Những trường hợp ngoại lệ về nghĩa vụ giữ bí mật của Luật sư

Chuyên mụcBạn có biết?, Thảo luận pháp luật nghia-vu-giu-bi-mat-cua-luat-su

Trong một số trường hợp ngoại lệ, nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của Luật sư không được áp dụng. Nói cách khác, Luật sư phải cung cấp hoặc có thể cung cấp thông tin bí mật của khách hàng cho cá nhân, cơ quan có thẩm quyền. Ốt-xtrây-li-a và Hoa Kỳ là ví dụ.

Một trong những nguyên tắc cơ bản quan trọng của mối quan hệ giữa Luật sư và khách hàng là nếu không có sự đồng ý rõ ràng của khách hàng, thì Luật sư không được tiết lộ thông tin liên quan đến công việc mà Luật sư làm đại diện cho họ. Nói cách khác, Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng đã cung cấp với người thứ ba, kể cả đồng nghiệp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp ngoại lệ, nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của Luật sư không được áp dụng. Nói cách khác, ngoại lệ này là những trường hợp Luật sư phải cung cấp hoặc có thể cung cấp thông tin bí mật của khách hàng cho cá nhân, cơ quan có thẩm quyền khi đáp ứng được một số điều kiện cụ thể. Ốt-xtrây-li-a và Hoa Kỳ là hai nước trong số các nước quy định về các ngoại lệ của nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng theo hướng đó.

1. Các quy định của Ốt-xtrây-li-a.

1.1. Quy định của luật hình sự về hành vi cố ý không tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng

Theo quy định của luật hình sự của các bang và vùng lãnh thổ của Ốt-xtrây-li-a thì hậu quả của việc Luật sư không tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng trong một số trường hợp nhất định là người này có thể bị truy tố về tội không tố giác tội phạm.

Tội không tố giác tội phạm được quy định tại các bộ luật hình sự của các bang và vùng lãnh thổ của Australia. Cụ thể, tội không tố giác tội phạm được quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1899 của bang Queensland, Điều 136 của Bộ luật hình sự năm 1913 của bang Western Australia, Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1983 của vùng Northern Territtory, Điều 102 của Bộ luật hình sự năm 1924 của bang Tasmania, Điều 716 của Bộ luật hình sự năm 2002 của vùng Australia Capital Territory, Điều 241 Bộ pháp điển hóa luật hình sự của bang South Australia, Điều 326 Bộ luật hình sự năm 1958 của bang Victoria, Điều 316 Bộ luật hình sự năm 1900 (được sửa đổi, bổ sung năm 1990) của bang New South Wales, Australia.[1] Chủ thể tội phạm này là bất kỳ ai, trừ cha, mẹ, vợ hoặc chồng của người phạm tội.

Khoản 1 Điều 316 Bộ luật hình sự năm 1900 (được sửa đổi, bổ sung năm 1990) của bang New South Wales, Australia [2] quy định nếu một người đã thực hiện một hành vi phạm tội nghiêm trọng[3] và người khác biết hoặc tin rằng hành vi phạm tội đã xảy ra và người này có được thông tin cụ thể mà thông tin đó có thể hỗ trợ cho việc bắt giữ được người phạm tội hoặc truy tố hoặc kết án người phạm tội nhưng không cung cấp thông tin đó cho cảnh sát hoặc cơ quan có thẩm quyền khác mà không có lý do chính đáng, thì có thể bị phạt tù đến hai năm. Khoản 2 Điều 316 nêu trên cũng quy định nếu một người đòi hỏi, đồng ý hoặc chấp nhận bất kỳ lợi ích nào cho bản thân người này hoặc cho người khác để thực hiện bất kỳ một hành vi nào nhằm không tiết lộ thông tin có được quy định tại khoản 1 Điều này cho cảnh sát hoặc cơ quan có thẩm quyền phù hợp thì có thể bị phạt tù đến 5 năm. Tuy nhiên, khoản 4 và khoản 5 Điều 316 của Bộ luật nêu trên cũng quy định việc truy tố những người không tiết lộ thông tin nêu tại khoản 1 Điều này phải được sự đồng ý của Tổng Chưởng lý bang New South Wales trong trường hợp thông tin mà người biết được hoặc làm họ tin tưởng rằng hành vi phạm tội đã xảy ra là thông tin mà họ có được trong quá trình họ làm một công việc cụ thể được quy định trong hướng dẫn của Thống đốc bang.[4] Danh sách những người hành nghề cụ thể quy định tại khoản 5 Điều 316 của Bộ luật hình sự năm 1900 (sửa đổi, bổ sung năm 1990) bao gồm: (a) Người hành nghề luật; (b) Bác sỹ; (c) Người hành nghề tư vấn tâm lý; (d) Người hành nghề y tá; (đ) Nhà nghiên cứu giáo dục bậc đại học[5]; (e) Giáo viên trường học; (g) Trọng tài viên; (h) Hòa giải viên.[6]

Như vậy, có thể nói rằng, khoản 1 Điều 316 Bộ luật hình sự năm 1900 (sửa đổi, bổ sung năm 1990) của tiểu bang New South Wales được áp dụng cho rất nhiều chủ thể khác nhau, bao gồm cả luật sư, bác sỹ, y tá, nhà nghiên cứu giáo dục đại học, trọng tài viên, hòa giải viên… nếu họ có hành vi che dấu tội phạm nghiêm trọng; việc truy tố họ đã được sự chấp thuận của Tổng Chưởng lý bang New South Wales. Trong trường hợp đó, hình phạt tù tối đa có thể được áp dụng cho họ là 02 năm tù.

Ngược lại, theo quy định tại khoản 2 Điều 316 nêu trên, thì việc truy tố có thể tiến hành đối với bất kỳ ai, kể cả luật sư mà không cần sự chấp thuận của Tổng Chưởng lý bang New South Wales. Cũng cần nói thêm rằng, cách quy định tại khoản 2 Điều 316 của Bộ luật hình sự của bang New South Wales cũng tương tự các quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1899 của bang Queensland, Điều 136 của Bộ luật hình sự năm 1913 của bang Western Australia, Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1983 của Northern Territtory, Điều 102 của Bộ luật hình sự năm 1924 của bang Tasmania, Điều 716 của Bộ luật hình sự năm 2002 của Canberra, Điều 241 Bộ pháp điển hóa luật hình sự của bang South Australia và Điều 326 Bộ luật hình sự năm 1958 của bang Victoria.[7]

1.2. Quy định về việc tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng tại các Bản quy tắc đạo đức hành nghề của Luật sư  

Tại Ốt-xtrây-li-a các trường hợp luật sư buộc hoặc có thể tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng còn được quy định tại các bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư. Cụ thể:

Tại Mục 9.2 của Bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư do Hội đồng Luật pháp của nước Ốt-xtrây-lia ban hành năm 2015 quy định về một số trường hợp Luật sư có thể tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng như sau:

a) Khách hàng cho phép (trực tiếp hoặc gián tiếp) tiết lộ;

b) Luật sư được luật cho phép hoặc luật quy định bắt buộc luật sư phải tiết lộ;

c) Luật sư tiết lộ thông tin với mục đích duy nhất để ngăn chặn tội phạm nghiêm trọng xảy ra;

d) Luật sư tiết lộ thông tin để ngăn chặn những tổn hại nghiêm trọng về thể chất cho khách hàng hoặc của người khác.[8]

Dựa trên quy định này, các bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư của các bang và vùng lãnh thổ của Ốt-xtrây-lia đều có quy định về các trường hợp Luật sư tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng tương tự Mục 9.2 Bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư của Hội đồng Luật pháp của nước Ốt-xtrây-lia nêu trên.

2. Các quy định của Hoa Kỳ

2.1. Quy định của Đạo luật về chứng cứ của bang California về việc luật sư tiết lộ thông tin của khách hàng

Theo quy định tại Điều 956.5 của Đạo luật về chứng cứ của bang California, Hoa Kỳ năm 1965 (sửa đổi, bổ sung năm 2004) thì thông tin của khách hàng cung cấp sẽ không được bảo vệ bằng nghĩa vụ bảo mật thông tin nếu luật sư có căn cứ để tin tưởng rằng việc tiết lộ bất kỳ thông tin bí mật liên quan đến việc đại diện cho một khách hàng là để ngăn chặn một hành vi phạm tội mà luật sư có cơ sở để tin tưởng rằng hành vi đó sẽ dẫn đến cái chết hoặc thiệt hại nghiêm trọng đến sức khỏe của một cá nhân.

2.2. Quy định về việc luật sư tiết lộ thông tin của khách hàng tại các Bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư

Các bang của Hoa Kỳ đều ban hành Bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư dựa trên Bản quy tắc mẫu về đạo đức hành nghề của Luật sư do Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ ban hành năm 1983 (sửa đổi, bổ sung năm 2003 và 2012) . Trong tất cả các Bản quy tắc này đều có quy định về những trường hợp Luật sư tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng trong một số trường hợp cụ thể.

2.2.1. Quy định tại Bản quy tắc mẫu về đạo đức hành nghề của Luật sư

Tại Mục 1.6 của Bản quy tắc mẫu về đạo đức hành nghề của Luật sư do Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ ban hành năm 1983 (sửa đổi, bổ sung năm 2003 và 2012) quy định Luật sư có thể tiết lộ thông tin của khách hàng đến một phạm vi mà luật sư có căn cứ để tin tưởng là cần thiết trong các trường hợp sau đây:

(a) Tiếp lộ theo quy định bắt buộc của luật hoặc lệnh của tòa án;

(b) Tiếp lộ để ngăn chặn cái chết hoặc những tổn hại nghiêm trọng về thể chất sắp xảy ra cho người khác. Đây là trường hợp mà thiệt hại về tính mạng hoặc sức khỏe của người khác sẽ xảy ra hoặc có những mối đe dọa hiện hữu và nghiêm trọng dẫn đến sự thiệt hại về tính mạng hoặc sức khỏe của người khác nếu luật sư không tiến hành bất kỳ hành động nào để chặn đứng đe dọa đó. Ví dụ: luật sư biết rằng khách hàng của họ đã có hành vi đổ chất thải độc hại vào nguồn nước sinh hoạt cung cấp cho người dân ở một thành phố, thì luật sư phải cung cấp thông tin này cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nếu có nguy cơ hiện hữu và nghiêm trọng rằng người sử dụng nước đó để sinh hoạt sẽ bị đe dọa đến tính mạng hoặc bị bệnh nguy hiểm đến sức khỏe và việc tiết lộ thông tin của luật sư là cần thiết để ngăn chặn mối hiểm họa về sức khỏe hoặc giảm thiểu số lượng nạn nhân.

(c) Tiết lộ để ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc gian lận của khách hàng mà luật sư có căn cứ xác định hành vi đó sẽ gây ra thiệt hại nghiêm trọng về lợi ích tài chính hoặc tài sản của người khác và khách hàng là chủ thể đã hoặc đang sử dụng dịch vụ do luật sư cung cấp để thực hiện hành vi phạm tội hoặc gian lận đó. Đây là trường hợp luật sư tiết lộ thông tin cho những người bị thiệt hại và cơ quan có thẩm quyền để ngăn chặn khách hàng thực hiện hành vi phạm tội cụ thể hoặc gian lận mà hành vi này sẽ dẫn đến hậu quả là làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích tài chính hoặc tài sản của người khác và khách hàng là chủ thể đã sử dụng hoặc đang sử dụng dịch vụ của luật sư để thực hiện hành vi này. Hậu quả tất yếu của hành vi phạm tội hoặc gian lận của khách hàng là nguyên tắc bảo mật thông tin sẽ không được áp dụng. Do đó, khách hàng có thể ngăn chặn việc tiết lộ thông tin bằng cách không thực hiện hành vi phạm tội hoặc gian lận. Đồng thời, trong trường hợp này, luật sư cũng không được tư vấn hoặc hỗ trợ khách hàng thực hiện những hành vi mà luật sư biết đó là hành vi phạm tội hoặc gian lận. Tuy nhiên, luật sư cũng có thể thảo luận với khách hàng về hậu quả của hành vi phạm tội hoặc gian lận của khách hàng. Trong trường hợp này luật sư phải hủy bỏ việc đại diện cho khách hàng.

(d) Để ngăn ngừa hoặc giảm nhẹ hoặc khắc phục những thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích tài chính hoặc tài sản của người khác mà có căn cứ xác định những thiệt hại đó sẽ xảy ra hoặc đã xảy ra do khách hàng là chủ thể đã sử dụng dịch vụ của luật sư để thực hiện hành vi phạm tội hoặc gian lận đó. Đây là trường hợp mà luật sư không biết về hành vi phạm tội hoặc gian lận của khách hàng cho đến sau khi hành vi phạm tội hoặc gian lận đó đã được thực hiện. Mặc dù, khách hàng không còn khả năng để ngăn chặn việc tiết lộ thông tin của luật sư bằng việc chấm dứt hành vi phạm tội hoặc gian lận nhưng vẫn còn đó cơ hội để hạn chế, sữa chữa hoặc giảm bớt thiệt hại về lợi ích tài chính hoặc tài sản cho người bị thiệt hại. Trong trường hợp này, luật sư có thể tiết lộ thông tin liên quan đến một mức độ cần thiết để làm cơ sở cho người bị thiệt hại tài chính hoặc tài sản có thể hạn chế hoặc giảm thiểu thiệt hại hoặc cố gắng thu hồi lại các khoản thiệt hại đã mất.

2.2.2. Quy định tại một số Bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư tại một số bang của Hoa Kỳ

a) Bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư của bang New Jersey, Hoa Kỳ

Bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư của bang New Jersey, Hoa Kỳ được ban hành năm 1984 trên cơ sở Bản quy tắc mẫu về đạo đức hành nghề của Luật sư. Theo quy định tại điểm b của Tiểu mục 1.6 của Bản quy tắc này, thì Luật sư phải nhanh chóng cung cấp thông tin của khách hàng cho những cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi mà luật sư có căn cứ để tin tưởng là cần thiết để ngăn chặn khách hàng hoặc người khác:

 

(i) Thực hiện một hành vi phạm tội cụ thể, hành vi trái pháp luật hoặc hành vi gian lận mà luật sư có căn cứ để tin rằng hành vi này sẽ dẫn đến hậu quả làm người khác chết hoặc thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe hoặc thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích tài chính hoặc tài sản của người khác;

(ii) Thực hiện một hành vi phạm tội cụ thể, hành vi trái pháp luật hoặc hành vi gian lận mà luật sư có lý do để tin tưởng rằng hành vi đó là hành vi gian dối trong tố tụng.

 

Nếu Luật sư cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền trong hai trường hợp nêu trên, thì Luật sư có thể cung cấp thông tin cho người bị đe dọa trong một phạm vi mà Luật sư có căn cứ để tin tưởng là cần thiết để ngăn ngừa cái chết hoặc thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe, thiệt hại nghiêm trọng về tài chính hoặc thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của người bị đe dọa.

Bên cạnh đó, điểm d Tiểu mục 1.6 của Bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư của bang New Jersey, Hoa Kỳ cũng quy định về các trường hợp mà Luật sư có thể tiết lộ thông tin do khách hàng cung cấp như sau:

 

(i) Để khắc phục hậu quả của hành vi phạm tội, hành vi vi phạm pháp luật hoặc hành vi gian lận của khách hàng mà hành vi đó do khách hàng đã sử dụng dịch vụ luật sư để thực hiện;
(ii) Để xác lập việc khởi kiện hoặc tự bảo vệ cho chính luật sư trong một tranh chấp giữa khách hàng và luật sư hoặc xác lập việc bào chữa cho một tội phạm mà Luật sự bị cáo buộc hoặc vụ kiện dân sự chống lại luật sư dựa trên các hoạt động của luật sư mà có liên quan đến khách hàng;

(iii) Để thực hiện quy định của luật khác.

b) Bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ

 

Bản quy tắc về đạo đức hành nghề của Luật sư tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ có hiệu lực từ năm 1991 (được sửa đổi, bổ sung năm 2007). Theo Mục 1.6 của Bản quy tắc này thì Luật sư có thể tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng trong 3 trường hợp cụ thể sau đây:

 

1. Luật sư có thể tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng đến một phạm vi hợp lý cần thiết để:

(i) Ngăn chặn một hành vi tội phạm cụ thể mà luật sư có căn cứ để tin rằng hành vi đó sẽ dẫn đến cái chết hoặc thiệt hại nghiêm trọng đến sức khỏe của người khác nếu luật sư không tiết lộ thông tin bí mật đó;

(ii) Ngăn chặn hành vi đưa hối lộ hoặc đe dọa người làm chứng, bồi thẩm đoàn, nhân viên tòa án hoặc những người khác liên quan đến thủ tục tố tụng tại tòa án nếu luật sư có căn cứ để tin rằng hành vi đó sẽ xảy ra nếu luật sư không tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng.

2. Khi khách hàng đã sử dụng hoặc đang sử dụng dịch vụ của luật sư để thực hiện một hành vi phạm tội hoặc gian lận, Luật sư có thể tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng đến một phạm vi hợp lý cần thiết để:

(i) Ngăn chặn khách hàng thực hiện một hành vi phạm tội hoặc gian lận nếu có căn cứ khẳng định hành vi đó sẽ dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng về lợi ích tài chính hoặc tài sản của người khác;

(ii) Ngăn chặn, giảm nhẹ hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng về lợi ích tài chính hoặc tài sản của người khác nếu có căn cứ xác định thiệt hại đó là hậu quả của hành vi phạm tội hoặc gian lận của khách hàng.

3. Luật sư có thể tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng trong các trường hợp sau đây:

(i) Có sự đồng ý rõ ràng của khách hàng;

(ii) Theo yêu cầu bắt buộc do luật quy định hoặc theo lệnh của Tòa án;

(iii) Để giảm thiểu các bước cần thiết trong vụ kiện do luật sư tiến hành để đòi phí luật sư;

(iv) Khi Luật sư có căn cứ để tin rằng khách hàng đã gián tiếp đồng ý cho Luật sư tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng để thực hiện công việc đại diện cho khách hàng;
(v) Tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng đến một phạm vi hợp lý cần thiết để biện hộ hoặc tự bảo vệ mình đối với tội phạm mà Luật sư bị cáo buộc hoặc một vụ kiện chống lại Luật sư dựa trên công việc liên quan cho khách hàng hoặc để tự bảo vệ trước khiếu nại cụ thể của khách hàng liên quan đến việc đại diện của Luật sư cho khách hàng.

 

c) Bản quy tắc đạo đức hành nghề của Luật sư tại một số bang khác của Hoa Kỳ

Bản quy tắc đạo đức hành nghề của Luật sư tại các bang Alaska, Arkansas, Connecticut, Illinois, Maine, Maryland, Massachusetts, New Hampshire, New Mexico, North Dakota, Pennsylvania và Uhta đều cho phép luật sư tiết lộ thông tin cần thiết để ngăn chặn khách hàng thực hiện một hành vi tội phạm cụ thể mà có thể dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích tài chính hoặc tài sản của người khác.

Bản quy tắc đạo đức hành nghề của Luật sư tại các bang Arizona, Arkansas, Colorado, Idaho, Illinois, Kansas, Michigan, North Caroliana, Oregon, South Carolina và Wyoming cho phép Luật sư tiết lộ dự định thực hiện hành vi phạm tội của khách hàng. Bên cạnh đó, Bản quy tắc hành nghề đạo đức của các bang Arizona, Connecticuts, Florida, Illinois, Nevada, North Dakota, Texas, Tennessee, Vermont và Wisconsin còn quy định luật sư bắt buộc phải tiết lộ thông tin để ngăn chặn những tội phạm bạo lực nghiêm trọng.

Trên đây là một số quy định của Ốt-xtrây-li-a và Hoa Kỳ về các trường hợp luật sư bắt buộc phải hoặc có thể tiết lộ bí mật thông tin của khách hàng mà luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho họ./.

Ths. Lê Mạnh Hùng

TAND tối cao

[1] Các bộ luật hình sự này có tại trạng: http://www.austlii.edu.au/au/legis.[2] The Crime Act 1990 có tại trang: http://www.austlii.edu.au/au/legis/nsw/consol_act/ca190082/s316.html.

[3] Điều 4 của Bộ luật hình sự năm 1900 của bang New South Wales định nghĩa tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có thể bị xử phạt tù từ 5 năm trở lên.

[4] New South Wales Law Commission, Report No93 “Review of Section 316 of the Crimes Act 1900( NSW) Law Reform” có tại trang www.lawreform.justice.nsw.gov.au/Documents/…/Report-93.pdf.

[5] New South Wales Law Commission, Report No93 “Review of Section 316 of the Crimes Act 1900( NSW) Law Reform” có tại trang www.lawreform.justice.nsw.gov.au/Documents/…/Report-93.pdf.

[6] Crime Regulation 2010 under the Crime Act 1900, có tại trang: www.legislation.nsw.gov.au/regulations/2010-442.pdf.

[7] Các bộ luật hình sự này có tại trạng: http://www.austlii.edu.au/au/legis.

[8] Law Counsil of Australia, http://www.legislation.nsw.gov.au/#/view/regulation/2015/244.

[1] Evidence Code, https://leginfo.legislature.ca.gov/faces/codes_displayText.xhtml?lawCode=EVID&division=8.&title=&part=&chapter=4.&article=3.html.

[2] Bản quy tắc mẫu về đạo đức hành nghề của Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ có tại trang của Hiệp hội này: https://www.americanbar.org/groups/professional_responsibility/publications/model_rules_of_professional_conduct/rule_1_6_confidentiality_of_information.html.

[3] Danh sách các bang nêu trên có tại trang của Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ: https://www.americanbar.org/groups/professional_responsibility/publications/model_rules_of_professional_conduct/alpha_list_state_adopting_model_rules.html.

[4] Bản quy tắc mẫu về đạo đức hành nghề của Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ có tại trang của Hiệp hội này: https://www.americanbar.org/groups/professional_responsibility/publications/model_rules_of_professional_conduct/rule_1_6_confidentiality_of_information.html.

[5] American Bar Association, Comment on Rule 1.6, có tại trang: https://www.americanbar.org/groups/professional_responsibility/publications/model_rules_of_professional_conduct/rule_1_6_confidentiality_of_information/comment_on_rule_1_6.html.

[6] American Bar Association, Comment on Rule 1.6, có tại trang: https://www.americanbar.org/groups/professional_responsibility/publications/model_rules_of_professional_conduct/rule_1_6_confidentiality_of_information/comment_on_rule_1_6.html.

[7] American Bar Association, Comment on Rule 1.6, https://www.americanbar.org/groups/professional_responsibility/publications/model_rules_of_professional_conduct/rule_1_6_confidentiality_of_information/comment_on_rule_1_6.html.

[8] Bản quy tắc mẫu về đạo đức hành nghề của Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ có tại trang của Hiệp hội này: https://www.americanbar.org/groups/professional_responsibility/publications/model_rules_of_professional_conduct/rule_1_6_confidentiality_of_information.html.

[9] American Bar Association, Comment on Rule 1.6, https://www.americanbar.org/groups/professional_responsibility/publications/model_rules_of_professional_conduct/rule_1_6_confidentiality_of_information/comment_on_rule_1_6.html.
[10] Bản quy tắc này có tại trang https://www.law.cornell.edu/ethics/nj/code/NJ_CODE.HTM.

[11] https://www.law.cornell.edu/ethics/nj/code/NJ_CODE.HTM.

[12] Bản quy tắc có tại trang: https://www.law.cornell.edu/ethics/nj/code/NJ_CODE.HTM.

[13] Bản quy tắc này có tại trang: https://www.dcbar.org/bar-resources/legal-ethics/amended-rules/rule1-intro.cfm.

[14] Rules of Professional Conduct: Rule 1.6–Confidentiality of Information, có tại trang: https://www.dcbar.org/bar-resources/legal-ethics/amended-rules/rule1-06.cfm.
[15] Stephen Gillers, Roy D. Simon, Andrew M. Perlman, Dana Remus, Regulation of Lawyers: Statutes and Standards, Concise Edition, 2017 Supplement.
[16] Stephen Gillers, Roy D. Simon, Andrew M. Perlman, Dana Remus, Regulation of Lawyers: Statutes and Standards, Concise Edition, 2017 Supplement.

đánh giá bài viết

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền