Tổ chức thi hành pháp luật theo Hiến pháp năm 2013 – nhân tố đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp quyền trong đời sống nhà nước và xã hội.
Tóm tắt: “Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật…” hay viết ngắn gọn “Tổ chức thi hành pháp luật” lần đầu tiên được quy định trong nhiều điều luật của Hiến pháp năm 2013. Tìm hiểu các quy định mới về tổ chức thi hành pháp luật của Hiến pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ đối với việc đưa Hiến pháp và pháp luật đi vào đời sống nhà nước và xã hội, làm cho nó được thực hiện trong thực tiễn, mà còn tác động trở lại đối với hoạt động lập pháp, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động lập pháp. Đó chính là nhân tố đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội.
Từ khóa: tổ chức thi hành pháp luật; Hiến pháp năm 2013; nguyên tắc pháp quyền; nhà nước pháp quyền
Abstract: “Arrangement for the enforcement of the Constitution, Laws …” or “law enforcement arrangement” is briefly stated first time in several articles of the Constitution of 2013. It is to find out the new regulations on the arrangement for the law enforcement by the Constitution, which is particularly important not only for the Constitution and the laws going into the the goveronmental and social activities, making the laws in practices, but also it provides feedbacks on the legislative activity, contributing to improve the quality of legislative activity. This is a factor ensuring the implementation of the rule of law in the organization and operation of the goveronmental apparatus and in social life.
Key words: law enforcement; The Constitution of 2013; rule of law; the state and law
1. Thế nào là “Tổ chức thi hành pháp luật”?
Trong khoa học pháp lý, pháp luật được nghiên cứu dưới hai phương diện. Phương diện thứ nhất là pháp luật trong trạng thái “tĩnh” hay pháp luật trong các trang công báo. Pháp luật theo phương diện này còn được gọi là pháp luật thực định. Theo Hiến pháp năm 2013, đây là các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), bao gồm: Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH); lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; các VBQPPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương các cấp. Đây là pháp luật được hình thành chủ yếu do hoạt động lập pháp của Quốc hội và hoạt động lập quy của hệ thống các cơ quan hành pháp.
Phương diện thứ hai của pháp luật là pháp luật trong trạng thái “động” hay gọi là pháp luật trong hành động, pháp luật trong cuộc sống. Pháp luật theo phương diện này là sự tuân theo pháp luật của các chủ thể trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội, được hình thành bằng hoạt động tổ chức thi hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền. Giống như phương diện thứ nhất, phương diện này của pháp luật cũng được Hiến pháp quy định. Theo đó, tổ chức thi hành pháp luật là hoạt động không thể thiếu để pháp luật từ trạng thái “tĩnh” trở thành trạng thái “động”, làm cho pháp luật không còn nằm trên các trang công báo mà đi vào cuộc sống. Như vậy, hoạt động lập pháp, lập quy để hình thành một hệ thống VBQPPL (pháp luật trong các trang công báo) và hoạt động tổ chức thi hành pháp luật là hai mặt không tách rời của pháp luật. Không thể có mặt này mà thiếu mặt kia và ngược lại. Không tiến hành “tổ chức thi hành pháp luật” thì pháp luật chỉ tồn tại trên giấy, hay chỉ là những “lời nói rung động trong không khí”. Ngược lại, không có những quy định của pháp luật trong các trang công báo thì cũng không có việc tổ chức thi hành những quy định pháp luật này. Trong nhà nước pháp quyền, thượng tôn pháp luật, đề cao nguyên tắc pháp quyền không thể không coi trọng một cách đồng bộ cả hai phương diện của pháp luật. Nhất là trong điều kiện của nước ta, khi mà ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của nhiều người dân còn thấp thì việc tổ chức thi hành pháp luật càng giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Như vậy, tổ chức thi hành pháp luật có các đặc trưng sau đây:
– Tổ chức thi hành pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức đưa pháp luật thực định vào đời sống nhà nước và đời sống xã hội, làm cho pháp luật sau khi ban hành có hiệu lực thực thi trong thực tế. Thi hành pháp luật theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật, là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng các hoạt động tích cực. Như vậy, tổ chức thi hành pháp luật có một trong những nội dung quan trọng là tổ chức để các chủ thể tuân theo các các nghĩa vụ pháp lý của mình bằng các hành động tích cực trong thực tế; góp phần làm cho xã hội thượng tôn pháp luật mang tính chất tự giác.
– Tổ chức thi hành pháp luật theo nghĩa rộng là trách nhiệm của tất cả các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thuộc các nhánh quyền lực nhà nước từ lập pháp, hành pháp, tư pháp đến các thiết chế Hiến định khác. Tuy nhiên, tổ chức thi hành pháp luật với tư cách là một thẩm quyền độc lập, chuyên trách được Hiến pháp giao cho hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện. Theo đó, có thể định nghĩa, tổ chức thi hành pháp luật là thẩm quyền hiến định có tính độc lập, chuyên trách của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước nhằm đưa pháp luật trên các trang công báo trở thành các hành động tích cực tuân theo pháp luật trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội.
Với quan niệm đó, tổ chức thi hành pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng:
– Là hoạt động để hiện thực hóa kết quả của hoạt động lập pháp, lập quy trong thực tiễn. Vì thế, nó là đầu ra quan trọng nhất của hoạt động lập pháp, đảm bảo cho sản phẩm của hoạt động lập pháp có hiệu lực và hiệu quả trong thực tế.
– Là hoạt động hàng đầu của cơ quan thực hiện quyền hành pháp, đảm bảo cho Hiến pháp, luật giữ địa vị thống trị trong nhà nước pháp quyền, phát huy đầy đủ vai trò của mình trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, đảm bảo cho nguyên tắc pháp quyền được thực thi trong hoạt động hành pháp.
– Thông qua việc tổ chức thi hành pháp luật mà phát hiện những lỗ hổng, những quy định pháp luật không phù hợp, không đi vào cuộc sống, góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp và lập quy, đảm bảo cho nguyên tắc pháp quyền được thực thi đầy đủ trong hoạt động lập pháp và lập quy.
2. Tổ chức thi hành pháp luật theo Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là “Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp luật, nghị quyết của UBTVQH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước” (khoản 1 Điều 96), Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ: “Lãnh đạo tổ chức thi hành pháp luật” (khoản 1 Điều 98); Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có nhiệm vụ: “Tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc” (khoản 1 Điều 99); Chính quyền địa phương có nhiệm vụ: “Tổ chức đảm bảo việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương” (khoản 1 Điều 112); và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp có nhiệm vụ: “Tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương” (khoản 2 Điều 114). Thi hành pháp luật trong thuật ngữ “tổ chức thi hành pháp luật” của Hiến pháp năm 2013, theo chúng tôi, có nội dung rất rộng, không chỉ là một hình thức thực hiện pháp luật mà còn bao gồm các hình thức thực hiện pháp luật khác như: tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật mà lý luận về thực hiện pháp luật đã được viết trong các sách giáo khoa về lý luận nhà nước và pháp luật đang giảng dạy ở các trường đại học luật. Với quan niệm đó, “tổ chức thi hành pháp luật” viết trong Hiến pháp năm 2013 được hiểu là “tổ chức thực hiện pháp luật” (thi hành pháp luật ở đây chính là thực hiện pháp luật). Vì vậy “tổ chức thi hành pháp luật” viết trong Hiến pháp năm 2013 được hiểu theo nghĩa rộng, đồng nghĩa với tổ chức thực hiện pháp luật, tức là bao gồm tổ chức thực hiện cả bốn hình thức thực hiện pháp luật chứ không chỉ một hình thức thực hiện pháp luật là thi hành pháp luật. Vì thế, tổ chức thi hành pháp luật theo Hiến pháp năm 2013 có các đặc trưng cơ bản sau đây:
– Chủ thể tổ chức thi hành pháp luật là Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và UBND các cấp.
– Mục đích của tổ chức thi hành pháp luật là làm cho các quy định của pháp luật thực hiện trong cuộc sống trở thành những hành động thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Hay nói cụ thể, mục đích của tổ chức thi hành pháp luật là làm cho các chủ thể pháp luật tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng và áp dụng đúng đắn pháp luật. Đó chính là đòi hỏi của nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng.
– Đối tượng của tổ chức thi hành pháp luật là đối tượng của quản lý nhà nước và được tiến hành trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Như vậy, đối tượng của tổ chức thi hành pháp luật có phạm vi rất rộng; ở đâu có quản lý nhà nước ở đó có việc tổ chức thi hành pháp luật. Chính vì thế, tổ chức thi hành pháp luật là nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, là thẩm quyền của các cơ quan thực hiện quyền hành pháp.
– Nội dung của tổ chức thi hành pháp luật bao gồm một chuỗi các hoạt động kế tiếp nhau, quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, hoạt động trước là tiền đề, là điều kiện quyết định cho hoạt động sau. Nội dung tổ chức thi hành pháp luật phổ biến bao gồm các hoạt động sau:
+ Trước hết, chủ thể tổ chức thi hành pháp luật ban hành văn bản hướng dẫn thi hành, xây dựng chương trình và kế hoạch thi hành VBQPPL.
+ Hai là, phổ biến chương trình, kế hoạch thi hành VBQPPL và tuyên truyền, phổ biến nội dung và tinh thần cơ bản của VBQPPL đến các đối tượng trực tiếp phải thi hành. Việc phổ biến tinh thần và nội dung của VBQPPL bằng tài liệu được biên soạn, bằng các phương tiện thông tin đại chúng, bằng việc phổ biến trực tiếp…
+ Ba là, thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thi hành VBQPPL đang tổ chức thi hành để kịp thời nhắc nhở, uốn nắn.
+ Bốn là, sau một thời gian thi hành VBQPPL, tiến hành công tác sơ kết, tổng kết việc tổ chức thi hành VBQPPL đó.
+ Năm là, trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật, phải theo dõi việc thi hành pháp luật để kịp thời phát hiện những khó khăn, bất hợp lý của việc thi hành VBQPPL để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, Vì thế, theo dõi tình hình thi hành là một nội dung của tổ chức thi hành pháp luật.
+ Sáu là, để tổ chức thi hành pháp luật tốt phải xây dựng lực lượng và cơ sở vật chất vững mạnh để đảm bảo cho việc tổ chức thi hành pháp luật.
So với các bản Hiến pháp trước như Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, việc quy định trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật trong Hiến pháp năm 2013 có những điểm mới sau đây:
– Một là, Hiến pháp năm 2013 – Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta có sự phân công, phân nhiệm minh bạch ba quyền: Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp; Chính phủ – cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Với sự phân công là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Chính phủ không những là thiết chế chủ yếu đảm bảo đầu vào cho hoạt động lập pháp (hoạch định, soạn thảo, thẩm định chính sách quốc gia dưới dạng các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết trình Quốc hội) mà còn là cơ quan chủ yếu đảm bảo đầu ra của hoạt động lập pháp được thực thi trong thực tiễn bằng công tác tổ chức thi hành pháp luật. Vì thế, Hiến pháp năm 2013 đưa lên nhiệm vụ số một của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ và chính quyền địa phương là “tổ chức thi hành pháp luật” – nhân tố hàng đầu đảm bảo cho nguyên tắc pháp quyền được thực thi trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội.
Hiến pháp năm 1980 chỉ quy định Hội đồng Bộ trưởng có nhiệm vụ và quyền hạn “Đảm bảo việc thi hành Hiến pháp và pháp luật” (Điều 107), không quy định Thủ tướng, các Bộ trưởng, thành viên Chính phủ, chính quyền địa phương có nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức thi hành pháp luật. Hiến pháp năm 1992 có tiến bộ hơn, đã quy định rõ hơn, Chính phủ có trách nhiệm “bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật” (khoản 2 Điều 112); Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền “căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; Chính phủ ra nghị quyết, nghị định; Thủ tướng Chính phủ ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc ban hành các văn bản đó” (Điều 115). Như vậy, các Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 chưa quy định “tổ chức thi hành pháp luật” thành một thẩm quyền có tính độc lập và riêng có của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, chính quyền địa phương các cấp.
– Hai là, Hiến pháp năm 2013 – Hiến pháp được xây dựng dưới ánh sáng của tư duy xây dựng nhà nước pháp quyền, vì thế không những phân công, phân nhiệm minh bạch giữa các quyền như nói trên mà đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp, luật và pháp luật nói chung phải giữ vị trí tối thượng ràng buộc quyền lực nhà nước, giới hạn quyền lực nhà nước, trở thành phương tiện kiểm soát chính bản thân mình. Tư tưởng đó của nhà nước pháp quyền chỉ đạo những nhà lập hiến đề cao hoạt động tổ chức thi hành pháp luật. Vì thế, nếu nói lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 quy định chức năng hàng đầu của Quốc hội là lập hiến, lập pháp thì cũng lần đầu tiên, Hiến pháp quy định chức năng hàng đầu của Chính phủ là tổ chức thi hành Hiến pháp, luật. Hai thiết chế quan trọng này của bộ máy nhà nước đều có chức năng quan trọng hàng đầu, có tính độc lập tương đối với nhau, nhưng quan hệ mật thiết với nhau, một bên thông qua các đạo luật, bộ luật và một bên đưa pháp luật vào đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Như vậy, so với các bản Hiến pháp trước đây của nước ta, Hiến pháp năm 2013 không những đề cao hoạt động lập pháp mà còn đặc biệt coi trọng hoạt động tổ chức thi hành pháp luật. Cả hai hoạt động này tuy gắn bó với nhau nhưng có tính chất và phương thức hoạt động khác nhau, nên Hiến pháp giao cho hai thiết chế khác nhau thực hiện với tư cách là nhiệm vụ quyền hạn hàng đầu và quan trọng: Quốc hội có nhiệm vụ hàng đầu làm Hiến pháp, làm luật và Chính phủ có nhiệm vụ hàng đầu là tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật.
– Ba là, việc Hiến pháp năm 2013 quy định thẩm quyền hàng đầu của hệ thống các cơ quan hành pháp là “tổ chức thi hành pháp luật” không những thể hiện tư tưởng phân công, phân nhiệm minh bạch giữa các quyền; đề cao việc thực thi pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội như nói trên, mà tổ chức thi hành pháp luật còn là hoạt động vừa đảm bảo đầu vào và đầu ra cho hoạt động lập pháp có chất lượng. Thông qua hoạt động tổ chức thi hành pháp luật mà Chính phủ hoạch định, soạn thảo và trình các dự án luật, pháp lệnh có chất lượng tốt hơn. Và khi luật và pháp lệnh có chất lượng tốt thì việc tổ chức thi hành pháp luật được tiến hành có hiệu lực và hiệu quả hơn. Cứ thế, tác động qua lại giữa hai hoạt động này làm cho mỗi hoạt động ngày càng tốt hơn; chất lượng ngày càng cao hơn. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 thể hiện mối quan hệ vừa phân công, vừa phối hợp giữa hoạt động lập hiến, lập pháp với hoạt động tổ chức thi hành pháp luật của hai thiết chế lập pháp và hành pháp trong nhà nước pháp quyền.
– Bốn là, Hiến pháp năm 2013 không quy định Quốc hội, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và các thiết chế hiến định khác có nhiệm vụ, quyền hạn “tổ chức thi hành pháp luật”. Điều đó được hiểu như thế nào? Theo chúng tôi, điều đó có nghĩa là, “tổ chức thi hành pháp luật” không phải là nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này. Tổ chức thi hành pháp luật là công việc chuyên trách riêng có của hệ thống các cơ quan hành pháp, gắn liền với việc thực hiện quyền hành pháp. Tuy nhiên, không vì Hiến pháp không quy định mà Tòa án, Viện Kiểm sát, Quốc hội,… không “tổ chức thi hành pháp luật”. Tổ chức thi hành pháp luật của các cơ quan này gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp quy định. Ví dụ như, để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn lập pháp, Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội phải tổ chức thi hành các quy định pháp luật trong hoạt động lập pháp để đảm bảo các hoạt động lập pháp theo đúng pháp luật. Tương tự như vậy, để thực hiện chức năng xét xử, Tòa án nhân dân các cấp phải tổ chức việc áp dụng pháp luật trong ngành để đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật đúng người, đúng pháp luật và thống nhất trong cả nước. Như vậy, tổ chức thi hành pháp luật của các cơ quan này được tiến hành ngay trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn mà không phải là tổ chức thi hành pháp luật với tư cách là một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập tương đối với các nhiệm vụ, quyền hạn khác được Hiến pháp quy định như các chủ thể thuộc hệ thống các cơ quan hành pháp. Đối với Quốc hội, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các thiết chế hiến định khác thì tổ chức thi hành pháp luật có thể gọi là phương thức để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được giao mà không phải là một nhiệm vụ quyền hạn, một thẩm quyền có tính độc lâp tương đối.
Tóm lại, tổ chức thi hành pháp luật theo Hiến pháp năm 2013 là một nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ và cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương các cấp. Nhiệm vụ, quyền hạn này là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của các cơ quan và cá nhân thuộc ngành hành pháp. Các cơ quan lập pháp, tư pháp và các thiết chế hiến định khác cũng tổ chức thi hành pháp luật nhưng tổ chức ngay trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn hiến định của mình, là để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà không trở thành một nhiệm vụ, quyền hạn được thực hiện một cách độc lập so với các nhiệm vụ, quyền hạn khác.
3. Một số kiến nghị
Hiện nay, có thể nói, nhận thức về tổ chức thi hành pháp luật của Nhà nước nói chung, của các cơ quan có thẩm quyền nói riêng chưa tương xứng với nhận thức về hoạt động lập pháp. Hoạt động lập pháp vừa được Đảng chỉ đạo bằng chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật (Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị) với nhiều lần sơ kết, tổng kết đánh giá việc thực hiện Nghị quyết. Quốc hội đã ban hành và nhiều lần sửa đổi quy trình ban hành VBQPPL để nâng cao chất lượng và số lượng các đạo luật, bộ luật. Vì thế, chưa có thời kỳ nào mà các văn bản luật được ban hành nhiều như những năm qua. Trong lúc đó, tổ chức thi hành pháp luật, dường như chúng ta đang mặc nhiên để nó đi vào cuộc sống. Đến nay có thể nói rằng, luật sau khi ban hành, có hiệu lực với các văn bản cụ thể hóa là chưa đủ để tự nó đi vào cuộc sống mà phải bằng công tác tổ chức thi hành pháp luật một cách quyết liệt không kém so với hoạt động lập pháp.
Lẽ ra, hoạt động lập pháp và hoạt động tổ chức thi hành pháp luật phải đi liền nhau, đồng bộ với nhau và tương xứng với nhau. Tuy nhiên, hiện nay cả trong nhận thức cũng như trong tổ chức thực tiễn, hai hoạt động này chưa đi đôi với nhau. Coi trọng lập pháp nhưng lại coi nhẹ tổ chức thi hành pháp luật và chính vì thế, hai hoạt động này chưa có tác động tương hỗ lẫn nhau một cách chặt chẽ, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của mỗi quyền.
Hiện nay, ý thức pháp luật của xã hội nói chung, của đội ngũ cán bộ công chức nói riêng còn thấp, chưa ngang tầm với đòi hỏi của quản lý nhà nước bằng pháp luật, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền. Vì thế, tình trạng tiêu cực, tham nhũng vi phạm pháp luật còn xảy ra phổ biến trong đời sống nhà nước và xã hội; nguyên tắc pháp quyền, thượng tôn pháp luật chưa được coi trọng trong đời sống nhà nước và xã hội.
Từ những số hạn chế nói trên, để tăng cường công tác tổ chức thi hành pháp luật theo Hiến pháp năm 2013, chúng tôi có một số kiến nghị sau:
– Trước hết, do đặc thù của hệ thống chính trị nước ta, để công tác tổ chức thi hành pháp luật có sự chuyển biến mạnh mẽ, Bộ Chính trị nên ban hành Nghị quyết về việc tổ chức thi hành pháp luật, trong đó nhấn mạnh trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, các ngành, các cấp đối với công tác này.
– Thứ hai, sớm xây dựng Luật Tổ chức thi hành pháp luật, vừa thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 vừa xác định nội dung, quy trình thực hiện công tác này.
– Thứ ba, để tổ chức thi hành pháp luật theo Hiến pháp năm 2013, cần kiện toàn tổ chức bộ máy chuyên trách chăm lo công tác này. Vì vậy, trên cơ sở rà soát sắp xếp bộ máy hiện có theo nguyên tắc tinh gọn, không làm phình bộ máy, làm tăng biên chế, cần thành lập các vụ hay cục tổ chức thi hành pháp luật trong các Bộ, cơ quan ngang Bộ để chuyên trách, chăm lo công tác tổ chức thi hành pháp luật theo phạm vi thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ mình. UBND cấp tỉnh, huyện cần thành lập phòng tổ chức thi hành pháp luật.
– Thứ tư, để khởi động thực hiện các quy định của Hiến pháp năm 2013 về tổ chức thi hành pháp luật, trước mắt Chính phủ nên ban hành nghị định hay Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị về công tác này, làm cơ sở pháp lý bước đầu để cụ thể hóa Hiến pháp về tổ chức thi hành pháp luật. Đồng thời, có thể giao cho Bộ Tư pháp là cơ quan có trách nhiệm giúp Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo và quản lý công tác tổ chức thi hành pháp luật trong cả nước. Trên cơ sở đó tiến hành các bước soạn thảo dự án Luật Tổ chức thi hành pháp luật trình Quốc hội ban hành trong những năm tới./.
GS. TS.Trần Ngọc Đường – Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 9/2018.
Để lại một phản hồi