Tóm tắt: Tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước phải phù hợp với quy luật khách quan. Tuân thủ quy luật khách quan trong xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là yêu cầu cần thiết đối với mỗi quốc gia hiện đại trong xây dựng nhà nước pháp quyền thật sự của dân, do dân, vì dân.
Abstract: The arrangement and operation of a tranparent, strong and effective state administration apparatus depend greatly on the formulation of a state power control mechanism in line with objective rules. It is required to follow the objective rules in development of the state-control mechanism for each modern nation to establish a lawful state of the people, by the people, for the people.
1. Quy luật khách quan và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
1.1 Quy luật khách quan
Trong Từ điển Tiếng Việt, quy luật được nhìn nhận là “mối liên hệ bản chất, ổn định, được lặp đi lặp lại giữa các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội”[1]. Theo đó, quy luật được biểu hiện ở bản chất, tính chất, thực chất. Quy luật nhìn về bản chất, tính chất là nói tới quy luật gì, tồn tại ở đâu? Chẳng hạn, trong tự nhiên có sự tồn tại cân đối giữa các chủ thể (cá thể); trong xã hội có sự tồn tại cân bằng giữa các khách thể (tập thể). Quy luật nhìn về thực chất là nói tới quy luật tồn tại ở đâu, cân bằng như thế nào. Chẳng hạn, trong tự nhiên là tồn tại hiện tượng hài hòa về môi trường sống giữa các khách thể, thực thể, chủ thể; trong xã hội loài người là tồn tại hiện tượng công bằng, bình đẳng, công lý về giá trị (độc lập, tự do), tinh thần (hạnh phúc, niềm tin), quyền lợi (quyền lực, lợi ích) giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Vì vậy, có thể nhìn nhận, quy luật là hiện tượng biểu hiện thực chất sự cân đối, cân bằng, hài hòa về môi trường sống, tồn tại, sự công bằng, bình đẳng, công lý về giá trị, tinh thần, quyền lợi giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong thế giới tự nhiên và xã hội.
Trong Từ điển tiếng Việt, khách quan được nhìn nhận là “cái tồn tại bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của con người”[2]. Theo đó, khách quan có thể được nhìn nhận là hiện tượng tồn tại sự cân đối, cân bằng, hài hòa khách quan về môi trường sống, sự công bằng, bình đẳng, công lý khách quan về giá trị, tinh thần, quyền lợi giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng.
Quy luật và khách quan là các hiện tượng có mối liên hệ gắn liền với nhau, hình thành nên quy luật khách quan. Trong mối liên hệ này, có thể coi quy luật là bản chất, khách quan là tính chất. Quy luật gắn với sự tồn tại cân đối (quy luật cân đối); khách quan gắn với sự tồn tại cân bằng (cân bằng khách quan). Vì vậy, có thể hiểu rằng, quy luật khách quan trong xã hội loài người có thể được nhìn nhận là quy luật tồn tại sự cân đối, cân bằng, hài hòa khách quan về môi trường sống, sự công bằng, bình đẳng, công lý khách quan về giá trị, tinh thần, quyền lợi giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Hiện tượng diễn ra theo quy luật khách quan, hay tuân thủ quy luật khách quan là hành động đúng với quy luật (đúng đắn); còn hiện tượng diễn ra trái với quy luật khách quan, hay không tuân thủ quy luật khách quan là hành động không đúng đắn, không đúng quy luật hay có sự sai trái.
1.2 Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Trong Từ điển Tiếng Việt, cơ chế được nhìn nhận là “cách thức theo đó một quá trình thực hiện”[3]. Tức cơ chế có thể được hiểu là hiện tượng biểu hiện tổ chức, hoạt động của con người theo nguyên lý hay nguyên tắc hiệu quả. Kiểm soát là khái niệm bao hàm các thuật ngữ “kiểm” và “soát”. Kiểm soát có thể được nhìn nhận là việc “xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định”[4], hay hiện tượng biểu hiện nguyên tắc vừa ngăn chặn, vừa phát hiện để ngăn ngừa hiệu quả sự sai trái diễn ra trong bộ máy nhà nước, quốc gia. Cơ chế và kiểm soát là các hiện tượng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hình thành nên cơ chế kiểm soát; tức thực chất của cơ chế kiểm soát là vừa ngăn chặn vừa ngăn ngừa.
1.3 Thực chất của quyền lực nhà nước
Quyền lực và nhà nước là các hiện tượng gắn liền với nhau, hình thành nên hiện tượng quyền lực nhà nước – trung tâm quyền lực ở mỗi quốc gia. Quốc gia và nhà nước là các khái niệm không đồng nhất, bởi quốc gia “bao gồm các chủ thể là Nhà nước và các cá nhân, cộng đồng xã hội”[5]. Do đó, quyền lực nhà nước là không đồng nhất với quyền lực quốc gia. Quyền lực nhà nước là nói tới tổ chức bộ máy ở trung tâm, có vị trí trung gian, được hình thành bởi các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong xã hội, biểu hiện tính quy luật khách quan trong sự phát triển của quốc gia. Trong một quốc gia, nhà nước chỉ là đại diện cho một nhóm hoặc liên minh các nhóm xã hội. Các nhóm xã hội tranh cử vào bộ máy quyền lực nhà nước được nhìn nhận là đảng chính trị. Các đảng chính trị đều có quyền lực, hình thành nên hiện tượng quyền lực chính trị của nhiều nhóm khác nhau. Quyền lực chính trị có thể được nhìn nhận ở các nhóm cầm quyền, như nhóm đối lập, độc lập, trung lập trong bộ máy nhà nước.
Quyền lực nhà nước hay “chính quyền” là hiện tượng tồn tại độc lập với các đảng chính trị. Các đảng chính trị muốn giành vị thế cầm quyền đều phải thực hiện tranh cử công khai, minh bạch theo pháp luật qua các lần bầu cử Quốc hội, Tổng thống, tùy theo loại hình chính thể.
Trong xã hội hiện đại, có thể nhìn nhận quyền lực nhà nước là tổ chức bộ máy cầm quyền theo pháp luật, nhằm bảo đảm phúc lợi chung cho các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc pháp quyền gồm ba quyền cơ bản sau: quyền lập pháp; quyền hành pháp, quyền tư pháp. Đây được coi là quy luật khách quan hay con đường phát triển khách quan, tương tự con đường dân chủ có “mục tiêu hướng tới độc lập mang tính “nhân quả” (đầu – cuối), có phương pháp thực hiện mang tính đối lập “song hành” (phải – trái) và nguyên tắc thực hiện mang tính đối lập, độc lập “trung gian” (ở giữa)”[6]. Từ các phân tích cho thấy, trong quốc gia, quyền lực nhà nước là hiện tượng trung gian, có chức năng bảo đảm sự cân đối, cân bằng, hài hòa về thiết chế, tổ chức, hoạt động, sự công bằng, bình đẳng, công lý về giá trị, tinh thần, quyền lợi giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng bởi các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
1.4 Mối liên hệ giữa quy luật khách quan và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Các hiện tượng: quy luật khách quan, cơ chế kiểm soát, quyền lực nhà nước có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong quốc gia, chúng đều được nhìn nhận là các hiện tượng giữ vị trí, vai trò trung tâm. Trong mối liên hệ giữa chúng, quyền lực nhà nước có thể được coi là hình thức (tính chất, mục tiêu), cơ chế kiểm soát được coi là nội dung (bản chất, phương pháp), còn quy luật khách quan được coi là nguyên tắc hiệu quả (thực chất) của kiểm soát quyền lực nhà nước.
Quy luật khách quan có thể được nhìn nhận như thước đo tính đúng đắn, hiệu quả về thiết chế, tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, phát triển quốc gia nói chung, trong đó có vấn đề về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Tuân thủ quy luật khách quan trong xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước tức là tuân thủ các nguyên tắc công khai, minh bạch, hiệu quả về thiết chế, tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Đây là yêu cầu cần thiết đối với mỗi quốc gia trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền thật sự của dân, do dân, vì dân, nhằm xây dựng quốc gia khởi nghiệp, kiến tạo phát triển bền vững.
2. Thực tế việc tuân thủ quy luật khách quan trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam và một số kiến nghị
2.1 Thực tế việc tuân thủ quy luật khách quan trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta
Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam đã được đặt ra ngay từ khi xây dựng Hiến pháp năm 1946. Hồ Chí Minh đã từng đề cập nhiều về sự cần thiết và cách thức xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong các bài viết, bài nói chuyện hay các tác phẩm khác của mình[7]. Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước có liên quan chặt chẽ với tư tưởng hay ý tưởng của con người; ý tưởng phù hợp với quy luật khách quan mới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cuộc sống. Hồ Chí Minh từng nói rằng: “tư tưởng nhất định phải hợp với quy luật khách quan”[8]. Trong thực tế, Đảng và Nhà nước đã quan tâm nhiều đến xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nói chung, kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, do chưa nhận thức rõ thực chất của hiện tượng quy luật khách quan nói chung, quy luật khách quan về thiết chế, tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, hay cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng, nên bộ máy nhà nước ở nước ta đang tồn tại nhiều hạn chế về thiết chế, tổ chức và phương pháp, nguyên tắc hoạt động, tức chưa thật sự tuân thủ đúng quy luật khách quan; đặc biệt là tồn tại sự chồng chéo chức năng của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, sự thiếu vắng tính trách nhiệm trong thực hiện chức năng công vụ của đội ngũ công chức, viên chức. Tại Đại hội XII, từ sự tổng kết thực tiễn, Đảng đã đánh giá và chỉ ra nhiều yếu kém về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Chẳng hạn, trong việc thực hiện quyền lập pháp, như: “chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả, cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp”[9], hay “dự báo, hoạch định, lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước còn nhiều hạn chế”[10]; trong việc thực hiện quyền hành pháp, như: “Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước”[11]; trong việc thực hiện quyền tư pháp, như: “Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, còn chồng chéo; tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế”, hay “Việc triển khai một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu đề ra; tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng”[12]. Những yếu kém về thiết chế, tổ chức, hoạt động nêu trên trong bộ máy quyền lực nhà nước đã và đang gây ra nhiều hệ lụy, tác động tiêu cực đến xây dựng quốc gia khởi nghiệp, kiến tạo phát triển bền vững ở Việt Nam.
2.2 Một số kiến nghị về xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
Để xây dựng tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng đã đề ra trong Văn kiện Đại hội XII (2016) là: “Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[13], hay đáp ứng yêu cầu mà Đảng đã đề ra tại Hội nghị trung ương 7 khóa XII (2018) là: “Hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế”[14], theo chúng tôi, cần thực hiện một số giải pháp về xây dựng thể chế chính trị, xã hội nhằm kiểm soát (ngăn chặn, ngăn ngừa) sự tha hóa của quyền lực nói chung trong quốc gia như sau:
Thứ nhất, xây dựng thể chế chính trị pháp quyền trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước
Xây dựng thể chế chính trị pháp quyền cần phải dựa trên cơ sở áp dụng mô hình cấu trúc mang tính kiểm soát lẫn nhau giữa ba cơ quan quyền lực nhà nước là: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây có thể được coi là mô hình thiết chế nhà nước pháp quyền – thiết chế tạo sự cân đối, cân bằng, hài hòa về chức năng của các cơ quan quyền lực trong quốc gia. Trong mô hình này, cơ quan lập pháp được nhìn nhận là “cơ quan có quyền cao nhất”[15], có chức năng xác định các mục tiêu, chính sách quốc gia; cơ quan hành pháp được nhìn nhận là “cơ quan hành chính cao nhất”[16], có chức năng điều hành thực hiện các mục tiêu, chính sách quốc gia; còn cơ quan tư pháp được nhìn nhận là cơ quan có các “thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật”[17], có chức năng bảo vệ công lý. Xây dựng thể chế chính trị pháp quyền theo mô hình này được coi là cách thức ngăn chặn sự lạm quyền của đội ngũ công chức chính trị, hành chính, luật sư trong bộ máy nhà nước, hình thành nền công vụ liêm chính để kiến tạo quốc gia phát triển.
Thứ hai, xây dựng thể chế xã hội dân chủ trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam
Xây dựng thể chế xã hội dân chủ cần phải dựa trên cơ sở áp dụng mô hình cấu trúc mang tính cân đối, cân bằng và hài hòa giữa các chủ thể, khách thể, thực thể tồn tại trong xã hội. Đây có thể được coi là mô hình thể chế xã hội dân chủ – thể chế tạo sự công bằng, bình đẳng, công lý giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia. Mô hình thể chế xã hội dân chủ có thể được hiểu là mô hình bảo đảm nguyên tắc tự do, dân chủ trong việc “xác định mối quan hệ giữa xã hội và các thành viên trong xã hội”[18]. Trong mô hình này, cá nhân tự do được coi là mục tiêu hướng tới của quốc gia; cộng đồng dân chủ được coi là phương pháp thực hiện các mục tiêu của quốc gia; còn pháp luật bảo đảm tự do dân chủ được coi là nguyên tắc bảo đảm công lý của quốc gia. Xây dựng thể chế xã hội dân chủ theo mô hình này được coi là cách thức ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật của công dân trong đời sống xã hội, hình thành xã hội dân sự để xây dựng quốc gia khởi nghiệp ở Việt Nam.
Thứ ba, xây dựng thể chế chính trị – xã hội pháp quyền dân chủ trong quốc gia Việt Nam
Xây dựng thể chế chính trị – xã hội pháp quyền dân chủ cần phải dựa trên cơ sở mô hình cấu trúc cân đối, cân bằng, hài hòa giữa các chủ thể, khách thể, thực thể tồn tại trong quốc gia là: xã hội dân chủ – quốc gia dân chủ pháp quyền – nhà nước pháp quyền. Mô hình này được nhìn nhận tương tự như một con đường phát triển lâu dài, bền vững, trong đó, các mục tiêu (nhà nước) hướng tới là độc lập, tự do, hạnh phúc; các phương pháp (xã hội) thực hiện là dân chủ; còn các nguyên tắc (pháp quyền) hài hòa là cộng hòa. Trong mô hình này, nhà nước pháp quyền được coi là chủ thể quyền lực của nhóm – mục tiêu bảo vệ công dân, tức bảo vệ chủ quyền con người trong quốc gia; xã hội dân chủ được coi là chủ thể quyền lực của cộng đồng – phương pháp bảo vệ quốc gia, tức bảo vệ chủ quyền quốc gia; còn quốc gia dân chủ pháp quyền được coi là thiết chế chính trị – nguyên tắc bảo đảm công bằng, bình đẳng, công lý trong quốc gia. Đây chính là mô hình chính thể “dân chủ cộng hòa”[19] đã được xác định trong Hiến pháp Việt Nam năm 1946. Xây dựng thể chế chính trị – xã hội pháp quyền dân chủ theo mô hình này được coi là cách thức vừa ngăn chặn, vừa ngăn ngừa sự lạm quyền của đội ngũ công chức chính trị, hành chính, luật sư trong bộ máy nhà nước, sự vi phạm pháp luật của công dân trong đời sống xã hội dân sự, cơ sở để xây dựng quốc gia khởi nghiệp, kiến tạo phát triển bền vững ở Việt Nam./.
Bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19, kỳ 1 tháng 10/2018
Nguyễn Hữu Đổng, PGS. TS. Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
[1]Từ điển Tiếng Việt (2005), Viện Ngôn ngữ học, tr. 813.
[2]Từ điển Tiếng Việt, Sđd, tr. 489.
[3] Từ điển Tiếng Việt, Sđd, tr. 214.
[4] Từ điển Tiếng Việt, Sđd, tr. 523.
[5] Xem: http://tcnn.vn/Plus.aspx/vi/News/125/0/1010067/0/39680/Xay_dung_chinh_sach_quoc_gia_kien_tao_phat_trien_ben_vung_o_Viet_Nam
[6] Xem: http://tcnn.vn/Plus.aspx/vi/News/125/0/1010067/0/39680/Xay_dung_chinh_sach_quoc_gia_kien_tao_phat_trien_ben_vung_o_Viet_Nam
[7] Xem: Nguyễn Hữu Đổng, Hồ Chí Minh và vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2013.
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 1995, t. 6, tr. 248.
[9] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2016, tr. 173.
[10] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 192.
[11] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 173.
[12] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 174.
[13] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 176.
[14] http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Toan-van-Nghi-quyet-so-26NQTW-ve-cong-tac-can-bo/336892.vgp
[15] Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992), Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 1995, tr. 12.
[16] Hiến pháp Việt Nam, Sđd, tr. 16.
[17] Hiến pháp Việt Nam, Sđd, tr. 23.
[18] Báo cáo phát triển Việt Nam 2010: Các thể chế hiện đại. Báo cáo chung của các nhà tài trợ hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, Hà Nội, tháng 12/2009.
[19] Hiến pháp Việt Nam, Sđd, tr. 8.
Để lại một phản hồi