Căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015.
Các nội dung liên quan:
- Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
- Đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm
- Thủ tục nhận đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm
- Bổ sung, xác minh tài liệu, chứng cứ trong thủ tục giám đốc thẩm
Điều 326. Căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
1. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
c) Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
2. Người có thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 của Bộ luật này kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này và có đơn đề nghị theo quy định tại Điều 328 của Bộ luật này hoặc có thông báo, kiến nghị theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 327 của Bộ luật này; trường hợp xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba thì không cần phải có đơn đề nghị.
Bình luận:
Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự
Về học lý, sự khác biệt về tính chất của các căn cứ kháng nghị là cơ sở chủ yếu cho việc thiết lập hai thủ tục xết lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật tương ứng là thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Thông thường, những sai lầm, vi phạm pháp luật của Tòa án có nguờn gốc từ chính sự nhận thức, đánh giá không đúng về sự việc hoặc về pháp luật do sự ngộ nhận hoặc thiếu cẩn trọng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đối vói chứng cứ, tài liệu của vụ việc hoặc đối với các quy định của pháp luật về nội dung, về tố tụng dân sự. Ngoài ra, sai lầm về sự việc của Tòa án có thể do yếu tố ngoại cảnh tác động (đương sự hoặc Tòa án không biết được) như thiếu những tình tiết, sự kiện cần thiết hoặc các tình tiết, sự kiện mà Tòa án dựa vào đó để giải quyết vụ việc đã bị giả mạo, được kết luận không đúng[1].
Quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm tại khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015 về cơ bản vẫn dựa trên cơ sở các quy định của Điều 283 BLTTDS 2004 nhưng có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Theo đó, các quy định về căn cứ giám đốc thẩm được dựa trên căn cứ phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng của Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự dẫn tới hậu quả là quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật; gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạp đến lợi ích công công, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Bản chất của thủ tục giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cuả Tòa án bị kháng nghị do pháp hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết. Những sai lầm, thiếu sót của Tòa án khi giải quyết vụ việc có thể ở hai dạng cơ bản là sai lầm về các tình tiết, sự kiện của vụ việc hoặc sai lầm nghiêm trọng khi áp dụng pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và pháp luật tố tụng dân sự[2]. So sánh các quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm tại Điều 283 BLTTDS 2004 và khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015 cho thấy đã có sự thay đổi căn bản về tư duy lập pháp. Nhà lập pháp hiện nay đã nhận thấy rõ hơn được những hậu quả nặng nề của việc hủy án để bắt đầu lại một quy trình mới nên đã chú trọng hơn tới việc bảo đảm tính hiệu quả của thủ tục tố tụng. Do vậy, căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015 không chỉ đơn thuần dựa trên những sái lầm, vi phạm của Tòa án trước đây mà còn dưa trên hậu quả tiêu cực của sai lầm, vi phạm làm tổn hại tới quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể. Theo quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015 thì bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khí có một trong những căn cứ sau đây:
– Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp vớ những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
– Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ịch hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
– Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Căn cứ “Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự” là trường hợp Tòa án nhận định không đúng về các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự hay còn gọi là sai lầm về vụ viêc dẫn tới gây thiệt hại về quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. BLTTDS 2015 không có giải thích như thế nào là “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật” cũng như không có giải thích về trường hợp “có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba” như thế nào là được coi là cẳn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong thực tiễn tố tụng tại Tòa án thì vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thường được hiểu là việc vi phạm các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự, vi phạm về thẩm quyền của Tòa án, về thành phần hội đồng xét sử, xác định sai tư cách hoặc bỏ sót đương sự… Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật là Tòa án đã áp dụng sai các quy định về đan sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động dẫn đến việc quyết định không đúng về quyền, lợi ích của họ. Do vậy, việc hướng dẫn cụ thể các quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo Điều luật trên là cần thiết nhằm bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật của các Tòa án được thống nhất.
Điều kiện kháng nghị giám đốc thẩm
Nhằm đẩm bảo hơn tính hiệu quả của thủ tục tố tụng và tôn trọng quyền định đoạt của đương sự, nhà làm lập pháp đã thiết lập thêm tại khoản 2 Điều 326 BLTTDS 2015 quy định điều kiện kháng nghị giám đốc thẩm. Theo đó, ngời có thảm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật tiến hành kháng nghị khi hội đủ hai điều kiện là có một trong các căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều luật này và có đơn đề nghị của đương sự về việc xem xét lại bản án, quyết định hoặc có thông báo của Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan, tổ chức, cá nahn về việc vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định, có kiến nghị của Chánh án Tòa án cấp tỉnh, Chánh án Tòa án cấp cao về việc xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong trường hợp xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba thì người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm có thể tiến hành kháng nghị mà không cần phải có đơn đề nghị của đương sự.
(Nội dung được trích dẫn từ cuốn: Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự – PGS.TS. Trần Anh Tuấn, tr720 – 724)
1 Trần Anh Tuấn (2011), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Viết Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam.
2 Trần Anh Tuấn (2011), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam.
Để lại một phản hồi