Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) chúng ta vẫn hay gọi là luật hình thức, quy định về trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự… mà một trong những nội dung quan trọng nhất của BLTTHS đó là quy định về biện pháp ngăn chặn.
Các nội dung liên quan:
- Điểm mới về các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS 2015
- Điểm mới về các biện pháp ngăn chặn trong của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 so với Bộ luật Tố tụng hình sự 2003
- So sánh các biện pháp ngăn chặn trong bộ tố tụng hình sự 2015
- Thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và một số lưu ý khi áp dụng
Các biện pháp ngăn chặn này được quy định tại các Điều 121 (bảo lĩnh), 122 (đặt tiền để bảo đảm), 123 (cấm đi khỏi nơi cư trú) và 124 (tạm hoãn xuất cảnh). Tại các điều luật này đều quy định rất rõ về điều kiện, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và đặc biệt là thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn này.
Tuy nhiên, với các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ và tạm giam thì cả BLTTHS 2003, BLTTHS 2015, Thông tư 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS 2003 và Dự thảo sửa đổi Thông tư liên tịch số 05/2005 quy định rất cụ thể và chặt chẽ về thời hạn và thời gian gia hạn (Điều 118 đối với tạm giữ và Điều 173 đối với tạm giam) thì thời hạn của các biện pháp ngăn chặn như bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh chỉ được quy định như sau: thời hạn bảo lĩnh/đặt tiền để bảo đảm/cấm đi khỏi nơi cư trú/tạm hoãn xuất cảnh không quá thời hạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của bộ luật này. Các biểu mẫu của Cơ quan điều tra, của Viện kiểm sát đều có nội dung về thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn (xem các Mẫu số 46 à 50, 51, 54 được ban hành kèm theo Quyết định 15/QĐ-VKSTC ngày 09 tháng 01 năm 2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc ban hành mẫu văn bản tố tụng, văn bản nghiệp vụ thực hiện trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố). Tuy nhiên, thời hạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong tố tụng hình sự quy định dài hay ngắn tùy thuộc vào tính chất, mức độ của từng vụ án và đặc biệt là luôn có gia hạn thời hạn giải quyết; và trong thực tiễn, việc gia hạn thời hạn giải quyết vụ án cũng thường xuyên xảy ra, do vậy đương nhiên thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn này cũng phải kéo dài tương ứng.
Tuy nhiên vấn đề này, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 không quy định cụ thể, hướng dẫn của ngành và hệ thống mẫu cũng không có hướng dẫn chi tiết. Thông tư 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS 2003 không có hướng dẫn, trong khi đó Thông tư 05 sửa đổi có 02 điều là Điều 22 và Điều 23 có đề cập nhưng chưa quy định cụ thể về thời hạn này. Do vậy đã gây khó khăn lớn trong việc áp dụng pháp luật trong thời gian qua, điều đó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân của chính người bị áp dụng mà còn có nguy cơ vi phạm tố tụng là hiện hữu.
Phan Văn Toàn – Viện KSND huyện Tây Sơn
Nguồn: vksbinhdinh.gov.vn
Các tìm kiếm liên quan đến biện pháp ngăn chặn trong bộ luật tố tụng hình sự 2015, các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 2015, so sánh các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, điều 110 bộ luật tố tụng hình sự 2015, khái niệm biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, điều 163 bộ luật tố tụng hình sự, các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng dân sự, bộ luật tố tụng hình sự 2015 có hiệu lực khi nào
Để lại một phản hồi