Án treo trong Bộ luật hình sự năm 2015

Án treo

Án treo là một chế định pháp lý mà không phải pháp luật hình sự của quốc gia nào cũng có. Khi sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 để ban hành BLHS năm 2015, trong quá trình soạn thảo và thông qua, cũng có nhiều ý kiến đề nghị bỏ chế định án treo, vì đã có hình phạt cải tạo không giam giữ cũng tương tự như án treo. Tuy nhiên, sau khi cân nhắc, xem xét tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, Quốc hội đồng ý giữ lại chế định án treo. Điều 65 BLHS năm 2015 có quy định về án treo, như sau:

 

Điều 65. Án treo

1. Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

2. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.

3. Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này.

4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.

5. Trong thi gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chp hành hình phạt của bản án trước và tng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

 

Nếu so với Điều 60 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì chế định về án treo quy định tại Điều 65 BLHS năm 2015 được nhà làm luật sửa đổi, bổ sung về nội dung đầy đủ hơn, bao quát hơn; về câu từ rõ nghĩa hơn, chính xác hơn. Cụ thể:

Một là, tại khoản 1 bổ sung cụm từ “thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.”. Các nghĩa vụ của người được hưởng án treo phải thực hiện, được quy định tại Điều 64 Luật Thi hành án hình sự (viết tắt Luật THAHS) năm 2010, bao gồm:

1. Chấp hành nghiêm chỉnh cam kết của mình trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, làm việc; tích cực tham gia lao động, học tập; chấp hành đầy đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
2. Phải có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục.
3. Trường hợp người được hưởng án treo đi khỏi nơi cư trú từ 01 ngày trở lên thì phải khai báo tạm vắng.
4. Ba tháng một lần trong thời gian thử thách người được hưởng án treo phải nộp bản tự nhận xét về việc chấp hành pháp luật cho người trực tiếp giám sát, giáo dục; trường hợp đi khỏi nơi cư trú từ 03 tháng đến 06 tháng, thì phải có nhận xét của Công an cấp xã nơi người đó đến lưu trú hoặc tạm trú để trình với Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người đó.

Hai là, thay vì phải sử dụng phương pháp dẫn chiếu đến các điều luật tương ứng quy định về hình phạt bổ sung, nếu người được hưởng án treo bị buộc phải chấp hành loại hình phạt bổ sung mà tội danh và điều luật Tòa án đang áp dụng có quy định, hơn nữa, nội dung quy định tại khoản 3 Điều 60 BLHS năm 1999 cũng không quy định rõ chủ thể có quyền áp dụng hình phạt bổ sung đó là ai. Để khắc phục hạn chế vừa nêu, khoản 3 Điều 65 BLHS năm 2015 tuy cũng diễn tả nội dung đó, nhưng kỹ thuật lập pháp được vận dụng nhuần nhuyễn hơn, rõ ràng hơn bằng cách quy định trực tiếp và chỉ rõ chủ thể “Tòa án” có thể quyết định áp dụng hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định loại hình phạt này đối với người được hưởng án treo.

Ba là, tại khoản 5 Điều 65 BLHS năm 2015, nhà làm luật bổ sung quy định quan trọng nhằm bảo đảm người được hưởng án treo phải chấp hành tốt các nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định trong thời gian thử thách. Nếu người được hưởng án treo trong thời gian thử thách cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 64 Luật Thi hành án hình sự năm 2010, từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Đây là điểm bổ sung hoàn toàn mới, mà trước đó, quy định về án treo tại Điều 44 BLHS năm 1985, Điều 60 BLHS năm 1999 chưa đề cập đến.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu quy định về án treo trong BLHS năm 2015 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành án treo trước đó của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, tác giả thấy rằng quy định tại Điều 65 BLHS năm 2015 vẫn chưa khắc phục được những tồn tại, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng chế định này mà trước đó, Điều 60 BLHS năm 1999 vẫn chưa giải quyết được, đó là:

Thứ nhất, cũng như các điều luật quy định về án treo trước đây, Điều 65 BLHS năm 2015 vẫn chưa đưa ra được khái niệm về án treo. Vậy, án treo là gì?

Câu hỏi này tuy được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thích trong các văn bản quy phạm pháp luật, nhưng chưa có sự thống nhất về nội dung giải thích. Cụ thể, Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1985 (viết tắt Nghị quyết 02/HĐTP) có giải thích về án treo, mà theo đó “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”. Còn Nghị quyết số 01-HĐTP ngày 18/10/1990, của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1985 (viết tắt Nghị quyết số 01-HĐTP) có giải thích về án treo: “Án treo là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”. Gần đây nhất, tại Điều 1 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng Điều 60 BLHS về án treo (viết tắt Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP), giải thích: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện…”. Vậy, án treo theo quy định tại Điều 65 BLHS năm 2015 được hiểu là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện hay là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện? Hiểu theo hướng nào cho đúng và chính xác? Theo quan điểm của tác giả, sẽ là phù hợp hơn, nếu án treo được giải thích theo tinh thần Nghị quyết số 01-HĐTP ngày 18/10/1990 “Án treo là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện…” giải thích này vừa bảo đảm tính đồng bộ với các nội dung quy định của các luật có liên quan vừa thống nhất trong hệ thống pháp luật.

Thứ hai, thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo là khi nào?

Hiện tại theo quy định tại Điều 4 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP, thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo như sau:

Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án đầu tiên cho hưởng án treo; cụ thể như sau:
1. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
2. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm cũng cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
3. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án phúc thẩm.
4. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại và Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
5. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, nhưng bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm bị hủy để điều tra lại và sau đó xét xử sơ thẩm lại, xét xử phúc thẩm lại, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm hoặc tuyên án phúc thẩm lần sau theo hướng dẫn tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này.

Từ nội dung hướng dẫn trên có thể thấy, với trường Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Cách tính như vậy là không công bằng giữa trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian bản án mà họ được hưởng án treo chưa có hiệu lực pháp luật với trường hợp người hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian bản án mà họ được hưởng án treo đã có hiệu lực pháp luật. Vì cả hai trường hợp này, đều có chung một hậu quả pháp lý là người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù mà Tòa án đã cho hưởng án treo và hình phạt đối với tội mới đã phạm.
Việc người được hưởng án treo, phạm tội mới trong thời gian bản án mà họ được hưởng án treo chưa có hiệu lực pháp luật lại buộc họ phải chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo là không đúng với tinh thần khoản 1 Điều 2 Luật THAHS năm 2010, quy định về bản án, quyết định có hiệu lực và đã có quyết định thi hành.

Trước hết, về ý nghĩa của thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo. Theo quy định tại Điều 65 BLHS năm 2015, người được Tòa án cho hưởng án treo phải chấp hành một thời gian thử thách, ít nhất là một năm, nhiều nhất năm năm. Mà theo đó, thời gian thử thách đối với người được hưởng hưởng án treo là khoảng thời gian Nhà nước thực hiện sự kết hợp giữa trừng trị với giáo dục đối với người phạm tội bằng hình thức người được hưởng án treo tự sửa chữa lỗi lầm, tự cải tạo mình bằng cách tích cực học tập, lao động, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của nhân dân, chính quyền địa phương, của cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Mặt khác, thời gian thử thách cũng là thời gian có ý nghĩa về đấu tranh phòng ngừa tội phạm đối với người được hưởng án treo và đối với phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Cụ thể:

– Đối với người được hưởng án treo: Nếu họ tích cực học tập, lao động nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, không phạm tội mới thì họ sẽ không phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo. Hoặc vừa không phải chấp hành hình phạt tù nhưng được hưởng án treo, đồng thời, còn có thể được xem xét rút ngắn thời gian thử thách khi họ có đủ điều kiện do pháp luật quy định. Còn trường hợp họ không tự cải tạo thành người tốt, mà lại phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo và hình phạt của tội mới đã phạm.

– Đối với công tác phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội: Nói đến công tác phòng ngừa tội phạm là nói đến hoạt động phòng ngừa ngay đối với chính bản thân người đang hoặc sẽ có ý định phạm tội. Cũng không thể phủ nhận rằng, thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy, quá trình người được hưởng án treo tự cải tạo trong thời gian thử thách tại địa phương nơi cư trú, nơi làm việc, học tập,…có tác động rất nhiều đến người đang hoặc sẽ có ý định phạm tội. Nghĩa là, họ sẽ tự nhận biết được rằng, nếu phạm tội mà được Tòa án cho hưởng án treo thì cũng đã tự đánh mất mình trong khoảng thời gian thử thách. Từ đó, họ đoạn tuyệt hẳn với ý định “xấu” mà họ định thực hiện và thông qua sự thức tỉnh, hướng thiện đó sẽ có tác động tích cực lôi kéo thêm những người khác có thể là bạn bè, người thân của họ, do vậy, sẽ rất có ý nghĩa hơn gấp nhiều lần nếu so với việc phải bắt người phạm tội đi chấp hành án phạt tù..

Tuy nhiên vấn đề được nhiều người quan tâm, thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thánh án treo, về vấn đề này, hiện có các quan điểm sau:

Quan điểm thứ nhất: Rõ ràng sẽ rất khó lý giải khi đề cập đến quy định tại Điều 7[1], Điều 13[2] Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 và khoản 1 Điều 2 Luật THAHS năm 2010, đó là: Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của BLTTHS, cũng như người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, việc mặc nhiên coi bản án kết án một người bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo có hiệu lực từ khi tuyên án, nhưng bản án chưa có hiệu lực pháp luật, chưa hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 333 và Điều 337 BLTTHS năm 2015 và điều đáng nói hơn nếu cũng trong thời gian đó (thời hạn bản án chưa có hiệu lực pháp luật) họ phạm tội mới thì buộc phải chấp hành hình phạt của bản án mới xét xử về tội họ đã phạm cộng với mức hình phạt tù mà họ được hưởng án treo của bản án trước là không công bằng, là vi phạm quy định tại Điều 7, Điều 13 BLTTHS năm 2015 và khoản 1 Điều 2 Luật THAHS năm 2010.

Quan điểm thứ hai: Ngược lại với quan điểm thứ nhất, việc bắt đầu tính thời gian thử thách án treo kể từ ngày tuyên án sơ thẩm là hoàn toàn không có sự mâu thuẩn nào cả. Tác giả đồng tình với quan điểm này, vì: Nghiên cứu các quy định trước đây về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách: Trước ngày 01/01/1986, ngày BLHS năm 1985 có hiệu lực thi hành, án treo được thực hiện theo Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 về việc lập Toà án Quân sự ở Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ và Sắc lệnh số 21 ngày 14/02/9146 về tổ chức các Tòa án quân sự của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tại Điều IV của Sắc lệnh số 33C và tại Điều 10 của Sắc lệnh số 21 đều có quy định thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách của án treo là “bắt đầu từ ngày tuyên án”. Tại Điều 44 BLHS năm 1985 và Điều 60 BLHS năm 1999 quy định về án treo, nhưng đều không quy định rõ thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo. Để thống nhất về nhận thức trong áp dụng và thi hành quy định này trong thực tiễn, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành nghị quyết; Tòa án nhân dân tối cao ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện chế định án treo, mà theo đó, thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo tính từ ngày “bản án có hiệu lực pháp luật”, nhưng cũng có văn bản hướng dẫn thời gian thử thách án treo tính từ ngày “ tuyên bản án cho hưởng án treo”. Cụ thể:

– Về hướng dẫn, thời gian thử thách án treo tính từ ngày“bản án có hiệu lực pháp luật”, được thể hiện trong nội dung các văn bản sau: Thông tư số 2308-NCPL ngày 01/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 02/HĐTP; Nghị quyết 02/HĐTP. Các hướng dẫn này sau một thời gian áp dụng đã nhận được sự phản hồi thiếu tích cực từ việc người được hưởng án treo đã phạm tội mới trong thời gian bản án chưa có hiệu lực pháp luật có chiều hướng gia tăng, nhưng Tòa án không có căn cứ để buộc họ phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo, bởi Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán hướng dẫn: Thời gian thử thách án treo tính từ ngày “bản án có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, hướng dẫn này rõ ràng đã không đáp ứng được yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống và ngăn ngừa tội phạm.

Từ thực tiễn đó, TANDTC ban hành Thông tư số 01-NCPL ngày 06/4/1988, hướng dẫn bổ sung về án treo, mà theo đó, thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án treo đầu tiên. Kế đến là Nghị quyết số 01/HĐTP, mà theo đó, tại điểm 2 Mục 2 của Nghị quyết này có ghi rõ: “..thời gian thử thách án treo tính từ ngày tuyên bản án cho hưởng án treo…”. Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999 về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt., theo đó, tại Tiểu mục 6.5 Mục 6 Nghị quyết này có hướng dẫn về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án đầu tiên cho hưởng án treo.

– Về nội dung hướng dẫn về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo trong Nghị quyết số 01/HĐTP; Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP và Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP cơ bản là giống nhau. Như vậy, hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo là quá trình nhận thức để đáp ứng tốt hơn, phù hợp hơn với yêu cầu của công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Hướng dẫn này được hiểu, trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Còn trường hợp, Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo và Tòa án cấp phúc thẩm cũng cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách cũng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo phải ghi rõ trong phần quyết định của bản án. Do đó, trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho người bị kết án hưởng án treo và trong bản án quyết định thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, thì cũng được hiểu là quyết định về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo của bản án sơ thẩm là quyết định được thi hành ngay, mặc dù bản án sơ thẩm ấy chưa có hiệu lực pháp luật. Điều này hoàn toàn có lợi cho người bị kết án.

Hơn nữa, Điều 363 BLTTHS năm 2015 có quy định: “Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, tuyên bị cáo không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị.”

Thứ ba, trường hợp người phạm tội trong thời gian thử thách, khi bị kết án họ có được hưởng án treo một lần nữa không?

Quy định tại khoản 5 Điều 65 BLHS năm 2015, có thể hiểu rằng người nào được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, không phân biệt lỗi cố ý hay vô ý cũng không phân biệt tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, thì đều bị Tòa án buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước rồi tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của BLHS năm 2015.
Vấn đề đặt ra từ quy định này, đó là, có phải bất cứ trường hợp nào mà một người đã được hưởng án treo lại phạm tội trong thời gian thử thách thì Tòa án đều không cho họ được hưởng án treo một lần nữa? Vấn đề này do luật không quy định, nên thực tiễn xét xử áp dụng không thống nhất, tạo nên sự hoài nghi về tính nghiêm minh của pháp luật, mà theo đó, trong thời gian thử thách người được hưởng án treo lại phạm tội mới là tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng; lỗi vô ý; có nhiều tình tiết giảm nhẹ;…có Tòa án xem xét cho người bị kết án hưởng án treo một lần nữa. Nhưng cũng có Tòa án “kiên quyết” không cho bị cáo được hưởng án treo.

Theo quan điểm của người viết, với trường hợp trên, Tòa án không cho bị cáo được hưởng án treo một lần nữa là nhận thức chưa đúng. Bởi vì: Trước hết, luật không quy định cấm việc Tòa án khi xét xử không cho người phạm tội trong thời gian thử thách được hưởng án treo một lần nữa, nếu như thỏa các điều kiện quy định xem xét cho hưởng án treo. Mặt khác, dù là phạm tội trong thời gian thử thách, nhưng xét về ý thức chủ quan hoàn toàn do lỗi vô ý; tội mà họ phạm là ít nghiêm trọng hay nghiêm trọng thì tại sao không?

Thực tế có nhiều trường hợp một người đang được hưởng án treo, sau đó lại phát hiện trước đó họ có hành vi phạm một tội khác mà hành vi này xảy ra trước khi có bản án treo. Trong trường hợp này, theo quy định tại Điều 7 Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP có quy định:“Trường hợp một người đang được hưởng án treo mà sau đó lại phát hiện trước khi được hưởng án treo họ đã thực hiện một tội phạm khác, thì Tòa án xét xử, quyết định hình phạt đối với tội phạm đó và không cho hưởng án treo một lần nữa. Người phạm tội đồng thời phải chấp hành hai bản án. Việc thi hành án trong trường hợp này do các cơ quan được giao trách nhiệm thi hành án hình sự phối hợp thực hiện theo quy định tại Điều 5 của Luật thi hành án hình sự.

Ví dụ: Ngày 15/12/2011, Bùi Văn B phạm tội đánh bạc. Ngày 20-3-2012, Bùi Văn B bị Tòa án nhân dân thành phố V xử phạt 6 tháng tù về tội đánh bạc, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 1 năm. Sau khi bị kết án về tội đánh bạc và bản án có hiệu lực pháp luật, Cơ quan cảnh sát điều tra lại phát hiện trước đó, ngày 10-10-2011, Bùi Văn B còn phạm tội trộm cắp tài sản và bị truy tố ra Tòa án huyện M. Đối với trường hợp này, khi xét xử Tòa án huyện M không cho Bùi Văn B hưởng án treo một lần nữa. Nếu bản án của Tòa án huyện M không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực pháp luật thì Bùi Văn B phải chấp hành đồng thời hai bản án (bản án của Tòa án nhân dân thành phố V và bản án của Tòa án nhân dân huyện M).”

Nghiên cứu quy định này, theo người viết hướng dẫn trên là chưa bảo đảm sự công bằng khi áp dụng pháp luật đối với người đang chấp hành hình phạt tù nhưng được cho hưởng án treo, mà bị xét xử về tội phạm thực hiện trước đó với lỗi vô ý. Trong khi đó, tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP quy định không cho hưởng án treo nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người phạm tội thuộc đối tượng cần phải nghiêm trị quy định tại khoản 2 Điều 3 của Bộ luật hình sự bao gồm: người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng; phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
b) Bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội;
c) Trong hồ sơ thể hiện là ngoài lần phạm tội và bị đưa ra xét xử, họ còn có hành vi phạm tội khác đã bị xét xử trong một vụ án khác hoặc đang bị khởi tố, điều tra, truy tố trong một vụ án khác;
d) Bị cáo tại ngoại bỏ trốn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án đã đề nghị cơ quan điều tra truy nã.

Do vậy, vấn đề này có thể tham khảo hướng dẫn tại điểm 2 mục IV của Nghị quyết số 01/HĐTP, mà theo đó:“… Nếu trong thời gian thử thách người được hưởng án treo lại bị phạt tù về tội đã thực hiện trước khi bị phạt tù và được hưởng án treo thì tùy trường hợp, Tòa án có thể cho hoặc không cho hưởng án treo một lần nữa. Nếu Tòa án không cho hưởng án treo một lần nữa và người bị kết án chấp hành hình phạt tù trong thời gian thử thách của án treo thì thời gian chấp hành hình phạt tù được tính vào thời gian thử thách của án treo. Nếu cho người bị kết án được hưởng án treo một lần nữa, thì Tòa án tổng hợp hình phạt tù của hai bản án. Trong trường hợp này cần chú ý là chỉ khi hình phạt chung của cả hai bản án không vượt quá năm năm tù (đối với Bộ luật hình sự năm 1985, còn đối với khoản 1 Điều 60 BLHS năm 1999 là ba năm tù) thì mới cho hưởng án treo và thời gian thử thách chung không được dưới một năm, không được quá năm năm và không được ít hơn mức hình phạt chung…”.
Nội dung hướng dẫn này tuy không còn hiệu lực áp dụng, nhưng có thể vận dụng để xử lý tình huống pháp lý đặt ra từ thực tiễn xét xử để bổ sung quy định về tổng hợp hình phạt trong trường hợp người được hưởng án treo hai lần của hai bản án khác nhau.

 

Từ những phân tích trên, để tạo sự thống nhất chung về chế định án treo, tác giả đề xuất:

Một là, bổ sung khái niệm về án treo; cách tính thời gian thử thách của án treo vào khoản 1 và khoản 2 Điều 65 BLHS năm 2015. Sau khi bổ sung, khoản 1 và khoản 2 Điều luật này được viết lại như sau:

“1. Án treo là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
2. Bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án đầu tiên cho hưởng án treo. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
…”

Hai là, quy định bổ sung trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, mà cả hai bản án đều cho người bị buộc tội được hưởng án treo, thì Tòa án tổng hợp hình phạt tù của hai bản án. Trong trường hợp này, chỉ khi hình phạt chung của cả hai bản án không vượt quá ba năm tù thì mới cho hưởng án treo và thời gian thử thách chung không được dưới một năm, không được quá năm năm và không được ít hơn mức hình phạt chung. Với hướng đề xuất này, khoản 3 mới được bổ sung vào Điều 56 BLHS năm 2015, sau khi sửa đổi, bổ sung được viết lại như sau:
“1. …
3. Khi xét xử một người đang trong thời gian thử thách mà phạm tội mới, Tòa án có thể cho hưởng án treo một lần nữa, chỉ khi hình phạt chung của cả hai bản án không vượt quá ba năm tù và thời gian thử thách chung không được dưới một năm, không được quá năm năm và không được ít hơn mức hình phạt chung.
…”
Trên đây là một số nội dung qua nghiên cứu, rất mong nhận được sự quan tâm trao đổi của Quí bạn đọc.

 

Phạm Thị Hồng Đào – Văn phòng luật sư Thạnh Hưng

 

[1] Điều 7. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định.

[2] Điều 13. Suy đoán vô tội
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.

đánh giá bài viết

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền