Một số khó khăn và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm xâm hại tình dục trẻ em

Dâm ô với trẻ em

Xâm hại tình dục trẻ em đang là vấn nạn trên toàn Việt Nam, hậu quả mà các em phải gánh chịu là những tổn thất về sức khỏe thể chất và tinh thần, làm giảm khả năng học tập, hòa nhập xã hội và thậm chí có thể hủy hoại các em, ảnh hưởng đến việc trở thành con người tốt, trở thành cha mẹ tốt trong tương lai. Nhằm hạn chế đến mức tối đa hậu quả của loại tội phạm xâm hại tình dục trẻ em, cần có cách nhìn toàn diện về loại tội phạm này để từ đó áp dụng các biện pháp xử lý kịp thời, góp phần tạo hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng ngừa.

1. Khái quát chung về trẻ em và các hình thức xâm hại tình dục trẻ em.

“Trẻ em” được đề cập đến trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau. Tuy nhiên theo Luật Trẻ em năm 2016, “trẻ em” được hiểu là người dưới 16 tuổi. Còn theo Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam thì: Trẻ em được hiểu là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn. Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về xác định độ tuổi trẻ em nhưng tựu chung lại có thể hiểu, trẻ em là người đang trong giai đoạn phát triển, chưa hoàn thiện về mặt sinh lý và tâm lý, dễ bị tổn thương do các tác động tiêu cực từ môi trường xã hội.

Luật Trẻ em năm 2016 quy định rõ cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình và các cá nhân có trách nhiệm thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo đảm trẻ em được sống an toàn, lành mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em… Mặc dù vậy, tình trạng phạm xâm hại tình dục trẻ em hiện nay đang diễn biến hết sức phức tạp với nhiều thủ đoạn mới. Có thể hiểu Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức.

Trẻ có thể bị xâm hại tình dục dưới nhiều hình thức khác nhau trong đó phổ biến là xâm hại bằng cách đụng chạm và không đụng chạm. Xâm hại tình dục trẻ em bằng cách đụng chạm bộc lộ qua một số hành vi như hôn hít hoặc ôm trẻ theo kiểu tình dục, sờ mó vào bộ phận sinh dục của trẻ, hoặc bắt trẻ sờ mó vào bộ phận sinh dục của người lớn hoặc của một đứa trẻ lớn hơn, ép trẻ thực hiện hành vi mại dâm… Xâm hại tình dục trẻ em bằng cách không đụng chạm là những hành vi như dùng lời nói hoặc tranh ảnh khiêu dâm để làm cho trẻ sốc, làm cho trẻ hưng phấn tình dục hoặc làm cho trẻ quen với tình dục, cho trẻ nghe hoặc nhìn những cảnh tình dục, bắt trẻ đứng ngồi theo tư thế gợi dục để chụp ảnh (khiêu dâm), hoặc cho trẻ xem sách báo khiêu dâm…

2. Một số khó khăn khi giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em.

Nhận diện loại tội phạm và các hình thức thực hiện tội phạm xâm hại tình dục trẻ em là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm, góp phần ngăn chặn, phòng ngừa chung. Bộ luật hình sự năm 2015 quy định 5 điều về xâm hại tình dục trẻ em gồm: Điều 142. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Điều 144. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Điều 146. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; Điều 147. Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm. Trong đó quy định các hành vi xâm hại tình dục trẻ em gồm: Hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, quan hệ tình dục khác, dâm ô và sử dụng trẻ em vào mục đích khiêu dâm. Tuy nhiên, các khái niệm “quan hệ tình dục khác”, “dâm ô”, “khiêu dâm” đến nay Tòa án nhân dân tối cao vẫn đang thực hiện dự thảo hướng dẫn chưa có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, khi xảy ra vụ việc cụ thể các cơ quan tố tụng không thống nhất được cách hiểu dẫn đến việc áp dụng pháp luật còn nhiều lúng túng. Ngoài ra, quá trình giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em các cơ quan tố tụng còn gặp nhiều khó khăn:

Thứ nhất, trong hoạt động thu thập chứng cứ, chứng minh.

Thực trạng giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em hiện nay cho thấy việc phát hiện, thu thập tài liệu chứng cứ ban đầu như các dấu vết, mẫu tinh dịch, mẫu AND của đối tượng gây án để lại trên người và quần áo của nạn nhân, hoặc ở hiện trường còn gặp nhiều khó khăn bởi có nhiều trường hợp trẻ em bị xâm hại tình dục, khi gia đình biết đã lưỡng lự trong cách giải quyết dẫn đến khai báo muộn, không biết cách thu giữ vật chứng cần thiết để giao nộp cho cơ quan chức năng nên vô hình chung đã tạo điều kiện để người thực hiện hành vi phạm tội có đủ thời gian xóa hết dấu vết. Do đó, việc thu thập chứng cứ đầy đủ, chính xác gặp nhiều khó khăn (vùng kín bị hóa sẹo, không thu được tinh dịch…) nên rất khó để xác định người bị hại có bị hiếp dâm hay không và ai là người thực hiện hành vi. Trong khi đó yêu cầu của việc thu thập mẫu tinh dịch, mẫu ADN để lại trên người và quần áo của nạn nhân, hoặc ở hiện trường và giám định pháp y cần phải tiền hành nhanh chóng, kịp thời nhưng theo quy trình giải quyết tin báo thì khi cơ quan điều tra sau tiếp nhận tin báo về tội phạm, phải phân loại và tổ chức lấy lời khai ban đầu, xác minh, làm thủ tục giới thiệu đến cơ quan chuyên môn thăm khám, lấy mẫu, giám định,… quy trình này mất trên dưới 1 tuần, có trường hợp còn kéo dài hơn. Vì vậy, thời gian càng kéo dài, việc thu thập dấu vết tội phạm, chứng cứ chứng minh thủ phạm càng khó khăn hơn.

Do có tính đặc thù như đối tượng bị xâm hại đang trong giai đoạn phát triển, chưa hoàn thiện về mặt sinh lý và tâm lý, cần được quan tâm bảo vệ đặc biệt; các dấu vết của loại tội phạm này thường nhanh chóng bị mất. Vì thế, cơ quan có thẩm quyền cần chủ động phối hợp với các cơ quan chuyên môn xây dựng quy trình giải quyết theo hướng khi tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm về xâm hại tình dục trẻ em, Cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện ngay một số hoạt động như:

Một là, kịp thời thu giữ dấu vết vật chất đặc biệt là lông, tóc, sợi, dịch, máu, quần áo, công cụ trong các vụ án xâm hại tình dục trẻ em.

Hai là, phối hợp với Bác sĩ hoặc chuyên gia tâm lý, bác sĩ chuyên khoa phụ sản, cán bộ đã được đào tạo chuyên môn về quản lý, chăm sóc, giáo dục trẻ em để xử lý thông tin ban đầu, thăm khám, thu thập dấu vết, vật chứng có liên quan trên thân thể nạn nhân để tiến hành giám định pháp y trong thời gian nhanh nhất nhằm kết luận có hay không dấu hiệu xâm hại tình dục.

Ba là, công tác khám nghiệm hiện trường phải kịp thời, tỉ mỉ, toàn diện để đánh giá lời khai của bị hại có căn cứ hay không, để làm căn cứ để đấu tranh với bị can vì đây là những chứng cứ quan trọng để truy nguyên đối tượng.

Thứ hai, kỹ năng của cán bộ trực tiếp xử lý, giải quyết vụ việc.

Khi giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em cơ quan tiến hành tố tụng cần phải làm rõ các đặc điểm riêng biệt như: độ tuổi, đặc điểm tính cách của nạn nhân, hoàn cảnh gia đình. Căn cứ vào đặc điểm của từng em để có những biện pháp tác động cụ thể, kịp thời. Ví dụ trong trường hợp các em do chưa nhận thức đầy đủ đã đồng tình hoặc chủ động trong quan hệ tình dục, khi người lớn phát hiện không động viên, nâng đỡ mà dùng bạo lực với các em, dẫn đến các em sẽ khai báo không đúng sự thật. Hoặc khi trẻ em bị xâm hại nhưng do bị đe dọa nên sợ không dám nói ra sự thật,… Những trường hợp này cần có biện pháp phối hợp với gia đình động viên, tôn trọng trẻ và có biện pháp chia sẻ để các em hiểu, yên tâm trình bày nội dung sự việc một cách trung thực nhất.

Tuy nhiên, cán bộ giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em còn chưa được đào tạo về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi, nên khi tiến hành lấy lời khai trẻ em đã dùng những từ ngữ mang tính chất chuyên môn hoặc các câu hỏi áp dụng như người lớn khiến trẻ em không biết trả lời hoặc trả lời không chính xác. Vì thế, khi tiến hành lấy lời khai trong trường hợp này cần phải mời chuyên gia tâm lý tham gia cùng. Trong trường hợp không mời được thì khi tiếp cận trẻ em cần quan sát thái độ, cử chỉ, hành động của các em. Khi hỏi trẻ em cần hỏi những câu rõ ý để trẻ em trả lời đúng, cần sử dụng từ ngữ đơn giản, dễ hiểu mà ở nhà ông bà, bố mẹ hay dùng để trao đổi với trẻ.

Cần chú ý, những trẻ bị xâm hại thường có những biểu hiện như: Nép và bám chặt vào cha mẹ, không dám nhìn người lạ, òa khóc khi gặp người lạ, trên người có dấu vết,… Khi lấy lời khai người nhà nạn nhân cần hỏi gia đình xem khi đêm ngủ các em có biểu hiện giật mình và tự nhiên khóc thét lên, ngại tắm, sợ cởi quần áo khi tắm, sợ bị người khác chạm vào người, không thích đến chỗ đông người, không thích ở một mình, thay đổi tính nết. Tự nhiên có tiền hoặc quà, phát ngôn những từ mới, vẽ hình ảnh bất thường về tình dục, có hành vi tình dục không phù hợp,… để có phương pháp tiếp cận trẻ phù hợp khi lấy lời khai của các em.

Thứ ba, từ chính người bị hại hoặc gia định người bị hại.

Trong nhiều vụ án mặc dù tại cơ quan điều tra và trong hồ sơ vụ án đã thể hiện quan điểm rõ ràng và khẳng định hành vi của bị cáo đã xâm hại tình dục đối với trẻ em. Nhưng do trong quá trình chờ xét xử, giữa gia đình bị cáo và gia đình người bị hại đã thỏa thuận, thống nhất với nhau và thậm chí do sự tác động nào đó (có thể do bị đe dọa hoặc hứa hẹn) nên tại phiên tòa người bị hại lại thay đổi lời khai, phủ nhận lời khai trước đó và một mực bảo vệ bị cáo, cho rằng bị cáo không thực hiện hành vi xâm hại tình dục đối với họ như trong hồ sơ vụ án đã thể hiện,…qua đó đã gây nhiều khó khăn cho Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án đó.

Trong các vụ án xâm hại tình dục đối với trẻ em, người bị hại và gia đình của người bị hại thường có tâm lý e ngại, lo sợ ảnh hưởng đến danh dự, cuộc sống gia đình nên khi xảy ra vụ việc, họ thường không trình báo với cơ quan có thẩm quyền mà giấu diếm, bỏ qua hoặc tự thỏa thuận với người có hành vi phạm tội và gia đình của người phạm tội gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. Trong quá trình giải quyết vụ án, do thời gian xảy ra đã lâu, sự hợp tác không chặt chẽ của người phạm tội, người bị hại nên việc giám định của cơ quan có thẩm quyền gặp khó khăn, cũng ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án.

Cũng có trường hợp khi biết sự việc thì phía gia đình bị hại và gia đình bị cáo tự thỏa thuận với nhau về việc bồi thường, sau đó do không thống nhất được mức bồi thường nên bị hại mới tố cáo hành vi của người phạm tội, nhưng việc khai báo sau đó không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án nên việc điều tra và nhận định các chứng cứ gặp nhiều khó khăn, kéo dài thời gian giải quyết vụ án.

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em và công tác đấu tranh phòng ngừa.

Để nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án xâm hại tình dục nói chung và xâm hại tình dục trẻ em nói riêng các thì cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện đồng bộ các việc sau:

Thứ nhất, cần có văn bản hướng dẫn, giải thích thống nhất về các khái niệm còn đang mâu thuẫn nhằm đảm bảo cách hiểu thống nhất và vận dụng đồng bộ trong thực tế. Ví dụ: như khái niệm “hành vi quan hệ tình dục khác” là hành vi nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình với người khác dưới những hình thức nhất định.

Khái niệm “hành vi dâm ô” là có hành vi bỉ ổi đối với người khác, tuy không phải là hành vi giao cấu nhưng cũng nhằm thoả mãn tình dục của mình hoặc khêu gợi bản năng tình dục của người đó. Hoặc khái niệm về hành vi dâm ô đối với trẻ em là hành vi của người phạm tội, như sờ, bóp… vào những bộ phận kích thích tình dục của trẻ em hoặc buộc trẻ em phải có hành vi như sờ, bóp … vào những bộ phận kích thích tình dục của người đó hoặc của người khác, nhưng không có việc giao cấu với trẻ em.
Khái niệm “hành vi khiêu dâm” là hành vi dùng cử chỉ, hành động, hình ảnh, âm thanh gây kích thích ham muốn tình dục của người khác. Các hình thức của khiêu dâm bao gồm: mô tả bộ phận sinh dục, khoả thân, mô tả khoả thân hoặc không khoả thân nhưng kích thích tình dục, mô tả nhu cầu tình dục, thủ dâm dưới mọi hình thức.

Thứ hai, cần sớm có kế hoạch đào tạo về trình độ tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi cho cán bộ điều tra, kiểm sát viên, thẩm phán để giải quyết các vụ án có liên quan đến người chưa thành niên trong đó có nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em; thường xuyên tổ chức việc trao đổi, rút kinh nghiệm trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về xâm hại tình trẻ trong liên ngành tư pháp. Đồng thời, quan tâm sắp xếp các cán bộ theo hướng chuyên sâu, có tính ổn định theo từng lĩnh vực công tác.

Thứ ba, liên ngành các cấp cần chủ động xây dựng Quy chế phối hợp với các cơ quan, đơn vị hữu quan, trong công tác giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em như chủ động phối hợp để xác minh, điều tra, xử lý từng trường hợp trẻ em bị xâm hại, trong đó quy định rõ các thủ tục, quy trình và trách nhiệm phòng ngừa, phát hiện, tố giác, trợ giúp và giải quyết các trường hợp trẻ em bị xâm hại của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, nhà trường, gia đình, cá nhân và trẻ em.

Đối với công tác đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm xâm hại tình dục trẻ em cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về giới, về tình dục, về quyền của phụ nữ và trẻ em một cách sâu rộng, có trọng tâm, trọng điểm để các nạn nhân, gia đình nạn nhân hiểu và nhận thức đầy đủ quyền của mình để đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật này phải có kế hoạch, chương trình cụ thể, trong đó chú trọng đến việc lồng ghép nội dung truyền thông vào trong sinh hoạt của thôn, ấp, tổ dân phố; trong sinh hoạt ngoại khóa của các cấp học và sinh hoạt chuyên đề của các tổ chức, đoàn thể các cấp… Đặc biệt là việc quan tâm quản lý, chăm sóc, giáo dục trẻ em, nhất là những em có hoàn cảnh đặc biệt, có nhiều khả năng bị xâm hại.

Hai là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảo vệ trẻ em bằng các biện pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức cảnh giác, phát hiện sớm, tự phòng ngừa các hoạt động xâm hại tình dục và hỗ trợ tư vấn pháp lý khi cần thiết. Khi bị xâm hại tình dục, nạn nhân và gia đình phải trình báo ngay cho cơ quan Công an để được hỗ trợ tư vấn, giải quyết, tránh để lọt tội phạm…

Ba là, nâng cao vai trò, trách nhiệm của cha mẹ và người thân để tránh những sự việc đau lòng do tội phạm xâm hại tình dục gây nên, cha mẹ cần thường xuyên quan tâm, chia sẻ với con em mình để nhận thấy những thay đổi tâm, sinh lý cần thiết. Bên cạnh đó, do khả năng nhận thức và tự bảo vệ của trẻ em còn nhiều hạn chế nên các em có nguy cơ bị lạm dụng, xâm hại tình dục cao. Vì vậy, cha mẹ cũng cần phải trang bi cho con cái biết cách thức phòng vệ trước những đối tượng có ý định thực hiện hành vi đồi bại.

Bốn là, chủ động xác minh, nắm tình hình, diễn biến hoạt động của tội phạm xâm hại tình dục trẻ em, có kế hoạch phòng ngừa, ngăn chặn và quản lý chặt chẽ số lượng thanh thiếu niên chậm tiến, có tiền án, tiền sự, các băng nhóm trên địa bàn là những đối tượng có nguy cơ phạm tội xâm hại tình dục. Đồng thời, nâng cao hiệu quả công tác điều tra, xử lý tội phạm xâm hại tình dục trẻ em kết hợp với công tác đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật trong thanh thiếu niên, học sinh và vận động nhân dân tố giác kịp thời các hành vi xâm hại tình dục trẻ em. Đối với người phạm tội cần xử lý nghiêm minh, kịp thời đúng pháp luật, kiên quyết đấu tranh không để lọt tội phạm. Tổ chức tốt các phiên tòa lưu động đối với các vụ án xâm hại tình dục trẻ em nhưng phải đảm bảo thuần phong mỹ tục.
Có thể nói công tác đấu tranh phòng chống xâm hại tình dục trẻ em không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan chức năng mà thuộc về mọi gia đình, nhà trường và toàn xã hội./.

đánh giá bài viết

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Nếu cần BQT hỗ trợ gấp, vui lòng liên hệ hotline 1900.0164 bấm phím 0.