Một số nội dung lớn trong dự thảo Luật đặc xá (sửa đổi)

Đặc xá

Luật đặc xá (sửa đổi) được Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 5 (tháng 5-2018). Theo đánh giá của Chính phủ, dù đã đạt được một số kết quả tích cực, song nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế lớn trong công tác thi hành Luật đặc xá. Trong đó, số lượng người được đặc xá trong mỗi đợt là khá lớn, chưa thể hiện rõ tính đặc biệt trong việc hưởng ân huệ của người đứng đầu nhà nước đối với người phạm tội. Thời gian thực hiện Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước chưa được quy định cụ thể trong Luật hiện hành nên trong thực tế, thời gian tổ chức thực hiện các công việc đặc xá trong mỗi đợt thường là quá ngắn, gây nhiều áp lực, bị động cho cơ quan tổ chức thực hiện. Ngoài ra, Luật hiện hành cũng chưa quy định thủ tục cụ thể tiến hành bảo hộ công dân đối với phạm nhân là người nước ngoài được Việt Nam đặc xá… Chính vì vậy, dự thảo Luật đặc xá (sửa đổi) đã đưa ra một số quy định mới, nhằm khắc phục những bất cập nêu trên.

 

Các nội dung liên quan: 

1. Về điều kiện được đề nghị đặc xá

Điều 10 dự thảo Luật đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng hơn diện đối tượng người có thể được đề nghị đặc xá so với quy định của Luật Đặc xá 2007 và diện người được tha tù trước thời hạn có điều kiện, cụ thể như sau:

– Không quy định điều kiện “phạm tội lần đầu” như Bộ luật Hình sự 2015 (Điều 66 BLHS 2015 quy định một trong những điều kiện để tha tù trước thời hạn là “phạm tội lần đầu”).

– Người bị kết án về một trong các tội quy định tại Chương XIII, Chương XXVI, Điều 299; người bị kết án 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương XIV của Bộ luật Hình sự do cố ý hoặc người bị kết án 07 năm tù trở lên đối với một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 248, 251, 252 của Bộ luật Hình sự vẫn có thể được đề nghị đặc xá nếu đáp ứng được điều kiện về thời hạn đã chấp hành án phạt tù.

– Đã chấp hành được ít nhất ½ thời gian đối với hình phạt tù có thời hạn, ít nhất 15 năm đối với hình phạt tù chung thân (tăng so với Luật hiện hành).

– Đối với người bị kết án phạt tù về bất kỳ tội gì (trong khi Luật hiện hành chỉ quy định đối với người bị kết án phạt tù về tội phạm tham nhũng hoặc một số tội khác do Chủ tịch nước quyết định) đều phải chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí, bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự khác; trừ trường hợp được Chủ tịch nước xem xét, quyết định đối với khoản tiền phạt bổ sung, án phí; có văn bản không yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc đồng ý bồi thường thiệt hại sau khi được đặc xá.

2. Về các Quyết định của Chủ tịch nước về đặc xá

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung theo hướng:

– Quy định cụ thể hơn trình tự, thủ tục trình Chủ tịch nước ban hành Quyết định về đặc xá; đồng thời bổ sung quy định Tờ trình và dự thảo Quyết định về đặc xá phải được trình lên Chủ tịch nước chậm nhất là 60 ngày trước thời điểm đặc xá, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 5 của dự thảo Luật.

– Quy định Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước được công bố và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng và được niêm yết tại trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, UBND cấp xã nơi người được đặc xá cư trú để bảo đảm công khai, minh bạch, tăng cường khả năng giám sát, giúp đỡ người được đặc xá nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Quy định này sẽ tạo điều kiện để người dân giám sát quá trình chấp hành án, đồng thời, tăng cường trách nhiệm xã hội, huy động sự hỗ trợ của người dân tham gia giúp đỡ người được đặc xá nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng.

3. Về đặc xá đối với phạm nhân là người nước ngoài

Luật đặc xá hiện hành (Điều 19) quy định: Khi có Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước đối với người nước ngoài, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với Bộ Ngoại giao thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước mà người được đặc xá là công dân biết và đề nghị phối hợp thực hiện Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước.

Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc khi thi hành Luật đặc xá năm 2007 về quản lý đối tượng người nước ngoài được đặc xá, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 19, cụ thể: “Khi có Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước đối với người nước ngoài, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với Bộ Ngoại giao thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước mà người được đặc xá là công dân và đề nghị phối hợp thực hiện Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước. Trường hợp các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước mà người được đặc xá là công dân nhưng các cơ quan này không đến nhận hoặc chưa đến nhận thì người nước ngoài được đặc xá được bố trí lưu trú tại cơ sở lưu trú do cơ quan quản lý thi hành án hình sự chỉ định trong thời gian chờ làm các thủ tục cần thiết” và giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này.

4. Về người được đặc xá trong trường hợp đặc biệt

Điều 21 dự thảo Luật quy định: “Trong trường hợp đặc biệt, để đáp ứng yêu cầu về đối nội, đối ngoại của Nhà nước, Chủ tịch nước quyết định đặc xá cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân không phụ thuộc vào các điều kiện quy định tại Điều 10 của Luật này”.

Về vấn đề này, một số ý kiến cho rằng, quy định “Trong trường hợp đặc biệt, để đáp ứng yêu cầu về đối nội, đối ngoại” là chưa thật sự rõ ràng về các tiêu chí xác định để Chính phủ và các cơ quan liên quan tham mưu, trình Chủ tịch nước quyết định. Trong khi đó, trên thực tế thì số người được hoãn, tạm đình chỉ được đặc xá trong trường hợp đặc biệt rất lớn (theo Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật đặc xá, có tới 1.123 người đang hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù được đặc xá trong trường hợp đặc biệt qua 07 lần đặc xá). Do vậy, các ý kiến này đề nghị để đảm bảo chặt chẽ và làm căn cứ cho các cơ quan triển khai thực hiện, khắc phục hạn chế về số lượng người được đặc xá lớn như thời gian qua, cần quy định cụ thể tiêu chí xác định thế nào là “trường hợp đặc biệt để đáp ứng yêu cầu về đối nội, đối ngoại”.

Ngoài những vấn đề mới cơ bản nêu trên, dự thảo Luật đã bổ sung một số nội dung khác, như: Thu hẹp diện đối tượng không đề nghị đặc xá; Bổ sung quy định về các tài liệu trong hồ sơ đề nghị đặc xá (có đơn xin miễn, giảm; văn bản thỏa thuận không yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc đồng ý bồi thường thiệt hại sau khi được đặc xá; văn bản đồng ý tiếp nhận của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước mà người được đề nghị đặc xá là công dân); Quy định về trình tự, thủ tục lập hồ sơ, danh sách người đủ điều kiện đề nghị đặc xá, thẩm định xét duyệt hồ sơ đề nghị đặc xá theo hướng cụ thể, chặt chẽ hơn; Bổ sung trách nhiệm niêm yết Quyết định về đặc xá tại nhà tạm giữ thuộc Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện…

 

Nguồn: Tạp chí điện tử Pháp lý (www.phaply.vn)

đánh giá bài viết

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Nếu cần BQT hỗ trợ gấp, vui lòng liên hệ hotline 1900.0164 bấm phím 0.