập hiến. Bằng Hiến pháp Nhân dân uỷ thác cho Nhà nước thực hiện một phần quyền lực của mình.

Quyền lực nhà nước là quyền lực ủy quyền của nhân dân; quyền lực nhân dân quyết định mục tiêu, phạm vi, nội dung, cách thức sử dụng quyền lực nhà nước; quyền lực nhà nước phụ thuộc và chịu sự kiểm soát của quyền lực nhân dân.

Quyền lực nhà nước là thống nhất. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước xuất phát từ nguyên lý chủ quyền nhân dân. Nhân dân, bằng quyền lực của mình thiết lập ra Nhà nước, ủy quyền cho Nhà nước thực hiện quyền lực nhân dân. Quyền lực nhà nước, xét về bản chất, là loại quyền lực không thể phân chia, chỉ thuộc về chủ thể duy nhất là nhân dân và được thống nhất ở nhân dân.

Sự phân chia hoặc phân công giữa các bộ phận, phạm vi, lĩnh vực, loại quyền lực nhà nước mang tính chất kỹ thuật tổ chức để thực hiện quyền lực nhà nước có hiệu quả, đúng quỹ đạo của nó, phản ánh được ý chí của nhân dân và không làm phương hại đến chủ quyền nhân dân.

Quyền lực nhà nước được phân chia hoặc phân công theo chiều ngang và theo chiều dọc. Theo chiều ngang quyền lực nhà nước được phân thành: quyền lập hiến, quyền lập pháp; quyền hành pháp; quyền tư pháp; quyền giám sát. Theo chiều dọc quyền lực nhà nước được phân thành: quyền lực trung ương; quyền lực địa phương.

Quyền tư pháp được giải nghĩa là một trong ba bộ phận, phạm vi, lĩnh vực, loại quyền lực nhà nước: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Quyền tư pháp thuộc về Tòa án.

Tính phối hợp của quyền tư pháp ở nước ta được hiểu ít nhất ở hai phương diện: 1, sự phối hợp của quyền tư pháp với quyền lập pháp, với quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực thống nhất; 2, sự phối hợp của cơ quan tư pháp (Toà án) với các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp (Viện kiểm sát, cơ quan công an, cơ quan thi hành án). Có thể gọi đó là sự phối hợp bên ngoài và sự phối hợp bên trong. Đây là đặc trưng riêng của quyền tư pháp ở nước ta. Vấn đề đặt ra ở đây là phối hợp ở đâu và phối hợp như thế nào, mối quan hệ giữa tính phối hợp và bảo đảm tính độc lập của quyền tư pháp. Trong mọi trường hợp, tính phối hợp của quyền tư pháp và của thực hiện quyền tư pháp không được phương hại đến tính độc lập của quyền tư pháp và của thực hiện quyền tư pháp, bởi lẽ, tính độc lập là đặc trưng cốt lõi, giá trị cốt lõi của quyền tư pháp. Ở các nước thực thi quyền lực nhà nước theo chế độ phân quyền không có đặc trưng này, ở đó quyền tư pháp cân bằng, đối trọng với quyền lập pháp, với quyền hành pháp, Toà án là trọng tài của bên buộc tội và bên giở tội, không phối hợp với bên nào trong tố tụng tư pháp.

Sự kiểm soát của quyền tư pháp đối với quyền lập pháp, đối với quyền hành pháp

Sự kiểm soát của quyền tư pháp đối với quyền lập pháp được thể hiện tập trung ở vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Toà án Hiến pháp, tức là chức năng giám sát, bảo vệ Hiến pháp. Toà án Hiến pháp có quyền năng kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật đã được ban hành, có quyền coi một đạo luật nào đó do Quốc hội (Nghị viện) ban hành là vi hiến. Cơ chế chung bảo vệ Hiến pháp ở nước ta được ghi nhận Điều 119 Hiến pháp Việt Nam năm 2013. Theo đó, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.

Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật quy định.

Như vậy, Hiến pháp nước ta đã tạo ra cơ sở hiến định cho sự thành lập cơ chế chuyên trách bảo vệ Hiến pháp, nhưng đến nay ở nước ta vẫn chưa có cơ chế chuyên trách giám sát, bảo vệ Hiến pháp. Đó là sự chậm trể cần sớm được khắc phục.

 Sự kiểm soát của quyền tư pháp đối với quyền hành pháp thể hiện ở việc tổ chức và hoạt động của tư pháp hành chính: phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định của các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn trong việc thực hiện quyền hành pháp. Ở phương diện này, sự kiểm soát của quyền tư pháp ở nước ta đối với quyền hành pháp vẫn chưa đầy đủ: chưa phán quyết về tính hợp pháp của các văn bản do Chính phủ ban hành.

Tính chính trị

Trong các chế độ đa nguyên, quyền tư pháp không mang tính chính trị, không thuộc về Đảng phái chính trị nào. Trong chế độ nhất nguyên chính trị, quyền tư pháp là một bộ phận của quyền lực chính trị. Ở nước ta, quyền tư pháp mang tính chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo đối với quyền tư pháp. Đây là đặc trưng đặc thù của quyền tư pháp ở nước ta. Vấn đề quan trọng ở đây là lãnh đạo làm sao để vẫn bảo đảm được tính độc lập của quyền tư pháp. Lãnh đạo về mặt tổ chức như thế nào? Lãnh đạo về mặt hoạt động như thế nào? Quyền tư pháp có giám sát quyền lực chính trị hay không?

Quyền tư pháp và hệ thống tư pháp

Hệ thống tư pháp là hệ thống tổ chức các cơ quan tư pháp, các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp và hệ thống các thủ tục tư pháp.

Ở nước ta, nói đến hệ thống tư pháp trước hết là nói đến các cơ quan xét xử và các cơ quan thực hiện các hoạt động tư pháp khác tham gia thực hiện quyền tư pháp như cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án và các cơ quan khác theo quy định của pháp luật.

Hệ thống các cơ quan xét xử là hệ thống Toà án nhân dân, bao gồm Toà án nhân tối cao và các Toà án khác do luật định, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định để thực hiện đầy đủ và hiệu quả các đòi hỏi được đặt ra đối với quyền tư pháp.

Toà án giữ vị trí trung tâm trong hệ thống tư pháp và hoạt động xét xử đóng vai trò trọng tâm trong hoạt động tư pháp.

Vì sao Toà án giữ vị trí trung tâm trong hệ thống tư pháp? Bởi vì, chức năng xét xử là chức năng duy nhất, riêng có của Toà án và chỉ thuộc về Toà án. Điều đó có nghĩa rằng, ngoài các Toà án được Hiến pháp và luật quy định, không một thiết chế nhà nước nào khác có quyền xét xử và đưa ra phán quyết. Các cơ quan hoạt động trong phạm vi quyền tư pháp chỉ tham gia thực hiện quyền tư pháp, tham gia xét xử, chứ không phải là chủ thể quyền tư pháp, chủ thể xét xử. Do vậy, Hiến pháp nước ta quy định: Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp (Điều 102 Hiến pháp năm 2013). Toà án là chủ thể trung tâm của thực hiện quyền tư pháp, của hoạt động xét xử.

Vì sao hoạt động xét xử đóng vai trò trọng tâm trong hoạt động tư pháp? Hoạt động xét xử là hoạt động chỉ do Toà án thực hiện và xét xử là nơi tạo ra sự tự do tranh luận, tự do trình bày quan điểm, chứng cứ của các bên: bên buộc tội và bên bào chữa. Toà án là chủ thể trọng tâm của hoạt động xét xử, là chủ thể tạo điều kiện và làm trọng tài cho các hoạt động tố tụng nói trên. Chỉ trong tố tụng tranh tụng hoạt động xét xử do Toà án tiến hành mới đóng vai trò trọng tâm.

2. Về chế độ tư pháp

– Quyền tư pháp và chế độ tư pháp

Quyền tư pháp thể hiện tập trung trong chế độ tư pháp, quyết định các đặc điểm, nội dung của chế độ tư pháp. Quyền tư pháp là trung tâm của chế độ tư pháp, của nền tư pháp. Quyền tư pháp là vấn đề mang tính chính trị – pháp lý, tính cương lĩnh, tính hiến pháp, do vậy, chế độ tư pháp cũng mang tính chính trị – pháp lý, tính cương lĩnh, tính hiến pháp. Chế độ tư pháp có thể được xem xét trên các phương diện: chính trị, xã hội, pháp luật.

Chế độ tư pháp mang tính chính trị, tức là được xem xét trên phương diện chính trị. Điều này có nghĩa rằng, chế độ tư pháp là một bộ phận hợp thành của chế độ nhà nước, một bộ phận hợp thành của chế độ chính trị. Nếu như chế độ nhà nước thông thường được hiểu là tổng thể các phương tiện, biện pháp, giải pháp, phương pháp, phương thức thực hiện quyền lực nhà nước, thì chế độ chính trị được hiểu là tổng thể các phương tiện, biện pháp, giải pháp, phương pháp, phương thức thực hiện quyền lực chính trị. Chế độ chính trị và chế độ nhà nước phản ánh yếu tố nội dung của việc thông qua và thực thi các quyết định chính trị, quyết định quản lý, đem đến cho đời sống chính trị, đời sống nhà nước tính định hướng nhất định, trực tiếp quyết định các đặc điểm cơ bản, trạng thái các thuộc tính chung, các thông số của chế độ chính trị, của chế độ nhà nước.

Chế độ tư pháp, suy cho cùng, là sản phẩm hoạt động của Nhà nước. Mặt khác, chính với sự trợ giúp của chế độ tư pháp mà chế độ nhà nước và chế độ chính trị được khẳng định về mặt thực tế và hoạt động về mặt hiện thực, bởi vì, chế độ nhà nước và chế độ chính trị cần phải được bảo vệ bằng chế độ tư pháp. Nói cách khác, chế độ tư pháp bảo vệ chế độ chính trị, chế độ nhà nước.

Mọi Đảng chính trị cầm quyền đều coi quyền tư pháp, chế độ tư pháp là một trong những vấn đề cơ bản, quan trọng trong đường lối, chủ trương của mình và ghi nhận trong Cương lĩnh của mình. Do vậy, cần phải quan tâm đến phương diện chính trị trong quá trình xây dựng và phát triển quyền tư pháp, chế độ tư pháp một cách thực chất, đúng mức.

Chế độ tư pháp mang tính chất xã hội, tức là được xem xét trên phương diện xã hội. Điều này có nghĩa rằng, chế độ tư pháp là một bộ phận của mọi chế độ xã hội có giai cấp, gắn liền với công lý trong xã hội. Chế độ tư pháp là hiện thân, duy trì, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân. Chế độ tư pháp phát triển chỉ có thể có trong Nhà nước pháp quyền, trong xã hội pháp quyền.

Chế độ tư pháp mang tính pháp lý, tức là được xem xét trên phương diện pháp lý. Điều này có nghĩa rằng, chế độ tư pháp là một loại chế độ pháp luật. Loại chế độ pháp luật này được gọi là chế độ pháp luật về tư pháp. Chế độ pháp luật về tư pháp tồn tại giống như chế độ pháp luật về lập pháp, chế độ pháp luật về hành pháp. Mọi Đảng chính trị cầm quyền, mọi Nhà nước đều coi quyền tư pháp, chế độ tư pháp là một trong những vấn đề mang tính quyền lực nhà nước và ghi nhận trong Hiến pháp. Cũng tương tự như nói trên, cần phải quan tâm đặc biệt đến phương diện pháp lý trong quá trình xây dựng và phát triển quyền tư pháp, chế độ tư pháp.

 Chế độ tư pháp là vấn đề có ý nghĩa tư tưởng, chính trị, lý luận và thực tiễn  quan trọng, nhưng chưa được luận giải cơ bản ở nước ta hiện nay. Để xây dựng được một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa như Đảng ta đã chủ trương cần phải luận giải sâu sắc trên phương diện lý luận và thực tiễn về chế độ tư pháp để từ đó có được tư duy, nhận thức đúng đắn chỉ đạo cho hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực tư pháp.

 Chế độ tư pháp và nền tư pháp

Dưới dạng khái quát nhất, có thể hiểu nền tư pháp là lĩnh vực tư pháp, là đời sống tư pháp, là nền tảng vững chắc xây dựng nên quyền tư pháp.

Chế độ tư pháp, chế độ tư pháp phát triển, ở một phương diện nhất định, cũng được hiểu là nền tư pháp, nền tư pháp phát triển. Theo logic này, chế độ kinh tế cũng được hiểu là nền kinh tế, nền kinh tế phát triển, chế độ chính trị cũng được hiểu là nền chính trị, nền chính trị phát triển. Do vậy, dưới đây chúng tôi phân tích chế độ tư pháp, chế độ tư pháp phát triển với tư cách là nền tư pháp, nền tư pháp phát triển.

Chế độ tư pháp phát triển được hiểu là chế độ tư pháp độc lập, dân chủ, tiến bộ, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, trong sạch, vững mạnh, nghiêm minh, từng bước hiện đại, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, hội nhập quốc tế và tiếp thu tinh hoa tư pháp nhân loại.

Chế độ pháp luật về tư pháp

Chế độ pháp luật về tư pháp do bản chất, vai trò, vị trí, các chức năng và các nhiệm vụ của quyền tư pháp quy định. Chế độ pháp luật về tư pháp là phương thức pháp lý tổ chức nên quyền tư pháp trong một quốc gia, là cơ sở pháp luật cho việc thiết kế nên tổ chức và sự vận hành của quyền tư pháp, là tiêu chuẩn để đánh giá tính chính đáng, tính chính danh, tính hợp hiến, tính hợp pháp của quyền tư pháp, của thực hiện quyền tư pháp.

Chúng tôi cho rằng, có thể hiểu chế độ pháp luật về tư pháp là: 1, tổng thể các phương tiện, biện pháp, phương pháp, phương thức thể hiện quyền tư pháp; 2, trật tự điều chỉnh pháp luật đối với đời sống quyền tư pháp; 3, hệ thống các đòi hỏi, các quy phạm, các nguyên tắc, các quy tắc bắt buộc được quy định đối với hoạt động thực hiện quyền tư pháp; 4, một trạng thái , địa vị, quy chế của quyền tư pháp, của chủ thể quyền tư pháp. Nói cách khác, chế độ pháp luật về tư pháp là chế độ dựa vào sự trợ giúp của pháp luật để thể hiện và thực hiện quyền tư pháp.

Chế độ pháp luật về tư pháp có các dấu hiệu đặc trưng sau đây:

Chế độ pháp luật về tư pháp do Hiến pháp và luật quy định và được Nhà nước bảo hộ;

Chế độ pháp luật về tư pháp có mục tiêu thể chế hóa một cách đặc thù các quan hệ pháp luật về quyền tư pháp, xác định các chủ thể và khách thể của quyền tư pháp, về tổ chức và thực hiện quyền tư pháp;

Chế độ pháp luật về tư pháp là trật tự điều chỉnh pháp luật đặc biệt, bao gồm tổng thể và sự kết hợp các phương tiện pháp lý nhất định;

Chế độ pháp luật về tư pháp tạo ra cơ sở pháp luật: pháp luật vật chất, pháp luật tố tụng, pháp luật về tổ chức, pháp luật về nhân lực tư pháp cho việc thực thi quyền tư pháp.

Chế độ pháp luật về tư pháp, trước hết, được quyết định bởi công lý, quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, chế độ xã hội chủ nghĩa,. Chế độ pháp luật về tư pháp trả lời câu hỏi: vì sao phải có chế độ tư pháp, chế độ tư pháp để cho cái gì và chế độ tư pháp cần cho ai, chế độ tư pháp có thể đạt được mục tiêu như thế nào.

Chế độ pháp luật về tư pháp cũng có thể được coi là “một khối được hợp lại lớn hơn” kho tàng các công cụ pháp luật, kết nối mang tính tổ hợp các phương tiện pháp luật nhất định thành một cấu trúc pháp luật thống nhất để ghi nhận, thể hiện và thực hiện quyền tư pháp. Điều đó thể hiện ở chổ, cần thiết kế chế độ pháp luật tối ưu để giải quyết những nhiệm vụ đặc trưng của quyền tư pháp. Điều đó có nghĩa rằng, cần phải sử dụng các phương tiện pháp luật để thiết kế chế độ pháp luật phù hợp với vai trò, vị trí, các đặc trưng, chức năng, nhiệm vụ, quyền năng, thẩm quyền, nội dung, chủ thể, phương thức thực hiện quyền tư pháp.

Chế độ pháp luật về tư pháp bảo đảm cho sự điều chỉnh quy phạm vững chắc một nhóm các quan hệ xã hội nhất định – các quan hệ trong lĩnh vực tư pháp, một bộ phận nhất định của đời sống xã hội – lĩnh vực tư pháp. Chính các phương tiện pháp luật, khi đã được kết hợp với nhau, xác định tính đặc trưng của chế độ pháp luật về tư pháp, chỉ ra định hướng đặc biệt của sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội trong lĩnh vực tư pháp. Và điều đó được các chủ thể của chính sách pháp luật, trước hết, các chủ thể của chính sách xây dựng pháp luật sử dụng khi quy định chế độ pháp luật về tư pháp trong các văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở cân nhắc tiềm năng như vậy của chế độ pháp luật về tư pháp, các chủ thể của chính sách pháp luật sử dụng chế độ đó với tư cách là các phương tiện của chính sách pháp luật về tư pháp đang được xây dựng và đang được thực hiện, thay đổi chế độ đó (tùy thuộc vào tình huống và hoàn cảnh khác nhau), các phương thức và các phương pháp khác nhau của điều chỉnh pháp luật. Việc sử dụng loại chế độ pháp luật về tư pháp có thể được đặt ra tùy thuộc vào các chủ thể của các quan hệ xã hội được điều chỉnh trong lĩnh vực tư pháp.

Chế độ pháp luật về tư pháp là một phạm trù tổ hợp bao gồm nhiều chế độ pháp luật cụ thể: chế độ pháp luật về tổ chức quyền tư pháp; chế độ pháp luật về thực hiện quyền tư pháp (hoạt động của quyền tư pháp); chế độ pháp luật về các cơ quan, tổ chức tham gia thực hiện quyền tư pháp; và các chế độ pháp luật khác liên quan đến quyền tư pháp; chế độ pháp luật vật chất, chế độ pháp luật tố tụng.

Việc sử dụng chế độ pháp luật về tư pháp tùy thuộc vào trạng thái các quan hệ xã hội trong lĩnh vực tư pháp và sự quan tâm của Nhà nước về phát triển loại quan hệ xã hội đó. Chúng tôi cho rằng, Nhà nước ta cần đặc biệt quan tâm phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực tư pháp, bởi lẽ, đến nay lĩnh vực quan hệ xã hội này chưa được quan tâm đúng mức như các quan hệ xã hội trong lĩnh vực lập pháp và lĩnh vực hành pháp. Do vậy, cần tiếp tục hoàn thiện chế độ pháp luật về tư pháp để tạo ra cơ sở pháp luật đầy đủ cho việc tổ chức và thực hiện hiệu quả quyền tư pháp, cho việc tiến hành những cải cách trong lĩnh vực này.

Như vậy, bằng khái niệm “chế độ pháp luật về tư pháp” chúng ta làm rõ hơn đặc điểm của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội trong lĩnh vực tư pháp với sự hỗ trợ của các phương tiện pháp luật khác nhau.

3. Về tính công khai, minh bạch, tiếp cận công lý cho người dân của chế độ tư pháp

 – Về tính công khai của chế độ tư pháp

Tính công khai của chế độ tư pháp được hiểu như thế nào? Tính công khai của Toà án được thể hiện ở đâu? Giới hạn của sự công khai có hay không và nếu có thì thể hiện ở đâu?

Quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là công khai, hợp pháp. Quyền tư pháp với tư cách là một trong ba bộ phận, phạm vi, lĩnh vực, loại quyền lực nhà nước, tất yếu, là công khai, hợp pháp. Chế độ tư pháp là công khai, vì xét trên tất cả các phương diện, chế độ tư pháp ghi nhận, thể hiện việc tổ chức và thực hiện quyền tư pháp, do vậy, là công khai, hợp pháp.

Tính công khai của chế độ tư pháp được hiểu một cách khái quát là chế độ tư pháp không giữ kín mà để cho mọi người đều có thể biết. Tính công khai của chế độ tư pháp hàm chứa tính hợp pháp của nó. Tính công khai của chế độ tư pháp bảo đảm để mọi người có thể biết đến, hiểu được, giám sát được quyền tư pháp và việc thực hiện quyền tư pháp, đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm của các chủ thể quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp và các chủ thể tham gia thực hiện quyền tư pháp.

Chúng tôi cho rằng, tính công khai của chế độ tư pháp thể hiện ở các nội dung sau: công khai về chế độ pháp luật về tư pháp; công khai về tổ chức thực hiện quyền tư pháp – tổ chức của Toà án; công khai về hoạt động thực hiện quyền tư pháp – hoạt động của Toà án; công khai về kết quả hoạt động thực hiện quyền tư pháp – kết quả hoạt động của Toà án; công khai về Thẩm phán.

Công khai về chế độ pháp luật về tư pháp là công khai tất cả các văn bản quy phạm pháp luật cấu thành chế độ pháp luật về tư pháp, bao gồm công khai quá trình xây dựng, ban hành, công bố và phổ biến tất cả các văn bản quy phạm pháp luật nói trên; công khai các văn bản của Đảng về tư pháp.

Công khai về tổ chức thực hiện quyền tư pháp, tức là công khai tổ chức của Toà án với tư cách là chủ thể thực hiện quyền tư pháp. Công khai này được hiểu là các Toà án được thiết lập một cách công khai, dựa trên pháp luật, các cơ cấu tổ chức của các Toà án được công khai, nơi làm việc của Toà án được công khai.

Công khai về hoạt động thực hiện quyền tư pháp, tức là công khai hoạt động của Toà án: xét xử công khai. Xét xử công khai chứ không chỉ phiên toà xét xử công khai, bởi lẽ, còn phải công khai cả kết quả xét xử. Xét xử công khai có nội dung rộng hơn, bao gồm phiên toà xét xử công khai.

Toà án xét xử công khai, bằng lời nói, mọi người có quyền tham dự phiên toà, trừ trường hợp do pháp luật quy định. Xét xử công khai bao gồm cả công khai  với báo chí. Điều này bảo đảm tính minh bạch cho phiên toà và cung cấp thông tin cho các bên liên quan và cho xã hội. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Toà án có thể xét xử kín, tức là Toà án không cho phép tất cả hoặc một bộ phận công chúng theo dõi phiên toà nhưng phải tuyên án công khai.

Công khai về kết quả hoạt động thực hiện quyền tư pháp – kết quả hoạt động  của Toà án: công khai các bản án, quyết định; công khai các án lệ; công khai số liệu xét xử hàng năm, bao gồm số liệu tổng thể và số liệu về các loại án. Vấn đề đặt ra ở đây là giới hạn công khai về kết quả hoạt động của Toà án là đến đâu? Đây là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu cả về mặt lý luận cũng như lẫn về mặt thực tiễn cũng như kinh nghiệm nước ngoài.

Công khai về Thẩm phán: công khai về các tiêu chuẩn, phẩm chất của Thẩm phán, về quy trình bổ nhiệm và nhiệm kỳ của Thẩm phán, các biện pháp bảo đảm sự độc lập, bảo vệ Thẩm phán trước những can thiệp từ bên ngoài bằng pháp luật.

 – Về tính minh bạch của chế độ tư pháp

Tương tự như tính công khai, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước phải minh bạch. Quyền tư pháp, với tư cách là một trong ba bộ phận, phạm vi, lĩnh vực, loại quyền lực nhà nước, tất yếu, phải minh bạch. Chế độ tư pháp thể hiện quyền tư pháp, do vậy, phải minh bạch.

Tính minh bạch của chế độ tư pháp có nghĩa là tính rõ ràng, rành mạch, tính hiểu được của chế độ tư pháp. Tính minh bạch của chế độ tư pháp được thể hiện ở sự minh bạch của các quy định pháp luật thuộc chế độ pháp luật về tư pháp, tính minh bạch trong hoạt động của Toà án, tính rõ ràng, tính hiểu được của/về các phán quyết của Toà án.

Tính minh bạch của chế độ tư pháp thể hiện ở việc: minh định rõ ràng, rành mạch vai trò, vị trí của quyền tư pháp trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị, tính rõ ràng, rành mạch về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm, tính rõ ràng, rành mạch về phương thức thực hiện quyền tư pháp.

Tính minh bạch trong hoạt động của Toà án thể hiện ở việc: phân biệt rõ ràng, rành mạch các cấp xét xử, các cấp toà án, phân biệt rõ ràng, rành mạch các loại hoạt động của Toà án: hoạt động xét xử, hoạt động giải thích pháp luật, hoạt động tổng kết và hướng dẫn áp dụng pháp luật, hoạt động xây dựng và phát triển án lệ, hoạt động giám sát thi hành án, hoạt động đào tạo và phát triển đội ngũ Thẩm phán.

Tính rõ ràng, tính hiểu được của/về các phán quyết của Toà án thể hiện ở chổ: các bản án, quyết định của Toà án phải rõ ràng, hiểu được, thực hiện được.

 – Về tiếp cận công lý cho người dân của chế độ tư pháp

Tính tiếp cận công lý cho người dân là một đòi hỏi phổ quát đối với chế độ tư pháp nói chung, đối với Toà án nói riêng.

Tính tiếp cận công lý cho người dân là đòi hỏi của xã hội, của nhân dân, của Nhà nước pháp quyền đối với chế độ tư pháp, đối với Toà án.

Vậy, công lý là gì? Vì sao công lý, tiếp cận công lý lại gắn liền với Toà án?

Dưới dạng khái quát nhất có thể hiểu công lý là một giá trị, là lẽ phải, sự thật, chân lý, công bằng, đạo lý, lợi ích chung của xã hội, pháp luật.

Toà án là hiện thân của công lý, của chế độ tư pháp. Từ trong lịch sử đến nay khi nói đến công lý, nói đến chế độ tư pháp nghĩa là nói đến Toà án. Toà án là biểu tượng của công lý, của chế độ tư pháp. Niềm tin vào công lý là niềm tin vào Toà án. Toà án với tư cách là chủ thể trung tâm của quyền tư pháp có vai trò duy trì và bảo đảm công lý, bảo đảm sự an toàn pháp lý, các quyền con người, các quyền công dân. Toà án là thiết chế bảo vệ công lý tức là bảo vệ các giá trị xã hội chung thông qua xét xử và đưa ra phán quyết về các tranh chấp, xung đột trong xã hội, là cơ quan bảo vệ quyền con người, quyền công dân, là cơ quan bảo vệ pháp luật, phục hồi các quyền đã bị vi phạm. Toà án nhân danh công lý phán quyết về các hành vi vi phạm pháp luật, các tranh chấp, xung đột trong xã hội, buộc các cá nhân, tổ chức chịu sự phán quyết đó thi hành phán quyết đã được đưa ra.

Khi người dân tiếp cận đến Toà án thì điều đó cũng có nghĩa là người dân tiếp cận đến công lý, tin tưởng vào công lý, tìm kiếm công lý ở Toà án. Do vậy, tiếp cận của người dân đến Toà án tức là người dân tiếp cận đến công lý, cần đến công lý.

Tăng cường khả năng tiếp cận công lý cho người dân, tức là tăng cường khả năng của người dân tiếp cận đến Toà án, đến chế độ tư pháp. Điều này đòi hỏi phải tăng cường khả năng từ hai phía: tăng cường khả năng của công dân, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để công dân dễ tiếp cận đến Toà án và xây dựng hệ thống tổ chức và hoạt động của Toà án làm sao để bảo đảm thuận lợi nhất cho việc công dân tiếp cận đến Toà án.

Từ phía công dân, cần thường xuyên nâng cao ý thức pháp luật, năng lực sử dụng pháp luật, xây dựng cơ chế trợ giúp pháp lý cho công dân, xây dựng và cũng cố niềm tin của công dân, của xã hội vào Toà án với tư cách là niềm tin vào công lý, Toà án là nơi tìm kiếm, khẳng định và bảo vệ công lý.

Từ phía Toà án, khẳng định công lý bằng hoạt động xét xử công bằng, bảo đảm sự bình đẳng của các bên trước Toà án, bảo đảm tính khách quan của Thẩm phán, bảo vệ lẽ phải, sự thật, chân lý, đạo lý, quyền con người, quyền công dân, lợi ích chung của xã hội, pháp luật. Chế độ tư pháp phải là chế độ tư pháp hành động, gắn với nhân dân, gần nhân dân, phục vụ nhân dân, bao gồm những Thẩm phán tận tuỵ phục vụ nhân dân, phục vụ công lý.

Để khẳng định và ghi nhận điều đó Hiến pháp Việt Nam năm 2013, Điều 102, khoản 3, quy định: “Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý,…”.

Đây là quy định thể hiện tư duy chính trị – pháp lý mới của nhà lập hiến Việt Nam về quyền tư pháp ở Việt Nam, thể hiện tính phổ quát của quyền tư pháp trên thế giới.

4. Kiến nghị

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp, xu hướng vận động của quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp, kinh nghiệm nước ngoài về lĩnh vực này, chúng tôi có một số kiến nghị để đóng góp cho việc xây dựng các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ta như sau.

4.1. Trên phương diện chính trị, quyền lực chính trị, chúng tôi cho rằng:

– Cần phải coi trọng, đề cao quyền tư pháp đúng thực chất, hiện thực như vốn có của nó trong cơ chế quyền lực chính trị trong điều kiện một Đảng cầm quyền;

– Cần có đại diện của quyền tư pháp trong Bộ Chính trị, trong thường vụ cấp uỷ các cấp tương ứng;

– Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với thực hiện quyền tư pháp: đổi mới chiến lược phát triển tư pháp phù hợp với vai trò, vị trí, đặc trưng, nội dung của quyền tư pháp, tổ chức và phương thức thực hiện quyền tư pháp; chỉ đạo tích cực, sát sao việc đào tạo đội ngũ Thẩm phán đáp ứng các đòi hỏi cao về đạo đức, về chính trị, về chuyên môn nghiệp vụ và các đòi hỏi khác.

4.2. Trên phương diện quyền lực nhà nước, theo quan điểm của chúng tôi:

– Tiếp tục tăng cường quyền tư pháp theo hướng mở rộng thẩm quyền cho Toà án: giao thẩm quyền giải thích pháp luật, mở rộng thẩm quyền xét xử các vi phạm hành chính cho Toà án;

– Giao vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của thiết chế bảo hiến cho Toà án nhân dân tối cao;

– Tăng cường sự giám sát của quyền tư pháp đối với quyền hành pháp và quyền lập pháp;

– Bảo đảm sự cân bằng giữa các lĩnh vực, phạm vi, loại quyền lực trong cơ chế quyền lực nhà nước thống nhất.

4.3. Trên phương diện xã hội, chúng tôi cho rằng:

– Đề cao quyền tư pháp trong xã hội, cũng cố và phát triển niềm tin của xã hội vào Toà án, xây dựng và phát triển niềm tin vào Toà án, tức là xây dựng và phát triển niềm tin vào công lý, cậy nhờ vào công lý;

– Tăng cường công khai hoá, minh bạch hoá mọi hoạt động và kết quả hoạt động của Toà án;

– Tăng cường sự giám sát của xã hội đối với thực hiện quyền tư pháp, xây dựng cơ chế giám sát phù hợp với đặc thù của quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp;

– Hoàn thiện chế định hội thẩm nhân dân để tăng tính dân chủ, tính nhân dân  của hoạt động xét xử; nghiên cứu để áp dụng ở giới hạn phù hợp chế định bồi thẩm đoàn;

– Tăng cường truyền thông về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, hệ thống tư pháp: xây dựng và thực hiện chiến lược truyền thông phù hợp về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp;

– Xây dựng cơ chế phù hợp để giảm áp lực không chính đáng, không hợp pháp từ mọi thiết chế và các chủ thể khác nhau trong xã hội đối với Toà án và Thẩm phán.

4.4. Trên phương diện quyền tư pháp, theo quan điểm của chúng tôi:

– Tăng cường bảo đảm tính độc lập hiện thực của quyền tư pháp trong cơ chế quyền lực: quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước;

– Cũng cố và bảo đảm tính độc lập hiện thực của các cấp xét xử;

– Tăng cường hiệu lực, hiệu quả của quyền tư pháp, của thực hiện quyền tư pháp, tăng cường năng lực thực hiện quyền tư pháp;

– Hoàn thiện chế độ pháp luật về tư pháp đáp ứng các yêu cầu về mục tiêu, quan điểm, nội dung của cải cách tư pháp, các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, xã hội pháp quyền;

– Thành lập Hội đồng tư pháp quốc gia để chăm lo việc xây dựng và phát triển đội ngũ Thẩm phán, có phẩm chất đạo đức, vững về chính trị, có chuyên môn nghiệp vụ chuyên sâu và kinh nghiệm, nâng cao năng lực của đội ngũ Thẩm phán với tư cách là nhân vật trung tâm thực hiện quyền tư pháp;

– Tăng cường các bảo đảm cho quyền tư pháp, chế độ tư pháp: các bảo đảm về tổ chức, các bảo đảm về hoạt động, các bảo về nhân lực, các bảo đảm về nguồn lực.

4.5. Trên phương diện nghiên cứu và đào tạo, chúng tôi cho rằng:

– Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp, tham khảo kinh nghiệm quốc tế về lĩnh vực này để xây dựng lý luận đầy đủ, toàn diện về quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp làm cơ sở cho việc đưa ra các quan điểm chính trị – pháp lý về tiếp tục cải cách tư pháp. Cần đặt ra và triển khai một chương trình nghiên cứu quốc gia về quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp ở nước ta.

– Đổi mới một cách cơ bản, toàn diện về đào tạo Thẩm phán theo hướng chuyên sâu, nâng cao chất lượng, đáp ứng các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền nói chung và quyền trư pháp nói riêng.

 4.6. Trên phương diện chiến lược, theo quan điểm của chúng tôi:

Nghiên cứu xây dựng Chiến lược cải cách tư pháp mới giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045. Chiến lược đó phải đánh giá đúng trạng thái hiện thực, những hạn chế, thiếu sót của quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp hiện nay và xu hướng vận động của quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp ở nước ta trong thời gian tới, xác định rõ hệ mục tiêu, quan điểm, các định hướng, các hình thức, các giải pháp, các nguồn lực và lộ trình thực hiện cải cách tư pháp trên cơ sở đổi mới mạnh mẽ tư duy chính trị – pháp lý về quyền tư pháp và thực hiện quyền tư phápNhững kiến nghị nêu trên cần được tiếp tục nghiên cứu và tham khảo để đưa vào chiến lược nói trên.

GS.TS. VÕ KHÁNH VINH (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam)

Nguồn: Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử (http://tapchitoaan.vn).


Danh mục tài liệu tham khảo

1. Võ Khánh Vinh, Mối quan hệ giữa xã hội – cá nhân – Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền và vai trò của nó trong việc xác định mô hình tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2003.

2. Võ Khánh Vinh, Về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2003.

3. Võ Khánh Vinh, Về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2003.

4. Lê Văn Cảm, Quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, Tạp chí Toà án nhân dân, số 19/2013.

5. Nguyễn Văn Cương, Quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa – những vấn đề đặt ra trong tình hình mới – Mục Nghiên cứu trao đổi, Cổng thông tin điện tử của Bộ tư pháp tháng 5/2013.

6. Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. NXB Lao động xã hội – 2014.

7. Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật. Hà Nội – 2016.

8. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh, Luật sư, TS. Phan Trung Hoài (Đồng chủ biên), NXB Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội – 2018.

9.Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật. Hà Nội – 2013.

10.Luật Tổ chức Toà án năm 2014.

11. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

12. Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 ngày 02 tháng 06 năm 2005.

13. Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.

5/5 - (1 bình chọn)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền