Tìm hiểu về điều kiện trở thành luật sư ở Hoa Kỳ, hình thức hành nghề luật sư ở Hoa Kỳ, Hiệp hội nghề nghiệp của luật sư ở Hoa Kỳ, Luật điều chỉnh hoạt động hành nghề luật sư ở Hoa Kỳ,…
..
Những nội dung liên quan:
- Nguyên tắc và hoạt động hành nghề luật sư ở Việt Nam
- Hình thức và phương thức hành nghề của luật sư
- Sự hình thành, phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam và trên thế giới
- Hành nghề luật sư ở một số nước trên thế giới
..
Điều kiện trở thành luật sư ở Hoa Kỳ
Muốn trở thành luật sư ở Mỹ phải qua một kỳ thi để công nhận là luật sư (Bar examination). Người muốn tham gia kỳ thi này phải tốt nghiệp trường luật (law school). Những người muốn được vào học tại một trường luật phải có một bằng cử nhân có nghĩa là phải tốt nghiệp một trường đại học nào đó trước đó. Bằng luật sư là bằng thứ hai và được gọi là Juris Doctor. Trong quá trình đào tạo tại trường đại học, các cử nhân luật ở Hoa Kỳ đã được trang bị khá đầy đủ những kỹ năng cần thiết đối với nghề luật thông qua nhiều chương trình đào tạo và phương pháp đào tạo luôn luôn được cập nhập theo nhu cầu của xã hội. Đặc biệt, việc đào tạo trong các “Trung tâm hành nghề luật” (Legal Clinic) đã cung cấp cho các luật sư những kỹ năng cơ bản và quan trọng của nghề luật và cho các sinh viên cơ hội được thực hành các kỹ năng này với các vụ việc có thật đã làm cho các luật sư có thể làm việc ngay sau khi ra trường. Đây cũng là một nét đặc trưng của đào tạo luật sư ở Hoa Kỳ và mô hình đào tạo này đã được phổ biến ra nhiều nước trên thế giới. Ngày nay, người ta biết đến mô hình đào tạo này như một phương pháp đào tạo thành công của Hoa Kỳ mặc dù nó được người Đức sáng lập ra và áp dụng vào dạy luật đầu tiên.
Như trên đã nêu, các sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường muốn trở thành luật sư thì phải vượt qua kỳ thi do Hiệp hội luật sư tổ chức. Thường thì điều kiện trở thành luật sư ở Hoa Kỳ do các Thẩm phán quy định. Các Tòa án tối cao bang dựa vào các quy định của Hiến pháp, các đạo luật và tham khảo các quy định của Hiệp hội luật sư Hoa Kỳ (ABA) để quy định điều kiện trở thành luật sư của bang mình.
• Kỳ thi công nhận luật sư được tổ chức một năm hai lần. Đây là kỳ thi viết với nội dung về cả lý thuyết và thực hành. Ngoài ra, thí sinh còn phải trải qua một kỳ thi quốc gia về trách nhiệm nghề nghiệp (đạo đức nghề nghiệp).
• Để được công nhận là luật sư, các bang còn quy định điều kiện cư trú tại bang. Thời gian này được yêu cầu không dài, ví dụ, ở bang Hawaii thời gian này là một năm. Một số bang khác như Florida, Illinois, Louisiana… lại không yêu cầu về thời gian cư trú tại bang. Yêu cầu về thời gian cư trú chỉ áp dụng đối với người lần đầu tiên xin công nhận luật sư tại một bang.
Ở Hoa Kỳ, Tòa án của từng tiểu bang là cơ quan có thẩm quyền công nhận luật sư và cho phép hành nghề luật sư. Cơ quan này sẽ chứng nhận lời tuyên thệ của người xin công nhận luật sư và ghi tên người đó vào danh sách luật sư. Danh sách này được đăng ký tại phòng hành chính của Tòa án. Người xin được công nhận luật sư phải tuyên thệ trước Tòa án tại một phiên tòa xét xử công khai.
Giấy công nhận luật sư và cho phép hành nghề có giá trị vĩnh viễn trừ khi nó bị thu hồi hoặc đình chỉ. Luật sư có trách nhiệm hàng năm gửi báo cáo về tài chính, công việc, đạo đức nghề nghiệp, khóa học đã tham dự v.v. về Ủy ban về khiếu nại và kỷ luật luật sư trực thuộc Tòa án tối cao Bang. Ủy ban này có thể gọi là cơ quan chủ quản của luật sư vì hàng năm luật sư phải nộp phí, báo cáo và chịu kỷ luật (nếu có) của Ủy ban. Việc tham gia các khóa bồi dưỡng kiến thức đối với luật sư là bắt buộc. Hàng năm, luật sư phải tham gia một số khóa học gọi là chương trình đào tạo tiếp tục. Nếu trong vòng 1 đến 2 năm này luật sư không tham dự chương trình đào tạo tiếp tục thì Ủy ban có thể đình chỉ tư cách của luật sư.
Ở Hoa Kỳ, người được công nhận luật sư của bang nào thì chỉ được hành nghề tại bang đó. Tuy nhiên, luật sư đã hành nghề tại một bang có thể xin công nhận và cho phép hành nghề tại bang khác nhưng phải đáp ứng các điều kiện do bang đó quy định. Một số bang không yêu cầu phải tham gia kỳ thi công nhận luật sư và kỳ thi quốc gia về trách nhiệm nghề nghiệp đối với những người có thâm niên thực hành nghề luật, trong đó bao gồm cả những người dạy luật.
Luật sư hành nghề tại Tòa án bang cũng có thể xin công nhận và cho phép hành nghề tại Tòa án liên bang. Thủ tục xin công nhận do Tòa án tối cao liên bang quy định nhưng đơn giản hơn nhiều so với thủ tục xin công nhận và cho phép hành nghề tại Tòa án của các tiểu bang.
Luật điều chỉnh hoạt động hành nghề luật sư ở Hoa Kỳ
Việc ban hành các điều luật điều chỉnh việc hành nghề luật, bao gồm ban hành các luật điều chỉnh đạo đức nghề nghiệp của luật sư và luật cấm hành nghề trái phép, phần lớn là chức năng của Chính phủ. Các hiệp hội luật sư và các hội nghề nghiệp khác, các hiệp hội thương mại, thường là những thành phần tham gia quan trọng trong quá trình thực thi, họ có quyền đưa ra hoặc đe dọa đưa các vụ kiện chống lại những người vi phạm. Các đoàn luật sư, đặc biệt là các đoàn luật sư tiểu bang được quyền thực hiện nhiều việc điều tra, xét xử và thậm chí xử phạt luật sư vi phạm Quy tắc đạo đức hành nghề luật sư. Vai trò của hiệp hội luật sư gần đây đã giảm, nhưng có những bang mà các đoàn luật sư vẫn thường xuyên hợp tác và hỗ trợ Chính phủ trong việc thực thi các đạo luật quy định về trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư và luật điều chỉnh việc hành nghề luật trái phép. Một số hiệp hội luật sư của các bang, đặc biệt là Hiệp hội luật sư Hoa Kỳ (viết tắt là “ABA”) đã thực hiện việc đánh giá và khuyến nghị việc thực thi các đạo luật điều chỉnh hoạt động hành nghề luật sư ở Hoa Kỳ. Một trong những báo cáo như vậy đã nhận được sự quan tâm đáng kể và có một số tác động đến việc cải cách thi hành là của Ủy ban ABA về đánh giá những cải cách trong kỷ luật (1992), thường được gọi là Báo cáo MacCrate1.
Các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý và các tổ chức hành nghề ở Hoa Kỳ phải tuân thủ rất nhiều luật điều chỉnh. Các luật này, với sự thay đổi thường xuyên giữa các khu vực pháp lý của Hoa Kỳ, quy định chung về việc ai có thể cung cấp dịch vụ pháp lý và cho ai; các dịch vụ pháp lý có thể được cung cấp như thế nào; ai có thể áp đặt và thực thi các quy định đối với các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý; và những chế tài nào có thể được áp dụng đối với các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý do vi phạm các quy định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy Hoa Kỳ không đủ nhân viên thực thi việc áp dụng kỷ luật đối với luật sư và những người hành nghề luật trái phép, tuy quá trình này được nhà nước cấp kinh phí cho quá trình thực thi.
Hình thức hành nghề luật sư ở Hoa Kỳ
Sau những cải cách được tiến hành từ năm 1933, nhà nước liên bang can thiệp nhiều hơn vào đời sống kinh tế xã hội, vai trò của Luật sư không ngừng tăng lên vì hệ thống luật của Hoa Kỳ là hệ thống luật không thành văn, là hệ thống luật án lệ, số lượng các bản án, quyết định của Tòa án mang tính án lệ ngày càng nhiều làm cho việc tìm hiểu pháp luật ngày càng khó khăn hơn. Đó là lý do giải thích tại sao trong một hệ thống pháp luật phức tạp như vậy, người dân rất cần đến sự giúp đỡ của luật sư. Luật sư Hoa Kỳ có thể hành nghề trong các công ty hợp danh, văn phòng hoặc các nghề tự do. Ngoài ra, luật sư có thể làm công ăn lương cho Chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức hoạt động phi lợi nhuận v.v.. Với tư cách là luật sư làm công ăn lương (in house lawyer), luật sư có thể chịu trách nhiệm toàn bộ, một phần hoặc không chịu trách nhiệm gì tuỳ theo hợp đồng được hai bên ký kết. Việc xác định thù lao của luật sư hoàn toàn tự do. Luật sư được phép yêu cầu thù lao theo giờ, theo kết quả công việc v.v.. Các luật sư danh tiếng có thể yêu cầu khách hàng trả cho mình hàng nghìn đô la cho mỗi giờ. Đối với các vụ tranh chấp về tài sản, đòi bồi thường thiệt hại, luật sư có thể thoả thuận với khách hàng trả thù lao theo kết quả công việc và nhiều khi thù lao nhận được tới 50% giá trị tranh chấp.
Hình thức tổ chức công ty luật (Law firm) chủ yếu là công ty luật hợp danh bao gồm hợp danh thông thường và hợp danh hữu hạn. Công ty hợp danh thông thường do các luật sư cùng nhau thành lập, điều hành công ty cũng như cùng chịu trách nhiệm và cùng hưởng lợi nhuận thu được. Các luật sư trong công ty hợp danh thông thường chịu trách nhiệm cá nhân và liên đới đối với các nghĩa vụ của công ty. Công ty hợp danh hữu hạn do ít nhất hai luật sư trở lên thành lập, trong đó có ít nhất một luật sư chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty (hội viên nhận vốn), còn các luật sư khác chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp vào công ty (hội viên hùn vốn).
Luật sư có thể mở văn phòng luật sư do cá nhân mình làm chủ, tự quản lý điều hành và chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ của văn phòng. Luật sư có thể hành nghề tự do có nghĩa là luật sư ký kết hợp đồng làm việc cho một văn phòng luật sư hay một công ty luật.
Thông thường theo truyền thống, các luật sư làm việc tại các công ty, hãng luật với tư cách là làm thuê, sau một thời gian, khi đã trở thành luật sư có kinh nghiệm, uy tín, họ được mời trở thành luật sư hợp danh và trở thành các luật sư thành viên cố định của các công ty luật này. Tuy nhiên, với sự thay đổi của nền kinh tế cùng với sự phát triển của kinh doanh, thương mại và đầu tư giữa các nước, các công ty luật cũng có sự biến đổi đáng kể. Từ các công ty luật nhỏ, có tiếng trong phạm vi tiểu bang, có rất nhiều công ty luật đã phát triển đáng kể, có tới hàng nghìn luật sư làm việc và rất nhiều chi nhánh ở các nước khác nhau (mega-lawfirm). Ở Hoa Kỳ có nhiều công ty luật rất lớn có tới hàng ngàn luật sư. Các công ty này hiện nay có xu hướng sáp nhập với nhau thành những công ty khổng lồ không chỉ ở phạm vi một quốc gia mà còn mang tính toàn cầu.1
Một yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến sự thay đổi của các công ty luật là họ phải đối mặt với các chi phí cao trong việc tiếp thị các dịch vụ pháp lý, việc tuyển dụng, đào tạo và duy trì các luật sư có năng lực. Dần dần, một số công ty đã thực hiện các lựa chọn thay thế hình thức liên kết với đối tác truyền thống được hầu hết các luật sư hành nghề tư nhân kết hợp với các luật sư khác. Cùng với việc hình thành và thay đổi quy mô trở thành các công ty luật lớn xuyên quốc gia như đã nêu trên, giới luật sư xuất hiện hình thức luật sư “làm thuê ngắn hạn” hay “làm thuê” (“temporary lawyer” hoặc “staff-lawyer”) và hình thức làm việc này trở nên rất phổ biến trong thời đại ngày nay tại Hoa Kỳ. Các luật sư này được giới thiệu đến làm việc tại các công ty luật hoặc các công ty hoạt động trong các lĩnh vực khác nhưng cần có luật sư làm việc cố định trong một thời gian (in-house) thông qua các công ty giới thiệu việc làm. Nhóm luật sư làm việc theo hình thức này hiện nay khá lớn và phổ biến. Một công ty môi giới việc làm ở New York đã cho biết, họ chỉ đưa ra hai quảng cáo nhưng đã thu hút khoảng một nghìn hồ sơ của ứng cử viên luật sư. Nhóm những luật sư làm thuê này bao gồm sinh viên mới tốt nghiệp trường luật, luật sư mới chuyển chỗ ở hoặc đang chuyển việc, luật sư có con nhỏ, Thẩm phán đã nghỉ hưu, các giảng viên trường luật, những luật sư “kiệt sức” cần làm việc ít thời gian hơn, luật sư tìm kiếm công việc không vì kinh tế mà vì lòng yêu nghề…
Sự đa dạng của công việc mà luật sư “làm thuê” được thuê cũng nhiều như việc hành nghề luật. Ngoài các loại công việc như thư ký, giúp việc, họ còn đại diện cho công ty, đại diện trước Tòa án, tranh tụng.1 Các công ty có thể thuê luật sư để thực hiện một công việc nhất định nào đó, họ cũng có thể thuê luật sư làm việc trong một thời gian nhất định cho công ty luật. Nơi làm việc cũng rất linh động theo công việc. Thông thường, các dịch vụ pháp lý được thực hiện trong văn phòng của công ty luật, tuy nhiên một số có thể làm việc tại các địa điểm khác và chỉ đến văn phòng của công ty khi được yêu cầu các công việc cụ thể tại văn phòng2 . Công việc cho các luật sư này có thể kéo dài từ vài giờ cho đến hàng năm, tùy vào công việc cụ thể. Các vụ kiện tụng thường kéo dài khoảng sáu tháng, các công việc nghiên cứu ngắn điển hình kéo dài khoảng một tuần. Trong một số trường hợp, các luật sư này có thể không bao giờ gặp khách hàng mà họ đã thay mặt thực hiện công việc pháp lý được giao.
Có những luật sư được thuê làm việc riêng cho một công ty tại một thời điểm nhất định nhưng cũng có những luật sư làm việc đồng thời cho nhiều công ty trong cùng một thời gian. Khi công việc được hoàn thành, những luật sư này sẽ rời khỏi công ty luật và sẵn sàng thực hiện các hợp đồng với các công ty luật khác. Nếu các công ty luật đã thuê có ấn tượng với chất lượng công việc của các luật sư này, họ có thể mở rộng lời đề nghị làm việc lâu dài cho luật sư đó. Trong những trường hợp như vậy, họ sẽ có một thỏa thuận sử dụng lao động với các luật sư này và những công ty thu xếp công việc cho các luật sư này sẽ nhận được một khoản phí từ nhà tuyển dụng.
Trợ lý pháp lý (Paralegals) thực hiện một loạt các công việc dịch vụ pháp lý, bao gồm nghiên cứu pháp luật, soạn thảo một số văn bản pháp lý, điều tra thực tế và thậm chí tham vấn với khách hàng. Ủy ban thường trực ABA về trợ lý pháp lý đã định nghĩa hoạt động trợ lý pháp lý như sau: “Trợ lý pháp lý là một người có trình độ học vấn, được đào tạo hoặc có kinh nghiệm làm việc, được một luật sư, văn phòng luật, công ty tuyển dụng, cơ quan chính phủ hoặc pháp nhân khác giao cho thực hiện những công việc cụ thể mà luật sư là người chịu trách nhiệm.”1
Cung cấp dịch vụ pháp lý bởi những người không phải là luật sư ở Hoa Kỳ
Những người không phải luật sư bị cấm hành nghề luật. Tuy nhiên vẫn có những trường hợp ngoại lệ. Một ngoại lệ lịch sử vẫn tiếp tục có hiệu lực trong tất cả các khu vực pháp lý của Hoa Kỳ là một cá nhân có thể cung cấp các dịch vụ pháp lý cho chính mình, và những hoạt động tự phục vụ như vậy không phải là hành vi trái pháp luật.
Hoa Kỳ là một nước mà nghề luật có nhiều thay đổi và bị tác động bởi thị trường của người tiêu dùng các dịch vụ pháp lý. Trong những năm gần đây, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý tăng nhanh do sự phức tạp của nền kinh tế phát triển giữa các nước, khi các công ty đầu tư ra nước ngoài hoặc đầu tư ở chính giữa các tiểu bang trong cùng Hoa Kỳ với nhau, hoặc nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của các cá nhân cũng tăng đáng kể, khi các cá nhân cần sự hỗ trợ pháp lý trong việc mua nhà, khai báo thuế cá nhân, hoặc hỗ trợ pháp lý về việc họ có đáp ứng các quy định của pháp luật trong việc di chuyển từ vùng địa lý này đến vùng khác… Điều này bắt buộc phải có sự điều chỉnh phù hợp từ phía cơ quan có thẩm quyền đến việc hành nghề luật và việc tuân thủ các quy định về hành nghề luật.
Gần đây, luật quy định về vấn đề hành nghề luật sư ở Mỹ của hầu hết các tiểu bang đã sửa đổi và cho phép một số trường hợp ngoại lệ những người không phải là luật sư được cung cấp một cách hợp pháp một số dịch vụ pháp lý. Hầu hết những thay đổi này đều nằm trong luật tiểu bang, nhưng chính phủ liên bang gần đây cũng đã thực hiện một số thay đổi này. Những người không phải luật sư được phép thực hiện các dịch vụ không phải là dịch vụ luật nhưng có liên quan đến pháp luật, ví dụ như người làm nghề môi giới bất động sản bán bất động sản, các ngân hàng cho vay những khoản vay trong các hợp đồng đã được soạn thảo sẵn mà không cần thay đổi các điều khoản, các công ty cung cấp dịch vụ bảo đảm về quyền sở hữu của bất động sản trong các giao dịch bất động sản.
Hầu hết những người không phải là luật sư này làm việc trong các công ty hoặc tổ chức có hoạt động kinh doanh chính là cung cấp một số loại dịch vụ khác không phải dịch vụ pháp lý. Hàng chục loại công ty hoặc tổ chức phi luật sư khác nhau thường xuyên cung cấp dịch vụ pháp lý cho một số khách hàng của họ bên cạnh các dịch vụ truyền thống của công ty hoặc tổ chức, một hoạt động thường được gọi là hành nghề đa ngành (viết tắt là “MDP”). Trong số các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý đó có các công ty kế toán; các công ty môi giới bất động sản; công ty bảo hiểm quyền sở hữu; các công ty khai thuế và tư vấn thuế, chẳng hạn như ngân hàng thương mại; ngân hàng tiết kiệm; ngân hàng đầu tư; cơ quan thu phí; các công ty kiến trúc; tổ chức công đoàn; công ty tư vấn kinh doanh, kế toán… Ngoài ra, những người không phải là luật sư thường xuyên cung cấp dịch vụ pháp lý cho người khác bao gồm những người tham gia vào công tác xét xử trong các thủ tục giải quyết tranh chấp thay thế, những người không phải là luật sư được ủy quyền đại diện cho các bên trước các cơ quan hành chính liên bang và tiểu bang, các nhà hoạch định thành phố và nhân viên xã hội.
Việc mở rộng hoạt động MDP của các công ty không phải là công ty luật, đặc biệt là các công ty kế toán lớn, gần đây đã gây ra mối quan tâm và tranh cãi đáng kể đối với nhiều người trong nghề luật. Các công ty kế toán lớn không chỉ mở rộng khối lượng công việc thuế của họ mà còn chuyển sang các lĩnh vực dịch vụ pháp lý khác, chẳng hạn như lập kế hoạch bất động sản, hỗ trợ kiện tụng, lập kế hoạch kinh doanh và lập kế hoạch tài chính, họ sử dụng các luật sư – nhân viên toàn thời gian của công ty cung cấp phần lớn các dịch vụ pháp lý của công ty một cách có hiệu quả cho khách hàng. Mặc dù luật sư – nhân viên của công ty đang làm phần lớn công việc này, nhưng người cung cấp dịch vụ là một công ty kế toán, không phải một công ty luật. Ngoài một số công ty kế toán, các loại công ty khác sử dụng luật sư trong các hoạt động MDP của họ để cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Ví dụ như một số công ty vận động hành lang, công ty tư vấn quản lý và ngân hàng đầu tư.
Tại Úc, Canada và một số nước châu Âu, các công ty kế toán lớn đã mở rộng hoạt động dịch vụ pháp lý của mình bằng cách mua lại quyền sở hữu của một số công ty luật. Việc mở rộng MDP tại quốc gia này của các công ty kế toán dường như đã bị đình trệ do sự sụp đổ của Enron (công ty năng lượng lớn nhất Hoa Kỳ), dẫn đến việc Arthur Andersen bị loại khỏi tư cách là một công ty kế toán lớn và một số hạn chế pháp lý được áp dụng. Tuy nhiên, việc mở rộng dịch vụ pháp lý của các công ty kế toán lại dần hồi sinh khi mối lo ngại về các vụ bê bối đã lắng xuống và các công ty kế toán tiếp tục mở rộng việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng.
Tư vấn luật nước ngoài ở Hoa Kỳ
Tư vấn pháp luật nước ngoài là một loại hình cung cấp dịch vụ pháp lý khác mà việc sử dụng luật sư ở nước này gần đây đã tăng lên, đặc biệt là ở một số thành phố lớn. Các nhà tư vấn pháp lý nước ngoài là các luật sư nước ngoài, với sự cho phép của một tiểu bang ở Hoa Kỳ, được phép cung cấp dịch vụ tư vấn trong tiểu bang về luật của quốc gia nơi họ đủ điều kiện làm luật sư. Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), một hiệp định quốc tế mà Hoa Kỳ là thành viên, cho phép việc cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư nước ngoài tại Hoa Kỳ.
Dịch vụ pháp luật miễn phí (Probono work) ở Hoa Kỳ
Một thực trạng quan trọng và phức tạp là nhu cầu của người nghèo không thể chi trả cho các dịch vụ pháp lý cần thiết. Hoa Kỳ đã xử lý vấn đề này như thế nào? Nói đến nghề luật không thể bỏ qua hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí được thực hiện bởi các công ty luật. Các hoạt động này rất phong phú, bao gồm từ việc hỗ trợ các cá nhân không đủ khả năng chi trả từ tư vấn đến tranh tụng, cung cấp các hoạt động nghiên cứu cho các tổ chức, kể cả các tổ chức nhà nước. Các hoạt động này được thực hiện bởi các công ty luật có phạm vi hoạt động khác nhau, từ những công ty nhỏ đến công ty lớn, bao gồm cả những công ty hoạt động chuyên nghiệp hoặc một bộ phận chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí trong một công ty luật. Các dịch vụ này tuy được cung cấp miễn phí nhưng chất lượng phải bảo đảm như dịch vụ có thu phí. Nguồn kinh phí cho các hoạt động này cũng rất phong phú, bao gồm các quỹ do Chính phủ cung cấp, các quỹ do các tổ chức, cá nhân hỗ trợ hoặc do chính các công ty luật chi trả. Tuy nhiên trên thực tế số lượng các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý có sẵn để phục vụ người nghèo tiếp tục thiếu trầm trọng.
Hiệp hội nghề nghiệp của luật sư ở Hoa Kỳ
Ở Hoa Kỳ có rất nhiều hội nghề nghiệp của luật sư như hội luật sư về luật công ty, hội luật sư trên internet v.v. và ở từng bang đều có hội nghề nghiệp của luật sư. Một số bang quy định việc gia nhập đoàn luật sư là không bắt buộc, hoàn toàn do ý nguyện của luật sư (18 bang). Nhưng có bang quy định muốn hành nghề luật sư phải gia nhập đoàn luật sư. Luật sư tham gia các hội nghề nghiệp để được cung cấp các thông tin pháp luật, bồi dưỡng về nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp v.v..
Ở cấp liên bang có Hiệp hội luật sư Hoa Kỳ (ABA) được thành lập năm 1878 tại New York. Thành viên Hội luật gia Hoa Kỳ bao gồm luật sư, Thẩm phán, Công tố viên, giáo sư luật, công chức chính phủ có liên quan đến hoạt động pháp luật.
Lĩnh vực đặc thù hình sự ở Hoa Kỳ
Mô hình tố tụng hình sự ở Hoa Kỳ được tổ chức dựa trên một số nguyên tắc cơ bản, xuất phát từ các quy định trong Hiến pháp Hoa Kỳ, điều chỉnh việc tổ chức các chính quyền tại Hoa Kỳ, bao gồm chế độ liên bang, học thuyết phân quyền và luận lý về độc lập xét xử1 . Rõ ràng, không phải tất cả các chính phủ hoặc các hệ thống tư pháp hình sự trên thế giới được tổ chức theo cùng một cách, cũng không phải đều dựa trên các khái niệm giống nhau và không phải họ đều có một hình thức phân quyền. Mỗi bang ở Hoa Kỳ có một hệ thống tố tụng hình sự riêng, đây là cơ chế thực thi luật hình sự của bang đó trước hệ thống Tòa án của bang này. Tòa án của mỗi bang có vị trí riêng biệt so với hệ thống Tòa án liên bang được đặt tại bang đó, song hệ thống Tòa án của tất cả các bang và các bên tham gia khác trong hệ thống tố tụng hình sự của mỗi bang đều bị ràng buộc, không chỉ bởi Hiến pháp và pháp luật của bang đó mà còn bởi các quy định của Hiến pháp Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ không có BLTTHS nếu xét về mức độ toàn diện như BLTTHS của Việt Nam. Ở Hoa Kỳ, các Quy tắc tố tụng hình sự liên bang bao gồm 61 quy tắc thủ tục, quy định về các thủ tục giải quyết một vụ án chủ yếu từ thời điểm nộp đơn lên Tòa án hạt liên bang (Tòa án sơ thẩm) cho đến khi đóng vụ án tại Tòa án hạt.1 Quy trình tố tụng tại Tòa tối cao Hoa Kỳ được điều chỉnh bởi các quy tắc của Tòa tối cao – bao gồm 48 quy tắc tố tụng.2 Một trong những điểm khác biệt lớn giữa mô hình tố tụng hình sự của Hoa Kỳ và Việt Nam là cách thức ban hành các quy tắc tố tụng. Trong khi ở Việt Nam, Quốc hội thông qua BLTTHS, thì ở Hoa Kỳ, tất cả các quy tắc nêu trên và bất kỳ nội dung sửa đổi nào sau này lại được Tòa tối cao của Hoa Kỳ, mà không phải cơ quan lập pháp của chính quyền liên bang ban hành. Quy trình ban hành các quy tắc này được ủy quyền bằng văn bản luật do Quốc hội ban hành, nhưng đó là một thủ tục tăng cường “độc lập tư pháp”.3 Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra hai bên buộc tội và gỡ tội có vị thế không bằng nhau. Bị cáo và luật sư có thể không được thông báo rằng một hoạt động điều tra hình sự đang được tiến hành cho đến khi bị cáo bị bắt giữ hoặc bị cáo buộc hình sự. Bị can thường không được thông báo về bất kỳ các quy trình thủ tục điều tra nào mà Điều tra viên đang tiến hành. Điều này cũng đúng đối với quy trình tố tụng bí mật do Công tố viên tiến hành trong khuôn khổ cuộc điều tra của đại bồi thẩm đoàn. Sau khi hồ sơ buộc tội hình sự được nộp ra Tòa, các Công tố viên và luật sư bào chữa vẫn không phải là các bên bình đẳng trong giai đoạn trước khi xét xử vụ án. Mặc dù họ dường như có các quyền tố tụng giống nhau, trong thực tế, luật sư bào chữa không có quyền hợp pháp để kiểm tra tất cả các thông tin trong hồ sơ vụ án của Công tố viên hoặc Điều tra viên, Công tố viên cũng không có quyền xem xét hồ sơ của luật sư bào chữa và luật sư bào chữa thường có ít thông tin về vụ việc hơn là các Công tố viên.
Người bào chữa chỉ có quyền hạn chế để “phát hiện”, có nghĩa là, để thu thập và rà soát các loại thông tin được liệt kê trong Quy tắc 16, Quy tắc tố tụng hình sự liên bang. Quan trọng nhất là trong giai đoạn trước khi xét xử, luật sư bào chữa không có quyền xem xét “lời khai của các nhân chứng chính phủ tương lai”, có nghĩa là các nhân chứng mà có thể quyết định mời họ ra làm chứng tại Tòa. Các luật sư bào chữa chỉ có quyền xem xét các lời khai trước khi xét xử của các nhân chứng khi những người này đã bắt đầu ra làm chứng tại Tòa. Khi có yêu cầu, Thẩm phán sẽ cho phiên tòa tạm nghỉ một thời gian ngắn để các luật sư bào chữa có cơ hội xem xét các lời khai đó trước khi tiến hành phiên xét xử. Hơn nữa, trước phiên tòa, luật sư bào chữa không có quyền hợp pháp để phỏng vấn bất cứ nhân chứng nào. Mọi nhân chứng đều có quyền từ chối nói chuyện với luật sư bào chữa. Do đó, luật sư bào chữa không có quyền hợp pháp để xác định trước khi xét xử xem nhân chứng của các Công tố viên sẽ làm chứng những gì tại Tòa. Tại phiên tòa, Công tố viên và luật sư bào chữa bình đẳng hơn về vị trí tố tụng, chủ yếu là nhờ quyền đối kháng và kiểm tra chéo của bị can đối với các nhân chứng của Công tố viên đứng ra chống lại bị can. Hơn nữa, trong quá trình xét xử, luật sư bào chữa có thể sẽ thu thập được các lời khai trước đây của nhân chứng và có thể sử dụng chúng để chống lại độ tin cậy của các nhân chứng đó trước Bồi thẩm đoàn. Ngoài ra, do hạn chế của quyền phát hiện mà các Công tố viên có theo Quy tắc 16 (b), các Công tố viên không thể biết tất cả hoặc bất kỳ các chi tiết quan trọng nào trong nội dung bào chữa của bị can.1 Vì thế, Công tố viên sẽ không thể chuẩn bị đầy đủ để đáp lại các nội dung bào chữa của bị can, đặc biệt là bởi Công tố viên sẽ không thể biết trước được liệu bị can có trực tiếp ra làm chứng tại phiên tòa hay không. Theo quy định tại Tu chính án thứ 6 của Hiến pháp Hoa Kỳ, bất kỳ người nào bị truy tố đều có quyền tiếp cận với luật sư để thực hiện việc bào chữa cho mình, nếu không có khả năng thuê luật sư thì Nhà nước phải trả chi phí thuê luật sư cho họ. Khi một bị cáo bị truy tố ra trước Tòa, họ phải được biết các chứng cứ buộc tội mình, từ đó quyết định thừa nhận phạm tội hoặc phản bác. Để có thể kết tội một người, phải có sự đồng thuận tuyệt đối của các thành viên Bồi thẩm đoàn. Trong trường hợp này, vị trí của Thẩm phán là căn cứ vào kết quả biểu quyết có tội của Bồi thẩm đoàn, quy định của liên bang về hệ thống áp dụng hình phạt, nhân thân, tiền án, tiền sự của bị cáo để đưa ra mức án cụ thể cho mỗi bị cáo.
Để lại một phản hồi