Tổng hợp bài tập tình huống môn Luật hiến pháp (có đáp án)

Chuyên mụcLuật hiến pháp Ôn tập môn luật hiến pháp

Tổng hợp các câu hỏi/bài tập tình huống môn luật Hiến pháp (có gợi ý đáp án) để các bạn tham khảo, ôn tập chuẩn bị cho kỳ thi sắp tới đạt kết quả như mong muốn.

Những nội dung liên quan:

Bài tập tình huống môn Luật Hiến pháp (có đáp án)

Câu 1:

Luật sư Lý Ba (người Trung Quốc) nêu quan điểm: “Ở một quốc gia tự do dân chủ, bản Hiến pháp không chỉ ràng buộc chính quyền mà còn ràng buộc nhân dân nữa. Thông qua Hiến pháp, tập thể dân chúng cam kết tuân theo một thủ tục tổ chức nhất định về cách thức quản trị công việc chung và giải quyết xung đột xã hội”. Hãy bình luận về quan điểm trên.

Gợi ý đáp án:

Đúng vì: Một quốc gia dân chủ thì cần có một bản Hiến pháp như vậy nhằm giới hạn quyền lực của Nhà nước và bảo vệ quyền con người.

– Thông qua Hiến pháp, người dân ý thức được trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của mình nhằm xây dựng một đất nước dân chủ. Mọi công dân vi phạm vào Hiến pháp thì đều bị xử lí theo luật định. Và để giải quyết các vấn đề chung thì việc cần thiết đó là mọi người phải tuân theo một thủ tục tổ chức nhất định.

– Ngược lại, dựa vào ý chí của Hiến pháp, nhân dân quản lí Nhà nước thông qua Hiến pháp, soi chiếu Nhà nước dưới những quy định trong Hiến pháp. Cũng từ đó mà Nhà nước sẽ làm việc nghiêm túc hơn.
Sai vì: chủ thể của Hiến pháp đó chính là nhân dân, vì vậy Hiến pháp trước tiên là để ràng buộc nhân dân, sau đó mới ràng buộc chính quyền.

Câu 3:

Bộ trưởng Bộ A ban hành một Quyết định theo đó mỗi người chỉ được sở hữu 01 xe gắn máy. Hãy bình luận từ góc độ Hiến pháp đối với Quyết định trên. Giả sử Quyết định đó được coi là bất hợp hiến thì cơ chế xử lý theo Hiến pháp hiện hành của Việt Nam là như thế nào? Hãy bình luận cơ chế đó.

Gợi ý đáp án:

– Từ góc độ Hiến pháp, quyết định trên là bất hợp hiến. Bởi vì sở hữu xe gắn máy thuộc về Quyền sở hữu tư nhân và được quy định trong Hiến pháp.

Tại Điều 32, Khoản 1,2 có nêu: “1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt…; 2. Quyền sở hửu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”.

Quyết định của Bộ trưởng A được coi là bất hợp hiến, thì cơ chế xử lí theo Hiến pháp hiện hành sẽ như sau:

– Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Nghị định số 40 năm 2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật, Thủ tướng Chính phủ có quyền đình chỉ thi hành, hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung đối với thông tư do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành, liên tịch ban hành trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các quy định về ngành, lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ khác.

=>Trong trường hợp này, Bộ trưởng Bộ tư pháp sẽ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định bãi bỏ quyết định của Bộ trưởng Bộ A vì trái với Hiến pháp. Tuy nhiên cơ chế xử lí hành vi vi hiến ở Việt Nam còn nhiều hạn chế như: quy định xử lý dài dòng; chỉ đình chỉ thi hành, hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung đối với thông tư mà không hề xử lí hành vi vi phạm của Bộ trưởng, như thế là pháp luật vẫn còn lỏng lẻo, chưa hà khắc và các sai phạm vẫn có thể lặp lại. Cần phải có cơ chế xử lý, truy cứu trách nhiệm của những người ban hành, soạn thảo văn bản sai đồng thời nên có sự quản lý, kiểm tra, kiểm định nghiêm ngặt hơn các văn bản sắp được ban hành

Câu 4:

Bộ C ban hành Thông tư quy định mỗi cá nhân chỉ được đăng ký 01 xe gắn máy. Điều này có vi phạm luật và Hiến pháp không? Nếu có thì cơ chế xử lý hiện hành như thế nào? Đánh giá về cơ chế xử lý đó.

Gợi ý đáp án:

Thông tư này cũng tría với Hiến pháp và PL, hạn chế quyền sở hữu của công dân được quy định trong Điều 32 Hiến pháp 2013 và Theo quy định tại Điều 58 Hiến pháp và Điều 221 Bộ luật Dân sự, công dân có quyền sở hữu tài sản không bị hạn chế về số lượng, giá trị.

Hành vi của Bộ C là vi phạm Hiến pháp chủ động. Vi hiến chủ động là hình thức vi phạm khi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành 1 quy phạm pháp luật thuộc quyền hạn và trách nhiệm của mình đã đặt ra những quy định trái với những quy định của Hiến pháp hoặc là trái với tinh thần của Hiến pháp. Do ý kiến chủ quan của các cơ quan Nhà nước, thực hiện để có lợi cho mình và vô hình chung, đẩy bất lợi về phía nhân dân.

Bình luận: Tương tự câu trên

Câu 5:

Hội đồng nhân dân tỉnh N ra Nghị quyết quy định việc tuyển công chức vào các cơ quan hành chính trong tỉnh sẽ hạn chế tiếp nhận những người có bằng đại học tại chức hoặc đại học dân lập. Điều này có vi phạm luật và Hiến pháp không?

Nếu có thì sẽ được cơ quan có thẩm quyền xử lý như thế nào? Đánh giá về cơ chế xử lý đó.

Gợi ý đáp án:

Theo điều Điều 36, Luật Cán bộ, Công chức quy định điều kiện đăng ký dự tuyển công chức như sau:

1. Người có đủ các điều kiện sau đây không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo được đăng ký dự tuyển công chức:

a) Có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam;

b) Đủ 18 tuổi trở lên;

c) Có đơn dự tuyển; có lý lịch rõ ràng;

d) Có văn bằng, chứng chỉ phù hợp;

đ) Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt;

e) Đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ;

g) Các điều kiện khác theo yêu cầu của vị trí dự tuyển

Và xét điều 16 trong chương Quyền con người: ”Không ai bị phân biệt, đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, văn hóa, xã hội”, ở đây là vi phạm quyền dân sự của người lao động.

Bộ nội vụ có đưa ra phát ngôn của mình về vấn đề này: ”Không chấp nhận bằng tại chức là vi phạm PL. Hệ tại chức ở VN có những yếu kém là do khâu quản lí yếu kém, không phải do bản chất hình thức đào tạo này. Hơn nữa còn có một thực tế là chưa chắc những người có bằng tại chức đã kém hơn người có bằng chính quy (nhiều người làm cán bộ giỏi rồi mới đi học tại chức, vì trước đó họ không có điều kiện học) Nếu muốn loại bỏ bằng tại chức, phải lập ra một hội đồng tuyển dụng minh bạch, công bố điểm thi cụ thể, chứng tỏ cho người dân thấy những người có bằng tại chức không đáp ứng đủ nhu cầu tuyển dụng, thì mới được phép gạt bỏ hồ sơ của họ. Đây là xâm phạm nghiêm trọng quyền công dân. Nếu quốc hội ban hành chế định mới không tuyển dụng bằng tại chức thì nó mới được luật hóa.
Tuy nhiên thực tế hiện nay việc học tại chức tràn lan, không hiệu quả, không có năng lực thực sự, chỉ vì mục đích kiếm cái bằng để dễ xin việc nên mới dẫn đến vẫn đề các cơ quan hành chính hạn chế tiếp nhận những người có bằng đại học tại chức là vì thế.

Câu 6:

Hội đồng nhân dân thành phố Đ (là thành phố trực thuộc trung ương), ra Nghị quyết dừng đăng ký thường trú mới vào khu vực nội thành đối với những người không có nghề nghiệp hoặc có nhiều tiền án, tiền sự. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân nói trên có vi phạm luật và Hiến pháp không? Nếu có thì cơ chế xử lý hiện hành như thế nào? Đánh giá về cơ chế xử lý đó.

Gợi ý đáp án:

Việc dừng đăng ký thường trú vào khu vực nội thành với những người không có nghề nghiệp hoặc có tiền án tiền sự là vi phạm Hiến pháp, pháp luật.

Vì:

– Theo điều 68 Hiến pháp 2013 “công dân có quyền tự do cư trú”.

– Theo điều 20 luật cư trú thì mọi công dân có quyền đăng ký hộ khẩu thường trú khi có chỗ ở hợp pháp, đã tạm trú tại thành phố đó liên tục từ một năm trở lên (trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ mà người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản)

Cơ chế xử lý: theo khoản 4, điều 98

Thủ tướng có quyền “đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ quốc hội bãi bỏ”.

Đánh giá cơ chế xử lý: cơ chế xử lý còn hạn chế vì

– Việt Nam không có một cơ quan bảo hiến chuyên trách vì thế cơ chế giám sát, xử lý các văn bản vi hiến, vi luật không đạt được hiệu quả cao, mang tính chính trị, thiếu khách quan,….

– Việc thu hồi, thay thế, tạm đình chỉ hay bãi bỏ văn bản đó không phù hợp với luật là chưa đủ. Cần phải có cơ chế xử lý và truy cứu trách nhiệm của những người ban hành, soạn thảo văn bản sai, đồng thời nên có sự quản lý, kiểm tra, kiểm định nghiêm ngặt hơn đối với các văn bản sắp được ban hành.

Câu 7:

Hội đồng nhân dân thành phố H (là thành phố trực thuộc trung ương), ra Nghị quyết dừng đăng ký thường trú mới vào khu vực nội thành đối với những người không có nghề nghiệp hoặc có nhiều tiền án, tiền sự. Nhiều tổ chức và cá nhân cho rằng Nghị quyết này vi phạm Luật cư trú (trái luật). Trong khi đó, Hội đồng nhân dân thành phố H lại cho rằng họ ban hành Nghị quyết này theo quy định của Luật tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân, do đó không thể nói rằng Nghị quyết đó trái luật. Hãy đánh giá về quan điểm trên.

Gợi ý đáp án:

Theo điều 68 Hiến pháp “công dân có quyền tự do cư trú”.

Theo điều 20 Luật cư trú thì mọi công dân có quyền đăng ký hộ khẩu thường trú khi có chỗ ở hợp pháp, đã tạm trú tại thành phố đó liên tục từ một năm trở lên (trường hợp chỗ ở hợp pháp cho thuê, mượn, ở nhờ mà người cho thuê, mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản)

Tuy nhiên Hội đồng nhân dân thành phố H lại cho rằng họ ban hành Nghị quyết này theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, do đó không thể trái luật là có lý do. Bởi theo điều 12, 18, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thì Hội đồng nhân dân có quyền “phân bổ dân cư và cải thiện đời sống nhân dân địa phương”; “quyết định biện pháp quản lý dân cư thành phố và tổ chức đời sống đô thị”

– Nhận xét: quan điểm trên của Hội đồng nhân dân thành phố H là không có căn cứ bởi thẩm quyền chung của Hội đồng nhân dân theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân phải phù hợp với những quy định riêng (chuyên ngành) về các điều kiện đăng ký hộ khẩu thường trú. Trong trường hợp này thì Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đóng vai trò là Luật chung, Luật cư trú là Luật riêng, luật riêng sẽ được ưu tiên áp dụng trước. Hơn nữa các hành vi lạm dụng quy định về hộ khẩu làm hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đều bị nghiêm cấm.

Câu 8:

Căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố H, một thành phố trực thuộc trung ương về việc dừng đăng ký thường trú mới vào khu vực nội thành đối với những người không có nghề nghiệp hoặc có nhiều tiền án, tiền sự, Ủy ban nhân dân cùng cấp đã không giải quyết các hồ sơ xin đăng ký hộ khẩu thường trú của những đối tượng trên. Hành vi của Ủy ban nhân dân nói trên có vi phạm luật và Hiến pháp không? Nếu có thì cơ chế xử lý hiện hành như thế nào? Đánh giá về cơ chế xử lý đó.

Gợi ý đáp án:

Quyết định của Hội đồng nhân dân và hành vi của Ủy ban nhân dân là vi phạm Hiến pháp, pháp luật.

Theo điều 23 Hiến pháp 2013,công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước…việc thực hiện quyền này do pháp luật quy đinh hay điều 3 luật cư trú: Công dân có quyền tự do cư trú theo quy định của luật cư trú và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Công dân có đủ điều kiện đăng ký thường trú, tạm trú thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thường trú, tạm trú…

Cơ chế xử lí và đánh giá về cơ chế tương tự các câu trên.

Câu 9:

Ủy ban nhân dân tỉnh X ban hành một Quyết định theo đó xe gắn máy ngoài ngoại tỉnh không được vào tỉnh X. Hãy bình luận từ góc độ Hiến pháp đối với Quyết định trên. Giả sử Quyết định đó được coi là bất hợp hiến thì cơ chế xử lý theo Hiến pháp hiện hành của Việt Nam là như thế nào? Hãy bình luận cơ chế đó.

Gợi ý đáp án:

Đây là một quyết định bất hợp hiến, trái với Hiến pháp ở chương II: Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân cụ thể điều 23 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước”. Ở điều 14 cũng cho biết ”Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Ủy ban nhân dân tỉnh X không có quyền ban hành quyết định không cho xe ngoại tỉnh được vào tỉnh X. Đây là quyết định vi phạm quyền tự do đi lại của công dân.

Trong trường hợp này theo Hiến pháp hiện hành thì Bộ Tư pháp sẽ đưa ra ý kiến đến quyết định mà tỉnh X ban hành, chỉ ra đây là quyết định trái với Hiến pháp. Yêu cầu Ủy ban nhân dân tỉnh X rút kinh nghiệm trong việc soạn thảo, ban hành, kiểm tra, xử lý VBQPPL, không để lặp lại những thiếu sót như trong quyết định trên. Các nội dung trong quyết định ban hành cần phải được cơ quan Tư pháp tỉnh thẩm định và tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của các quy định. Trước những hành vi trái luật và Hiến pháp của các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân Tỉnh, cơ chế xử lý hiện hành đang đặt ra nhiều vấn đề. Bộ tư pháp với tư cách là cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện quản lý Nhà nước về công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật có thể kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các cơ quan chính quyền địa phương, trong đó có Ủy ban nhân dân tỉnh. Tuy nhiên, Bộ tư pháp không có quyền đình chỉ, bãi bỏ các văn bản của Ủy ban nhân dân, mà chỉ có quyền kiến nghị các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về kết quả kiểm tra của mình và việc hủy bỏ hay bãi bỏ quyết định của Hội đồng nhân dân là thuộc về Thủ tướng Chính phủ.

Câu 10:

Ủy ban nhân dân tỉnh X ban hành một quyết định theo đó người nào đua xe trái phép thì tịch thu xe và bán đấu giá. Giải sử điều này được xác định là không phù hợp với Luật xử lý vi phạm hành chính. Hỏi phải xử lý như thế nào đối với Quyết định nói trên? Hãy bình luận về cơ chế xử lý đó.

Gợi ý đáp án:

Theo Khoản 3 Điều 38 Luật xử lí vi phạm hành chính

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quyền:

a) Phạt cảnh cáo;

b) Phạt tiền đến mức tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này;

c) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;

d) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;

đ) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này.

Ủy ban nhân dân Tỉnh X có quyền tịch thu xe của những người có hành vi vi phạm, tuy nhiên lại không có quyền mang tài sản tịch thu đi bán đấu giá, đây là 1 hành vi vi phạm Luật.

Đối với trường hợp này, người dân khiếu nại cấp đó tự hủy bỏ hoặc cấp trên trực tiếp hủy hoặc theo thủ tục tư pháp khởi kiện ra tòa hành chính.

Câu 11:

Thông tư số 29/2001/TT-BVHTT ngày 05/06/2001 của Bộ văn hoá thông tin hướng dẫn Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tại Điều 2. IV quy định: “Hàng hoá nhập khẩu là các hàng hoá ấn phẩm, là tác phẩm điện ảnh phải được Bộ văn hoá – thông tin phê duyệt nội dung và kế hoạch nhập khẩu”. Trong khi đó, theo Bản phụ lục 3 được ban hành kèo theo Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì đối với các loại ấn phẩm và tác phẩm điện ảnh nhập khẩu chỉ phê duyệt nội dung. Hỏi Thông tư có hợp pháp không? Nếu bất hợp pháp thì cơ chế xử lý như thế nào? Hãy bình luận về cơ chế đó.

Gợi ý đáp án:

Thông tư trên của bộ văn hóa thông tin là không hợp pháp vì thông tư của bộ văn hóa thông tin phải căn cứ vào Hiến pháp, luật nghị quyết, quyết định chỉ thị của cấp trên ban hành. Theo Bản phụ lục 3 được ban hành kèo theo quyết định số 46\201\QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ thì đối với các loại ấn phẩm và và tác phẩm điện ảnh nhập khẩu” chỉ phê duyệt nội dung” mà theo thông tư hướng dẫn quyết định số 46\2001\QĐ-TTg của bộ văn hóa thông tin còn yêu cầu phê duyệt cả kế hoạch nhập khẩu.

Cơ chế xử lý văn bản quy phạm pháp luật không hợp pháp được thực hiện theo cơ chế tự xử lý (cơ quan có quyền ban hành thì phải tự xử lý) hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp (trong trường hợp này là Thủ tướng Chính phủ có quyền xử lý). Thủ tướng chính phủ có quyền bãi bỏ hoặc đình chỉ thông tư đó.

Song cơ chế trên thực tế vẫn có nhiều bất cập như việc xử lý các văn bản trái luật, với chủ thể ban hành các văn bản đó vẫn chưa có chế tài cụ thể và trình tự cụ thể. Phổ biến vẫn đang dừng lại ở mức kiểm điểm, rút kinh nhiệm trong nội bộ. Theo em cần phải nghiên cứu nhiều hơn và tìm ra những giải pháp, trình tự, chế tài cụ thể để xử lý những văn bản trái luật và đối với chủ thể ban hành.

Câu 12:

Luật sư X cho rằng một điều khoản trong Bộ luật Hình sự không phù hợp với một quy định về quyền công dân trong Hiến pháp hiện hành. Luật sư X có thể kiến nghị đến cơ quan nào để xem xét?

Gợi ý đáp án:

Luật sư đó có thể bằng nhiều con đường khác nhau để kiến nghị xem xét lại điều khoản đó như: Kiến nghị lên Liên đoàn Luật sư và Liên đoàn luật sư sẽ kiến nghị lên MTTQ; hoặc kiến nghị lên Bộ tư pháp -> Quốc hội;… Tuy nhiên, cách thông dụng nhất vẫn là thông qua đại biểu Quốc hội.

Câu 13:

Công dân A đã viện dẫn Hiến pháp trong một phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích liên quan của mình. Hội đồng xét xử không đồng ý cách viện dẫn của công dân A, vì cho rằng Hội đồng xét xử không có thẩm quyền căn cứ vào Hiến pháp để giải quyết vụ việc. Hãy bình luận về cách giải quyết của Hội đồng xét xử.

Gợi ý đáp án:

Hiến pháp tiếng anh là Constitution hay Basic Law, dịch ra là Luật cơ bản. Hay nói cách khác, Hiến pháp cũng là một đạo luật, nhưng nó là luật cao nhất, có giá trị pháp lý tối cao mà các luật khác phải tuân theo không được trái với Hiến pháp. Việc hội đồng xét xử cho rằng không có thẩm quyền căn cứ vào Hiến pháp là điều hoàn toàn vô lý. Hiến pháp là đạo luật cơ bản và có tính pháp lý cao nhất, mọi đạo luật khác trái với nó đều sẽ bị hủy bỏ.

Câu 14:

Trong ngày bầu cử, công dân A đủ điều kiện đi bầu cử, có tên trong danh sách cử tri nhưng không đi bầu. Sau đó, khi anh ta đến Ủy ban nhân dân xã X nơi anh ta cư trú để làm hổ khẩu. Nhân viên của Ủy ban nhân dân đã không tiến hành làm thủ tục cho anh ta với lý do anh ta đã không đi bầu cử. Nhân viên Ủy ban nhân dân hành động có đúng Hiến pháp không?

Gợi ý đáp án:

Không. Khoản 1 điều 22 chương II Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp”.

Việc công dân A không đi bầu cử là vi phạm nghĩa vụ của công dân, người này sẽ phải chịu chế tài xử phạt. Tuy nhiên việc này không liên quan gì đến việc công dân này không được có nơi ở. Ủy ban nhân dân xã X nơi anh ta cư trú bắt buộc phải làm hộ khẩu cho anh ý để anh ta có nơi ở một cách hợp pháp.

Câu 15:

Trong ngày bầu cử, công dân A đủ điều kiện đi bầu cử, có tên trong danh sách cử tri nhưng không đi bầu. Sau đó, khi anh ta đến Ủy ban nhân dân xã X nơi anh ta cư trú để làm hổ khẩu. Nhân viên của Ủy ban nhân dân đã không tiến hành làm thủ tục cho anh ta với lý do anh ta đã không đi bầu cử. Nhân viên Ủy ban nhân dân hành động có đúng Hiến pháp không?

Gợi ý đáp án:

Nhân viên của Ủy ban nhân dân đã hành động không đúng Hiến pháp. Theo điều 22 khoản 1 Hiến pháp: “Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp”.

Câu 16:

Một cán bộ của một cơ quan Nhà nước tham gia biểu tình về một vấn đề chính trị-xã hội trong nước, nhưng bị cơ quan đó kiểm điểm và kỷ luật, với lập luận là nước ta chưa có Luật Biểu tình nên việc tham gia biểu tình là vi phạm pháp luật. Hãy bình luận vụ việc này từ góc độ các quy định liên quan của Hiến pháp?

Gợi ý đáp án:

Theo điều 25 của Hiến pháp, công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này là do pháp luật quy định.

Mặc dù chưa có Luật Biểu tình nhưng việc tham gia biểu tình cũng không bị pháp luật cấm và nó được quy định trong Hiến pháp. Ở vụ việc này, cơ quan Nhà nước lại lập luận rằng chưa có luật biểu tình nên tham gia biểu tình là vi phạm pháp luật. Chưa có luật thì vi phạm kiểu gì?

Câu 17:

Công dân H yêu cầu một Bộ cung cấp các thông tin về một vấn đề mà Bộ đang chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp. Bộ không cung cấp với lập luận rằng Hiến pháp chỉ quy định quyền tiếp cận thông tin, tức là quyền được truy cập các thông tin mà cơ quan Nhà nước công khai, chứ không quy định quyền của công dân được yêu cầu cơ quan Nhà nước cung cấp thông tin mà cơ quan đó đang nắm giữ. Hãy bình luận về hành động và sự giải thích của Bộ.

Gợi ý đáp án:

Gợi ý đáp án:

Cách giải quyết của bộ là sai với Hiến pháp vì theo điều 25 Hiến pháp 2013 “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật định”.

Sự giải thích của Bộ là không có căn cứ bởi hiện nay chưa có Luật cụ thể nào quy định về quyền tiếp cận thông tin của người dân.

Hầu hết các văn bản hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc xác định trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan Nhà nước cũng như quyền tự do thông tin mang tính nguyên tắc, tính khái quát hơn là tính thực tiễn. Các quy định về tiếp cận thông tin chủ yếu giao quyền tự quyết định việc cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý thông tin thuộc lĩnh vực mà cơ quan đó phụ trách do đó mỗi cơ quan, mỗi lĩnh vực lại có những quy định khác nhau về cách thức, quy trình cung cấp thông tin.

Do các quy định pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập nên việc tiếp cận thông tin do các cơ quan Nhà nước nắm giữ vẫn khó khăn, dẫn tới tính công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan công quyền chưa được thực hiện, biểu hiện rõ nhất là trên lĩnh vực đất đai, đền bù giải toả, dự án ưu đãi, các khoản tín dụng, cứu trợ thiên tai… Vì thế, hiện tượng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, hách dịch, lợi dụng các kẽ hở của pháp luật trong cơ quan Nhà nước vẫn phổ biến, dẫn tới hiện tượng khiếu kiện đông người, khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện vượt cấp.

Đặt ra vấn đề: cần ban hành luật tiếp cận thông tin để xác định rõ những thông tin nào được tiếp cận, chưa được tiếp cận hoặc không được tiếp cận; quy định trình tự, thủ tục về việc tiếp cận thông tin; cơ sở từ chối cung cấp thông tin để tạo cơ sở pháp lý cho cá nhân, tổ chức thực hiện quyền tiếp cận thông tin của mình…

Câu 18:

Công dân A không tham gia bỏ phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội, vì cho rằng bầu cử là quyền chứ không phải là nghĩa vụ. Nhưng các tổ chức chính trị-xã hội khu vực dân cư nơi công dân A yêu cầu công dân A phải thực hiện nghĩa vụ bầu cử. Hãy đánh giá về tranh cãi trên.

Gợi ý đáp án:

Nếu căn cứ vào Hiến pháp 2013: Tại điều 27 trong chương II chỉ ghi ”công dân đủ 18 tuổi có quyền đi bầu cử” thì quan điểm công dân A là không sai. Tuy nhiên:

– Ở nước ta, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.

Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của cử tri, bởi vì:

– Cử tri tham gia bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân là thực hiện quyền cơ bản về bầu cử và ứng cử của công dân – những quyền chính trị cơ bản trong một Nhà nước dân chủ được Hiến pháp quy định.

– Thông qua bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, cử tri vừa thực hiện quyền chính trị của công dân đồng thời thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trong việc xây dựng, tổ chức bộ máy chính quyền địa phương bằng việc lựa chọn, giới thiệu và bầu người được nhân dân tín nhiệm vào Hội đồng nhân dân – cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương.

Câu 19:

Qua những thông tin về vụ án oan 10 năm áp dụng đối với ông Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang), hãy làm rõ các quyền con người nào không được bảo đảm theo quy định của Hiến pháp hiện hành.

Gợi ý đáp án:

Thời điểm điều tra, truy tố, xét xử vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn thì Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 đã có quy định về các nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền con người, cụ thể tại các Điều 71, Điều 72.

Hiến pháp 1992 Hiến pháp 2013

Điều 71

Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.

Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.

Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.

Điều 72

Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.

Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.

Điều 20

1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nàokhác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.

2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.

Điều 31

1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.

Câu 20:

Một đại biểu Quốc hội có dự định đề xuất một dự án luật nhưng không biết trình tự, thủ tục cho việc này như thế nào? Hãy tư vấn cho đại biểu đó.

Điều 84 Hiến pháp 2013

3. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh và dự án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Trình tự thủ tục cho việc đề xuất dự án luật như sau:

1. Thu thập, phản ánh, ý chí nguyện vọng của nhân dân

2. Biến ý chí nguyện vọng của nhân nhân thành ý chí Nhà nước, quy định pháp luật

Sau khi xây dựng xong dự án luật, các kiến nghị của ĐBQH cần được chuyển về UB pháp luật và các úy ban khác có liên quan đẻ các UB này nghiên cứu trước. Các UB này sau khi xem xét sẽ làm báo cáo trình QH, nêu rõ quan điểm về sự cần thiết, những vấn đề… Giai đoạn trình dự án luật kết thúc bằng việc các chủ thể của sáng kiến đọc “tờ trình” dự án trước QH, nêu rõ nội dung tư tưởng, tổng quan, sự cần thiết của dự án.

Câu 21:

Có quan điểm cho rằng việc Quốc hội không thông qua luật để thực thi các quy định Hiến pháp là vi hiến. Bình luận về quan điểm đó.

Gợi ý đáp án:

Trước hết, có ý kiến cho rằng một trong các hành vi vi hiến là hành vi không thực hiện thẩm quyền và nghĩa vụ đã được Hiến pháp quy định. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được Hiến pháp giao thẩm quyền, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không kịp thời những thẩm quyền và nghĩa vụ đó thì sẽ bị coi là vi phạm Hiến pháp (không hành động).

Vậy, trong các trường hợp mà cơ quan, cá nhân có thẩm quyền chậm trễ hoặc không thực hiện thẩm quyền ban hành văn bản quy định cụ thể về các quyền và tự do hiến định của công dân thì có bị coi là vi phạm Hiến pháp hay không? Để trả lời một cách thấu đáo câu hỏi này, cần lưu ý một nguyên tắc quan trọng của Nhà nước pháp quyền: trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, khi Nhà nước ghi nhận và khẳng định quyền và tự do của công dân đồng nghĩa với việc Nhà nước xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của mình phải bảo đảm thực hiện các quyền và tự do đó. Một trong những bảo đảm quan trọng nhất đó là bảo đảm pháp lý, tức là các văn bản pháp luật về quyền và tự do của công dân. Do vậy, sự thiếu hụt hay chậm trễ ban hành của các văn bản quy phạm phạm luật quy định quyền và tự do hiến định của công dân cũng phải được coi là vấn đề Hiến pháp và xem xét tính hợp hiến của hành vi không hành động của cơ quan, cá nhân được trao thẩm quyền.

Ví dụ như về quyền biểu tình, điều 25 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Thế nhưng hiện nay ở Việt Nam chưa hề có luật biểu tình. Đề xuất có Luật Biểu tình đã đưa ra từ lâu, ngay từ Hến pháp năm 1959 điều 25 cũng đã quy định công dân có quyền biểu tình. Nhưng vấn đề này đã được bỏ qua để tập trung cho vấn đề lớn hơn đó là giành độc lập cho dân tộc, phát triển đất nước. Thế nhưng đến nay, đất nước ta đã giành được thái bình, điều luật này vẫn chưa được thông qua mặc dù được khẳng định tính cấp thiết và có nhiều cuộc biểu tình xảy ra. Do không có Luật bảo vệ, người biểu tình rất dễ bị quy vào tội”tụ tập đông người”,”gây rối trật tự công cộng” theo Nghị định 38 của Chính phủ ban hành năm 2005.

Tuy nhiên cũng còn tuỳ thuộc vào tình hình chính trị xã hội hoặc bối cảnh của đất nước cùng sự phù hợp của điều luật nên Quốc hội có thể điều chỉnh, chỉ đạo mà không thông qua luật miễn sao là phù hợp với thực tại và mang lại lợi ích cho nhân dân, vì vậy chưa thể kết luận được rằng có vi hiến hay không mà theo ý kiến cá nhân, đó chỉ là một mặt hạn chế trong việc đảm bảo thực thi Hiến pháp.

Câu 22:

Sinh viên Nguyễn Văn A, không phải là đại biểu Quốc hội, nhận thấy rằng cần thiết phải có một đạo luật về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Anh ta cũng đã có những ý tưởng cơ bản thuộc nội dung của đạo luật đó. Anh A phải làm thế nào để đề xuất ý tưởng của mình thành luật?

Gợi ý đáp án:

Do sinh viên Nguyễn Văn A không phải là đại biểu Quốc Hội nên không có điều kiện để trình bày nguyện vọng của mình trước Quốc Hội 1 cách trực tiếp qua các phiên họp quốc hôi về dự án luật . nhưng gián tiếp, anh có thể thông qua Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, chính đại biểu Quốc hội của địa phương mình để trình bày ý kiến của mình lên quốc hội. Anh sẽ phải đến cơ quan thẩm quyền đó là Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân nơi ở, trình bày trước đại biểu Quốc Hội ở địa phương và đề đạt mong muốn Quốc hội xem xét.

Như đã biết, theo định kỳ chính phủ tổ chức các buổi tiếp dân trực tiếp tại các trụ sở tiếp dân của Nhà nước theo nghị định số 64/2014/NĐ-CP, quy định chi tiết 1 số điều luật tiếp công dân có hiệu lực từ ngày 1/7/2014,do có tới 90% luật do Chính phủ đề đạt và cat thẩm định. Theo đó,A có thể tìm hiều về thời gian và địa điểm làm việc cụ thể của buổi tiếp dân đó qua các phương tiện thông tin đại chúng và tới các buổi tiếp công dân đó do các Bộ trưởng hay Thanh tra chính phủ làm việc để trình bày, đề đạt mog muốn và nguyện vọng của mình. Anh A nên chuẩn bị cho mình 1 vốn kiến thức khá toàn diện và đầy đủ về vấn đề đó, đặc biết vấn đề mà anh mong muốn trở thành luật phải phù hợp với Hiến pháp hiện hành để có thể thuyết phục được cơ quan Nhà nước.

Hiện nay chỉ các cơ quan quốc hội, đại biểu quốc hội, mặt trận tổ quốc và chính phủ mới được quyền trình dự án luật, pháp lệnh và nghị quyết. Các tổ chức cá nhân không thuộc các đối tượng trên không có quyền trình hoặc đề xuất dự án luật. Vì vậy công dân không có quyền trình dự án luật. Tuy nhiên điều 79 Hiến pháp 2013 quy định: “Đại biểu Quốc hội (…) thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan”, vì vậy các cử tri có thể bày tỏ ý kiến của mình với các đại biểu Quốc hội để họ xem xét và trình lên cấp trên.

Hiện tại, các tổ chức phi chính phủ và người dân có thể góp ý vào Luật qua một số kênh. Thứ nhất, người dân góp ý trực tiếp khi văn bản được đưa lên Trang thông tin điện tử của chính phủ, hoặc của cơ quan chủ trì soạn thảo. Một kênh thứ hai quan trọng hơn đó là các cơ hội trao đổi góp ý trực tiếp với Tổ thư ký hoặc Ban soạn thảo. Việc này thường được tổ chức ở hình thức hội nghị, hội thảo góp ý cho các vấn đề do Ban soạn thảo đưa ra, thường là những vấn đề phức tạp, còn nhiều ý kiến khác nhau.

CHỦ TỊCH NƯỚC PHẢI CÔNG BỐ

Trong trường hợp này Chủ tịch nước có quyền đề nghị ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày đạo luật được thông qua, nếu pháp pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất

Quy định của Hiến pháp hiện hành về vấn đề này được thể hiện qua khoản 1, Điều 88 trong chương VI – Chủ tịch nước. Trong mối quan hệ với Quốc hội: Hiến pháp đã quy định về thẩm quyền công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh và đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh.

Câu 25:

Sau khi Ủy ban thường vụ Quốc hội ban thông qua một Pháp lệnh và chuyển sang cho Chủ tịch nước công bố nhưng Chủ tịch nước nhận thấy rằng pháp lệnh này có dấu hiệu bất hợp hiến. Theo em, Chủ tịch nước có thể làm gì trong trường hợp này? Bình luận về quy định của Hiến pháp hiện hành về vấn đề này.

Gợi ý đáp án:

– Theo em, Chủ tịch nước có thể: đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong 10 ngày kể từ ngày pháp lệnh đó được thông qua, nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội tán thành mà Chủ tich nước vấn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất.

– Theo em, quy định của Hiến pháp về vấn đề này khá hợp lý về trình tự giải quyết. Nhưng, nó lại không đề cao vai trò của Chủ tich nước.

Chủ tịch nước như vậy cũng không gọi là có quyền ”phủ quyết tương đối”. Theo em hiểu, ”Phủ quyết tương đối” nghĩa là sự phủ quyết của Chủ tịch nước đã chiếm đến ít nhất 50% biểu quyết. Mà ở đây, Chủ tịch nước chỉ có quyền ”Đề nghị”, cao nhất cũng chỉ là Đề nghị ở kỳ họp Quốc hội tiếp theo. Còn tán thành hay không thì lại do Quốc hội bàn bạc rồi mới đưa ra quyết định. Nói chung, em cảm thấy quyền này của Chủ tịch nước giống như quyền của người tư vấn nhà đất vậy, nêu ra những cái được, cái không của mảnh đất đó nhưng cuối cùng cũng không có quyền quyết định mua hay không.

Câu 26:

Sau khi kỳ họp thứ 11, kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khoá X kết thúc, trả lời phỏng vấn của Phóng viên một tạp chí chuyên ngành về về chức năng của Quốc hội trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, một đại biểu Quốc hội cho rằng trong thời gian qua, Quốc hội “chưa thực sự thực hiện quyền quyết định của mình mà phần lớn là dựa vào đề nghị của Chính phủ rồi đồng ý”. Hãy bình luận nhận định trên.

Gợi ý đáp án:

Trên đây chỉ là ý kiến chủ quan của một đại biểu quốc hội, nhưng có phần đúng, phần nào đã phản ánh chức năng của Quốc hội trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước chưa thực sự hiệu quả, còn tồn tại nhiều hạn chế. Còn thụ động, phần lớn là dựa vào đề nghị của Chính phủ rồi đồng ý. Từ góc độ thực hiện quy trình xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước trong hoạt động của Quốc hội cho thấy những tồn tại, vướng mắc làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.

Tồn tại đầu tiên cần đề cập là chưa có sự phân biệt các lĩnh vực cần ra nghị quyết với các nội dung, hình thức thể hiện trong nghị quyết để xây dựng quy trình xem xét phù hợp. Quy định thời gian cho các khâu chuẩn bị chưa được rõ ràng, không phù hợp với từng loại vấn đề mà Quốc hội bàn bạc, quyết định. Chưa phân biệt và quy định rõ ràng trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan phối hợp soạn thảo, chỉnh lý dự thảo nghị quyết. Lúng túng, bị động trong việc phối hợp hoặc có sự đùn đẩy trách nhiệm, ”miễn cưỡng” tham gia. Hầu hết các nghị quyết về các vấn đề quan trọng của đất nước thường chỉ do Đoàn thư ký kỳ họp soạn thảo, chỉnh lý và xin ý kiến các cơ quan hữu quan. Trong khi đó, có những nghị quyết quan trọng như nghị quyết về nhiệm vụ kinh tế- xã hội hàng năm với những chỉ tiêu, giải pháp lẽ ra phải do Bộ kế hoạch và Đầu tư đứng ra chủ trì dự thảo năm trước rồi gửi cho các cơ quan của Quốc hội tiến hành thẩm tra trước khi trình Quốc hội quyết định. Nghị quyết là văn bản quy phạm pháp luật nhưng trên thực tế hầu như các nghị quyết không chứa đựng cá quy phạm pháp luật, chủ yếu thể hiện thái độ chung của Quốc hội là đồng tình hay không đồng tình việc đã làm hoặc dự kiến làm của các cơ quan Nhà nước, có khi là lời kêu gọi, là khẩu hiệu, mục tiêu phấn đấu. Một số nghị quyết có chỉ tiêu cụ thể, có chứa các quy phạm pháp luật lại ít được Quốc hội xem xét, đánh giá về việc triển khai thực hiện nên có tư tưởng xem nhẹ tính ràng buộc pháp lý của nghị quyết nói chung và quy trình xem xét thông qua nghị quyết. Nhìn tổng thể chúng ta chưa có một quy trình đầy đủ, chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn tổ chức và hoạt động của Quốc hội, phù hợp với yêu cầu nâng cao vị trí, vai trò của Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Các quy định của quy trình còn tản mạn, thiếu thống nhất, thiếu cụ thể dẫn đến việc áp dụng rất lúng túng và chưa hình thành một nền nếp quy củ, rõ ràng, cụ thể, khoa học để giúp cho việc Quốc hội xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước một cách thực chất. Từ đây cho thấy muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội thì việc hoàn thiện quy trình là một nhiệm vụ cấp thiết. Hoàn thiện quy trình là một vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có nhận thức đúng, đầy đủ, toàn diện về các công việc đã được tiến hành và sẽ phải tiến hành. Đây còn là một quá trình vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Ở thời điểm hiện nay, việc hoàn thiện quy trình hướng vào việc nghiên cứu sửa đổi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các quy chế hoạt động của Đại biểu Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Nội quy kỳ họp quốc hội và các nghị quyết, đạo luật liên quan.

Câu 27:

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Văn A cho rằng hoạt động của Bộ trưởng Bộ B không hiệu quả. Đại biểu A muốn Bộ trưởng B phải bị bỏ phiếu tín nhiệm trước Quốc hội. Hỏi Đại biểu A phải làm gì theo đúng trình tự của Hiến pháp hiện hành.

Gợi ý đáp án:

Đại biểu A phải vận động các đại biểu (ít nhất 1/4 số đại biểu đồng ý thì cuộc bỏ phiếu tín nhiệm trước quốc hội mới xảy ra)

Câu 28:

Trả lời chất vấn trước Quốc hội sáng ngày 27/11/2006, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã nói: “Để đảm bảo chất lượng công tác xét xử, cần phải có 5 điều kiện: (1) Người tiến hành tố tụng tốt; (2) hệ thống pháp luật tốt; (3) người tham gia tố tụng tốt;(4) hệ thống các cơ quan hỗ trợ tư pháp tốt; (5) và thực hiện tốt nguyên tắc độc lập tư pháp, tuân theo pháp luật”. Hãy bình luận nhận định trên.

Gợi ý đáp án:

Tôi đồng tình với nhận định trên của chánh án tòa án nhân dân tối cao. Tuy vậy cá nhân tôi thấy 5 nhận định trên chưa cụ thể và nhấn mạnh vào điều kiện quan trọng nhất . Tất nhiên tất cả các yếu tố này đều tác động đến hoạt động xét xử. Nếu các yếu tố tốt thì hoạt động xét xử có thể tốt và ngược lại. Mặc dù 5 điều kiện là cần thiết xong tôi thấy rằng yếu tố Người tiến hành tố tụng tốt là điều kiện quan trọng hơn cả. Một bản án cụ thể là kết quả tổng hợp từ quá trình tác nghiệp của các cơ quan tố tụng, nhưng phán quyết cuối cùng của Tòa án là quan trọng hơn cả. Những bản án nghiêm minh, đúng người, đúng tội luôn nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân. Tuy nhiên, vì lý do nào đó mà bản án được tuyên theo kiểu ”giơ cao, đánh khẽ”, hoặc oan, sai, thì người dân chúng sẽ không thể chấp nhận. tôi rất đồng tình với ý kiến của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng: Phải đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án, nhất là Thẩm phán, thật sự có năng lực, phẩm chất để đáp ứng yêu cầu xét xử hiện nay. Có như vậy mới góp phần làm giảm những vụ án bị xét xử oan, sai. Vậy càng chứng tỏ điều kiện tiên nhất để đảm bảo chất lượng công tác xét xử là người tiến hành tố tụng tốt và sau đó là các yếu tố kia…

Và điều quan trong hơn cả đối với công tác xét xử đó chính là Tư pháp phải độc lập hoàn toàn với hành pháp và lập pháp.

Thắc mắc của ông chánh án cho thấy ông tỏ ra thiếu hiểu biết về vai trò, chắc năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đặc biệt là quyền giám sát của đại biểu Quốc hội, cũng như cho thấy thái độ với việc tiếp thu chất vấn của đại biểu Quốc hội của ông có phần chưa đúng mực. Theo điều 40 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, mọi đại biểu Quốc hội đều có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chất vấn có thể thể hiện bằng văn bản hoặc hỏi trực tiếp. Như vậy, việc đại biểu Quốc hội ở tận Vũng Tàu chất vấn ông chánh án bằng công văn gửi về Hà Nội là phù hợp pháp luật, và ông chánh án có nghĩa vụ phải giải đáp mà không được thắc mắc.

Câu 30:

Theo Hiến pháp: “Luật, Nghị quyết phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội tán thành, trừ các trường hợp Quốc hội bãi nhiệm ĐBQH, rút ngắn, kéo dài nhiệm kỳ Quốc hội thì phải được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành…”.

Do vậy, Quốc hội bỏ phiếu bãi nhiệm đại biểu Quốc hội do có nhiều ý kiến cho rằng ĐBQH đó không còn được tín nhiệm. Có 60% tổng số đại biểu tán thành việc bãi nhiệm này. Vậy thì kết quả bỏ phiếu sẽ không được Quốc hội thông qua, vì chỉ mới có 60% tổng số đại biểu tán thành, chưa đủ so với con số ít nhất 2/3 (66,67%) tổng số đại biểu QH. Nên đại biểu đó sẽ không phải từ chức mà sẽ hoạt động công tác theo nhiệm kỳ của mình. Nhưng đại biểu này cần phải xem xét lại việc thực hiện phá luật của mình, trách nhiệm của mình với nhân dân, tại sao nhiều cử tri của mình lại lên tiếng bất tín nhiệm như vậy.

Giá tri của bỏ phiếu bãi nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm:

* Bỏ phiếu bãi nhiệm: ĐBQH đại diện cho thực hiện ý chí, mong muốn của nhân dân, thay mặt dân thực hiện quyền lợi cho nhân dân, khi không còn được cử tri tín nhiệm, đại biểu sẽ bị Quốc hội bãi nhiệm khi có ít nhất 2/3 tổng số ĐBQH biểu quyết tán thành việc bãi nhiệm, đại biểu đó sẽ phải từ chức. Có thể thấy khi không có trách nhiệm với nhân dân, không đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng, ý chí của nhân dân thì dại biểu sẽ bị nhân dân bãi miễn, Quốc hội chỉ là dại diện cho quyền lực của nhân dân, thay nhân dân tìm ra những người đại biểu có năng lực, trách nhiệm phục vụ Nhà nước, phục vụ nhân dân.

* Bỏ phiếu tín nhiệm:

– Giá trị của bỏ phiếu tín nhiệm là niềm tin của cử tri

– Là kiểm chứng tính liên tục, bền vững về năng lực, phẩm chất những người được tín nhiệm cao, đồng thời là dịp để đánh giá, khắc phục những hạn chế trong quá trình thực thi nhiệm vụ của những cán bộ có nhiều phiếu tín nhiệm thấp trong lần lấy phiếu trước đó, và là cơ hội để các đại biểu có nhiều phiếu tín nhiệm thấp lần này cố gắng, nỗ lực hơn nữa với trách nhiệm của mình với nhân dân.

– Việc lấy phiếu tín nhiệm đảm bảo được tính khách quan, dân chủ, phản ánh được ý chí của nhân dân trong việc đặt niềm tin vào đại biểu của mình.

– Đây là cách ĐBQH thay mặt cử tri của mình đánh giá mức độ hoàn thành công việc, nhiệm vụ, trách niệm của các cán bộ chủ chố trong bộ máy Nhà nước. Khi các ĐBQH lấy phiếu tín nhiệm những chức danh của mình đã bầu và phê chuẩn thì lá phiếu không còn là của chính họ mà là của cử tri đã bầu ra họ. Do đó, nếu ĐBQH làm méo mó giá trị của lá phiếu tức là họ đã tự tước đi quyền lợi và quyền lực chính đáng của mình.

– Có 3 mức lấy phiếu tín nhiệm, đó là: tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp.

Câu 31:

Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm một đại biểu Quốc hội vì có nhiều ý kiến cho rằng đại biểu không còn được cử tri tín nhiệm. Có 40% tổng số đại biểu tín nhiệm đại biểu này. Kết quả bỏ phiếu này có giá trị như thế nào? Giá trị của bỏ phiếu tín nhiệm khác gì so với lấy phiếu tín nhiệm?

Trả lời:

Căn cứ pháp lý: Nghị quyết 85/2014/QH13

[http://www. moj. gov. vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail. aspx?ItemID=30242]

Khái niệm:

1. Lấy phiếu tín nhiệm là việc Quốc hội, Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát, đánh giá mức độ tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn để làm cơ sở cho việc xem xét đánh giá cán bộ.

2. Bỏ phiếu tín nhiệm là việc Quốc hội, Hội đồng nhân dân thể hiện sự tín nhiệm hoặc không tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn để làm cơ sở cho việc miễn nhiệm hoặc phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm người không được Quốc hội, Hội đồng nhân dân tín nhiệm.

Giá trị:

1. Giá trị lấy phiếu tín nhiệm: Đánh giá mức độ tín nhiệm của Quốc hội đối với những chức vụ lãnh đạo được Quốc hội bầu. Mang tính chất tham khảo để người giữ chức vụ tự đánh giá chính mình và Quốc hội đánh giá người giữ chức vụ đó

* Nếu có trên 50% Quốc hội bỏ phiếu “Tín nhiệm thấp” thì người giữ chức vụ đó có thể xin từ chức.

* Nếu 2 năm liên tục bị hơn 50% Quốc hội bỏ phiếu “Tín nhiệm thấp” thì Quốc hội tiến hành Bỏ phiếu tín nhiệm

* Nếu trên 2/3 đại biểu Quốc hội bỏ phiếu Tín nhiệm thấp thì Quốc hội tiến hành Bỏ phiếu tín nhiệm

2. Giá trị bỏ phiếu tín nhiệm: Làm cơ sở, tiền đề cho việc xem xét bãi nhiệm, cách chức người bị bỏ phiếu bất tín nhiệm cho Quốc hội

* Người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bỏ phiếu “không tín nhiệm” thì cơ quan hoặc người có thẩm quyền đã giới thiệu người đó để Quốc hội có trách nhiệm trình Quốc hộixem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức đối với người không được Quốc hội. tín nhiệm.

Xét trường hợp đề bài: Như vậy chỉ có 40% đại biểu bỏ phiếu tín nhiệm đại biểu đó, nghĩa là có 60% đại biểu Quốc hội bỏ phiếu không tín nhiệm. Nếu đại biểu này giữ các chức vụ do Quốc hội bầu thì cá nhân hoặc cơ quan giới thiệu đại biểu đó (trước đây) có trách nhệm trình Quốc hội xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức đối với người không được Quốc hội tín nhiệm.

Câu 32:

Trong thời gian qua, Quốc hội đã tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn dựa trên 3 mức đánh giá: tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp. Hãy bình luận quy định pháp luật và thực tiễn thực thi việc bỏ phiếu tín nhiệm ở nước ta.

– Mục đích của việc lấy phiếu tín nhiệm:

+ Nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn; giúp những người này nhận thấy được mức độ tín nhiệm để có biện pháp phấn đấu, rèn luyện, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của mình.

+ Làm cơ sở cho việc đánh giá cán bộ của cơ quan có thẩm quyền.

+ Bỏ phiếu tín nhiệm làm cơ sở cho việc miễn nhiệm chức vụ đối với người mà Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân không còn tín nhiệm.

– Việc lấy phiếu tín nhiệm ở Việt Nam có 3 mức: tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp để lựa chọn các đối tượng yếu kém dành cho bước tiếp theo đó là bỏ phiếu tín nhiệm. Tuy nhiên với 3 mức này, làm cho tất cả đều được tín nhiệm, hoàn toàn triệt bước bỏ phiếu tín nhiệm và rất khó định lượng giữa “tín nhiệm thấp” và “tín nhiệm cao”. Vì lấy có thể thấy lấy phiếu tín nhiệm là việc làm vô ích, không ai bị cách chức, mọi thứ vẫn y nguyên.

– Việc lấy phiếu tín nhiệm ở VN chưa hiệu quả, cần đảm bảo tính công khai, minh bạch, công tâm, tránh các mục đích vụ lợi, trục lợi. Cần thay đổi 3 mức lấy phiếu tín nhiệm thành 2 mức: “Tín nhiệm” và “Không tín nhiệm”.

Câu 33:

Trong phiên thảo luận về dự án Luật Đầu tư Công tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội chiều ngày 21 tháng 2 năm 2014, khi nói đến trách nhiệm của Quốc hội trong việc thông qua các chủ trương đầu tư kém hiệu quả, Chủ tịch Quốc hội cho rằng: Quốc hội là cơ quan lập pháp, nếu quyết sai cũng phải nhận khuyết điểm chứ không phải kỷ luật, Chủ tịch Quốc hội cũng không phải người đứng đầu Quốc hội. Vì thế, không thể vì cả 500 đại biểu bỏ phiếu mà kỷ luật cả 500 vị hay kỷ luật ông Chủ tịch. Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai. Hãy bình luận nhận định trên.

Gợi ý đáp án:

– Quốc hội là cơ quan Đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước CHXHCNVN. Ở VN, chưa có một cơ chế hay cơ quan nào xử lí các sai phạm của Quốc hội. Vì vậy ý kiến của Chủ tịch Quốc hội cho rằng: “, nếu quyết sai cũng phải nhận khuyết điểm chứ không phải kỷ luật” là ý kiến đúng. Trên thực tế,”Không phải tất cả công trình đều đưa ra QH, Ủy ban nhân dân, chỉ những công trình quan trọng, phạm vi ảnh hưởng rộng, tác động nhiều môi trường dân cư, di dân, xã hội, nền kinh tế quốc dân mới đưa ra Quốc hội xem xét cho làm hay không. Ý chí của Quốc hội là cho biểu quyết, trên 51% thì được đánh giá là quan trọng. Ý chí của Quốc hội thể hiện trong tham mưu, thảo luận đi – lại để cuối cùng đa số ĐBQH thấy là đồng ý chủ trương làm rồi mới xây dựng dự án để đầu tư, qua hội đồng thẩm định, quan kênh A, B, nhà khoa học, tham khảo, tư vấn… rồi mới đến quyết định đầu tư dự án của ông Thủ tướng. ”

– Tuy nhiên, Quốc hội cũng không thể đổ trách nhiệm về nhân dân, “Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu” mà Quốc hội phải tìm ra một giải pháp tối ưu nhất để đảm bảo lợi ích của người dân chứ không thể để tình trạng Quốc hội làm, dân chịu và cần thiết có 1 cuộc bỏ phiếu tiếp quyết định lại chủ trương để đạt hiệu quả cao nhất và cần hết sức thận trọng khi quyết định một chủ trương.

Câu 34:

Trả lời phỏng vấn của các phóng viên tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa 13, Bộ trưởng Bộ Y tế nêu quan điểm về tình trạng quá tải ở những bệnh viện tuyến trên, rằng: “Thiếu giường bệnh thì phải hỏi Nhà nước”. Hãy bình luận quan điểm trên của người đứng đầu ngành Y tế Nhà nước.

Gợi ý đáp án:

=> Quan điểm của Bộ trưởng Bộ Y tế là hoàn toàn Sai. Bộ trưởng dường như chưa phân biệt được vị trí, vai trò của một cá nhân với vị trí, vai trò của một bộ trưởng, thể hiện mình là một người vô trách nhiệm

– Điều 99 Hiến pháp 2013 thì:

Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc.

– Và nghị định 188/2007/NĐ-CP về chức năng nhiệm vụ,quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ y tế,khoản 3 điều 2 quy định nhiệm vụ quyền hạn của bộ y tế: “Chủ trì, phối hợp với bộ tài chính, trình thủ tướng chính phủ quyết định danh mục dữ trữ quốc gia; tổ chức thực hiện dự trữ quốc gia về thuốc, hóa chất, trang thiết bị y tế, phương tiện phòng chống dịch bệnh, thiên tai thảm họa theo quy định của pháp luật.

Nhà nước chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Còn việc “thiếu giường bệnh” là vấn đề của Bộ Y tế, vì thế Bộ trưởng phải có trách nhiệm với các lĩnh vực liên quan đến ngành của mình. Trong tình huống này, nếu như bộ trưởng bộ y tế nhận thấy thiếu giường bệnh mà không đề xuất phối hợp với bộ tài chính và trình thủ tướng chính phủ cấp chi phí khắc phục vấn đề trên thì bộ trưởng bộ y tế phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện đúng nhiệm vụ của mình. Còn trong trường hợp bộ trưởng đã báo cáo đến chính phủ nhưng không được phê duyệt thì lại là trách nhiệm của thủ tướng

Câu 35:

Trong phiên họp Quốc hội sáng ngày 04 tháng 6 năm 2011, bàn về chương trình làm luật cho năm 2011, một đại biểu nêu quan điểm: “Tôi đề nghị Quốc hội lên tiếng để Chính phủ và các cơ quan giải thích vì sao đưa vào (đưa dự luật vào chương trình làm luật) rất nhiều lập luận, đưa ra (rút dự luật khỏi chương trình làm luật) lại rất nhẹ nhõm. Nhiều bộ luật lấy lý do nhạy cảm liên quan quốc phòng an ninh hay quan hệ quốc tế thì đồng ý, nhưng nhiều vấn đề không nhạy cảm thì sao?” Hãy bình luận về vai trò của Chính phủ trong qui trình lập pháp hiện nay thông qua phát ngôn trên.

Gợi ý đáp án:

– Quyền lập pháp của Chính phủ được thực hiện trên cơ sở quyền trình dự án luật, pháp lệnh.

– Việc đưa vào (đưa dự luật vào chương trình làm luật) rất nhiều lập luận cho thấy: CP muốn thể hiện tính đúng đắn, cần thiết của các dự án luật do CP trình Quốc hội thông qua. Còn việc đưa ra (rút dự luật khỏi chương trình làm luật) lại rất nhẹ nhõm cho thấy Chính phủ không muốn công khai với tàn thể nhân dân sự bất cập, bất hợp lí trong các bộ luật do mình đề xuất, thể hiện sự thiếu trách nhiệm của CP, nhất là trách nhiệm giải trình trước Quốc hội mà nếu có thì chỉ là những lí do hết sức đơn giản.

=> Vì vậy, trong qui trình lập pháp, Chính phủ phải cân nhắc thật kĩ, bản thân các Đại biểu cũng phải có trách nhiệm trong việc đưa vào và rút ra các dự án luật.

Câu 36:

Quốc hội tổ chức bỏ phiếu để kéo dài nhiệm kỳ của mình thêm một năm. Kết quả có 60% tổng số đại biểu tán thành việc kéo dài. Kết quả bỏ phiếu này đã đủ để Quốc hội kéo dài nhiệm kỳ không?

Gợi ý đáp án:

Không vì: Theo Khoản 3 Điều 71 Hiến pháp 2013 có quy định rõ: 3. Trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá mười hai tháng, trừ trường hợp có chiến tranh.

Tuy nhiên, trong tình huống mới chỉ có 60% tổng số đại biểu tán thành chưa đạt 2/3 vì vậy không đủ.

Câu 37:

Ông H. là Giám đốc Công ty điện lực tỉnh C, đồng thời là đại biểu Quốc hội. Cơ quan Công an phát hiện ông H có hành vi tham ô, muốn ra lệnh bắt để tạm giam ông này phục vụ cho việc điều tra. Để bắt ông H, cơ quan chức năng phải thực hiện thủ tục gì theo quy định của Hiến pháp hiện hành?

– Điều 20 Hiến pháp 2013

2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.

– Điều 81 Hiến pháp 2013

Không được bắt, giam, giữ, khởi tố đại biểu Quốc hội nếu không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; trong trường hợp đại biểu Quốc hội phạm tội quả tang mà bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

Trong trường hợp này cơ quan Công an không bắt quả tang vị đại biểu này nên không được phép tạm giữ. Mà cơ quan công an cần phải trình lên Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, nếu ủy ban thường vụ Quốc hội đồng ý thì cơ quan công an mới có quyền bắt giữ để điều tra.

Câu 38:

Trả lời phỏng vấn báo chí, một đại biểu Quốc hội phát biểu về vai trò của luật sư: “Luật sư ở Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền“. Phản ứng trước phát biểu này, Liên đoàn Luật sư đã có công văn đề nghị Chủ tịch Quốc hội và Chủ tịch Ủy ban tư pháp xem xét tư cách và trách nhiệm của đại biểu Quốc hội đó. Hãy bình luận về vụ việc trên.

Gợi ý đáp án:

Theo điều 25, Hiến pháp 2013 quy định: Công dân có quyền tự do ngôn luận. Tuy nhiên trong trường hợp phát ngôn của vị đại biểu quốc hội này đã đưa ra một cách đánh giá phiến diện, “mang tính quy chụp và thiếu căn cứ đối với nghề luật sư

Phát ngôn này của đại biểu quốc hội là một nhận định thiếu căn cứ và trái với quy định tại Điều 3, Luật luật sư (được sửa đổi bổ sung năm 2012) về chức năng xã hội của luật sư, theo đó: “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ qua, tổ chức, phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”

Bởi vậy có thể nói việc phát ngôn của đại biểu quốc hội trên cần được xem xét lại và đại biểu quốc hôi trên cần phải xin lỗi hoặc có câu trả lời thỏa đáng cho những luật sư làm việc với lương tâm và đạo đức nghề nghiệp.
Tuy nhiên, câu nói của đại biểu quốc hội này cũng nêu lên được thực trạng xã hội Việt Nam hiện nay, đó là việc những người nghèo thường không có tiền thuê luật sư bào chữa. Một con số đáng để chúng ta suy nghĩ đó là trong 100 vụ án hiện nay, có đến 80% không có luật sư bào chữa. Một phần do thiếu luật sư và cũng vì 80% cá vụ án đó liên quan đến người nghèo không có tiền thuê luật sư để bào chữa. Thê nhưng điều ngược lại 100% số vụ án kinh tế như tham nhũng, tranh chấp đất đai thì rất nhiều luật sư bào chữa,. .

Từ thực trạng nêu trên, điều đặt ra cho giới luật sư, những người muốn đảm bảo công bằng, công lý cho xã hội đó là tập trung giải quyết vấn đề làm sao để xóa bỏ thực tế chỉ người có tiền mới nhờ được luật sư?

Vì nhiều hạn chế mà hiện nay ở Việt Nam, chỉ trong một số trường hợp cụ thể Nhà nước mới đứng ra trả tiền cho luật sư bào chữa thay cho các bị can, bị cáo không được bào chữa vì lý do kinh tế trước tòa án. Để cải thiện điều này, giới luật sư Việt Nam cần góp ý một cách thỏa đáng hơn trong bộ luật Tố tụng hình sự, kêu gọi mở rộng quyền được bào chữa của bị can, bị cáo cho những vụ án hình sự lớn nhỏ và nếu bị can, bị cáo không thể trả tiền thuê mướn luật sư, Nhà nước sẽ phải trả tiền cho họ. Đó là cách giải quyết tốt hơn cho xã hôi và phản ánh được lập trường của giới luật sư Việt Nam.

+ Mặc dù vậy, ĐBQH Đỗ Văn Đương vẫn khẳng định “điều tôi nói là tiếng nói của dân, xuất phát từ thực tế” và ông cũng cho rằng: “Hiến pháp quy định đại biểu phát ngôn được quyền miễn trừ trách nhiệm” Nhưng quyền không chịu trách nhiệm về phát biểu của đại biểu chỉ ở tại phiên họp, chứ không phải ở ngoài đường, hay bên ngoài hành lang thế này có lẽ cũng không được coi là ở trong phiên họp. Các phát biểu bên ngoài thì đại biểu vẫn phải chịu trách nhiệm như người bình thường.

Thiết nghĩ, nếu đã phát biểu tại tổ, hay hội trường thì cũng phải cân nhắc, thận trọng, chứ không phải suồng sã, hay xúc phạm người khác. Đại biểu có quyền như thế nhưng nếu phát biểu xúc phạm người ta thì họ cũng có quyền lên tiếng.

Câu 39:

Trả lời phỏng vấn báo chí, một đại biểu Quốc hội phát biểu về vai trò của luật sư: “Luật sư ở Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền“. Phản ứng trước phát biểu này, Liên đoàn Luật sư đã có công văn đề nghị Chủ tịch Quốc hội và Chủ tịch Ủy ban tư pháp xem xét tư cách và trách nhiệm của đại biểu Quốc hội đó. Hãy bình luận về vụ việc trên.

Gợi ý đáp án:

Trong vụ việc này, vị đại biểu Quốc hội đã có phát ngôn sai sự thật, làm ảnh hưởng tới uy tín, danh dự của người hành nghề luật sư ở Việt Nam. Nếu xét theo quan điểm cá nhân, câu nói này thiếu tính khách quan. Cái nhìn của vị đại biểu phiến diện đã không nhìn nhận tồng thể sự việc, đưa ra nhận định gây ảnh hưởng trực tiếp tới danh dự của người hành nghề luật. Xét theo góc độ pháp lí, việc làm này đã vi phạm khoản 1 điều 21 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bao vệ danh dự, uy tín của mình. “.

Việc liên đoàn luật sư yêu cầu…

Câu 40:

Trên một diễn đàn blog cá nhân của mình, một đại biểu Quốc hội đã có những nhận định rất gay gắt về một vị đại biểu Quốc hội khác. Cho rằng phát biểu của đại biểu Quốc hội này là không phù hợp với chuẩn mực văn hóa tranh luận và làm ảnh hưởng đến ủy tín của Đoàn đại biểu, Đoàn đại biểu Quốc hội đã họp yêu cầu đại biểu Quốc hội đó xin lỗi công khai. Hãy bình luận về vụ việc trên.

Gợi ý đáp án:

– Trước hết cần phải biết rằng Blog cá nhân như là một cuốn nhật kí online nhằm thông báo, chia sẻ những cảm xúc, sự kiện diễn ra hằng ngày, mọi người đều có thể xem và chia sẻ.

+ Vấn đề thứ nhất: Đại biểu A có những nhận định gay gắt về đại biểu B trên Blog cá nhân là không đúng. Bởi vì Blog cũng là 1 loại mạng xã hội, thông tin rất nhanh và sẽ được nhiều người biết đến. Việc có những nhận định gay gắt về đại biểu B có nghĩa là đại biểu A đã xâm phạm đến quyền tự do ngôn luận của A và sẽ ảnh hưởng đến uy tín và danh dự của ĐB A, như thế là không nên mà nếu có bức xúc gì thì ĐB A nên gặp trực tiếp ĐB B để cùng trao đổi về quan điểm của cả 2 người

– Vấn đề thứ hai: Khi nghe ý kiến của đại biểu A, Đoàn đại biểu đã đưa ra yêu cầu Đại biểu B phải xin lỗi là chưa đảm bảo tính khách quan. Vì Đoàn đại biểu chưa có 1 cuộc họp hay 1 hoạt động xem xét nào mà đã họp đưa ra kết luận đại biểu B phải xin lỗi với nhận đinh của mình. Đoàn đại biểu mới chỉ nghe ý kiến đưa ra từ phía Đại biểu A. Do đó nếu như bị buộc xin lỗi công khai khi chưa được xem xét rõ ràng thì danh dự của đại biểu B sẽ bị ảnh hưởng.

Nhưng nếu thực sự đại biểu B đã sai thì việc xin lỗi công khai thì không có gì phải bàn cãi . Điều quan trọng ở đây là thấy được cái hạn chế trong cách làm việc của Đoàn đại biểu là chưa khách quan và đảm bảo quyền con người .

Câu 41:

Sáng 30/7/2007, tại Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã thuyết trình phương án thay đổi bộ máy Chính phủ từ 26 bộ, cơ quan ngang bộ xuống còn 22. Những bộ, cơ quan nganh bộ nào đã được điều chỉnh? Tại sao lại có sự điều chỉnh đó?

Gợi ý đáp án:

Trong tờ trình cơ cấu tổ chức Chính phủ mới, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đề nghị giảm số Bộ, cơ quan ngang bộ từ 26 xuống còn 22. Cụ thể về giảm số Bộ, cơ quan ngang bộ như sau: Hợp nhất Bộ Thủy sản với Bộ NNPTNT thành Bộ NNPTNT – sẽ thành lập Cục hoặc Tổng cục Thuỷ sản trực thuộc Bộ NNPTNT; Hợp nhất Bộ Công nghiệp và Bộ Thương mại thành Bộ Công thương, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm; Giải thể Uỷ ban Dân số Gia đình và Trẻ em – chuyển chức năng quản lý Nhà nước về dân số sang Bộ Y tế – thành lập Cục hoặc Tổng cục Dân số; Chuyển chức năng quản lý Nhà nước về gia đình sang Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch; Chuyển chức năng quản lý Nhà nước về trẻ em sang các bộ có liên quan; Hợp nhất Ủy ban Thể dục thể thao với Bộ Văn hóa Thông tin, giao Bộ này quản lý Tổng cục Du lịch và đổi tên thành Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch.

4 nhiệm kỳ gần đây, Chính phủ đã cố gắng sắp xếp lại tổ chức nhưng hoạt động vẫn còn một số bất cập.

Theo đó, bộ máy còn cồng kềnh, một số bộ, cơ quan ngang bộ chưa được sắp xếp hợp lý nên chưa bao quát hết các chức năng nhiệm vụ. Tuy đã có phân cấp nhưng một số bộ, cơ quan ngang bộ trong hoạt động còn hạn chế, thủ tục hành chính rườm rà, chậm trễ quan liêu.

Người đứng đầu Chính phủ đánh giá, xét trên nhiều khía cạnh, việc cải cách thủ tục hành chính còn chưa theo kịp sự phát triển của xã hội.

Ông cho biết, cơ cấu Chính phủ mới nhằm khắc phục những hạn chế trên. ”Việc thay đổi này theo xu hướng một bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Mỗi việc phải có một người chuyên sâu chịu trách nhiệm”, Thủ tướng nhấn mạnh.

Câu 42:

Bộ trưởng Bộ A cho rằng một lĩnh vực do Bộ mình đang chịu trách nhiệm nhưng lại được giao cho một Bộ khác quản lý. Bộ trưởng A có thể xử lý như thế nào?

Trong trường hợp này Bộ trưởng Bộ A cần phải thương lượng với Bộ Trưởng kia để cùng giải quyết vấn đề một cách tốt nhất. Trong trường hợp không thương lượng được, Bộ trưởng Bộ A phải đề nghị lên Chính phủ để xem xét, giải quyết vấn đề.


Các tìm kiếm liên quan đến bài tập tình huống luật Hiến pháp, câu hỏi tình huống luật Hiến pháp, bài tập Hiến pháp, bài tập nhận định đúng sai luật Hiến pháp, câu hỏi luật Hiến pháp có đáp án, bài tập luật Hiến pháp 2, câu hỏi trắc nghiệm môn luật Hiến pháp, đề thi luật Hiến pháp đại học luật tp hcm, câu hỏi trắc nghiệm luật Hiến pháp có đáp án, đề cương ôn tập luật hiến pháp- đại học luật tphcm, Trả lời nhận định đúng sai môn luật Hiến pháp, luật hiến pháp việt nam – đề cương môn học – câu hỏi ôn tập và những tình huống pdf

5/5 - (12711 bình chọn)

Phản hồi

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền