Trong thời gian gần đây, thông qua Tổng đài Tư vấn Pháp luật Trực tuyến 1900.6512 của Công ty Tư vấn Luật DFC, Chúng tôi – Đội ngũ Chuyên viên pháp lý tư vấn pháp luật về lĩnh vực thừa kế đất đai dưới sự tin tưởng của Quý khách hàng và bạn đọc đã gửi nhiều ý kiến thắc mắc, câu hỏi liên quan. Đặc biệt liên quan đến chủ đề tư vấn luật đất đai về quy định về luật cấp sổ đỏ. Trong đó, có một số tình huống chúng tôi xin giải đáp sau đây:
>>> Xem thêm: DFC công ty tư vấn luật thừa kế đất đai
Tình huống 01: Luật sư tư vấn tiêu chuẩn mức đất được cấp sổ đỏ ở Hà Nội
Chị Lê Thị D (24 tuổi) có một câu hỏi gửi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6512 như sau: “Bố và mẹ tôi có sinh được 02 người con gồm: anh trai của tôi – Lê Văn K (37 tuổi) và tôi – Lê Thị D (24 tuổi). Bố tôi mất năm 2013, hai năm sau thì vào năm 2015 thì mẹ tôi cũng mất. Trước khi mất, cả bố và mẹ tôi không có để lại di chúc gì cho hai anh em. Trong đó, có một diện tích đất thổ cư có diện tích là 200m2 đứng tên trong Sổ đỏ là tên của bố và mẹ tôi có địa chỉ ở phường X, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Tôi và anh trai tôi có thỏa thuận thống nhất bằng văn bản để cho anh trai tôi được chia 172m2 và diện tích còn lại sẽ thuộc về tôi – tức 28 m2 còn lại. Năm 2019, tôi có nhu cầu ra Ủy ban Nhân dân phường làm Sổ đỏ với 28m2 diện tích được chia như trên nhưng xã từ chối làm việc này. Vậy theo quy định của pháp luật thì tôi làm thế nào để được cấp Sổ đỏ? Tôi xin chân thành cảm ơn.
Trả lời: Chúng tôi – Đội ngũ Chuyên viên tư vấn luật đất đai về quy định mới về cấp sổ đỏ của Tổng đài tư vấn Pháp luật 1900.6512 đã nhận được câu hỏi từ bạn và xin giải đáp thắc mắc của bạn như sau:
Trước tiên, theo như những thông tin bạn cung cấp. Ba và má bạn mất đều không để lại di chúc. Theo như quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành về thừa kế, trường hợp không để lại di chúc thì sẽ chia theo pháp luật và sẽ chia đều cho các đồng thừa kế. Tuy nhiên, bạn và anh trai bạn đã thỏa thuận bằng văn bản rằng sẽ để anh trai bạn được hưởng diện tích đất là 172 m2 và bạn là 28m2. Điều này không có gì là sai và hoàn toàn có thể chấp nhận được.
Căn cứ vào Luật Đất đai năm 2013, việc một mảnh đất ít nhất được tách làm hai thửa mới thì phải có thủ tục sang tên đổi chủ cho diện tích được tách mới ấy. Hơn nữa, bạn không thể là Sổ đỏ trong trường hợp này bởi lý do theo quy định của pháp luật đất đai thì tùy theo từng địa phương thì diện tích tối thiểu để làm Sổ đỏ là khác nhau.
Theo như thông tin bạn cung cấp, bạn được hưởng 28m2 đất nhưng không thể làm Sổ đỏ vì theo Quyết định 20/2017/QĐ-UBND về hạn mức giao đất và công nhận quyền sử dụng đất tại Hà Nội thì diện tích tối thiểu để là Sổ đỏ là 30m2. Do đó, trong trường hợp này, bạn nên thỏa thuận với anh trai của bạn xin anh 02m2 để đủ 30m2 tiêu chuẩn làm Sổ đỏ.
Tình huống 02: Luật sư tư vấn việc ghi tên vợ và chồng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Anh Trương Quang L (25 tuổi) có một câu hỏi gửi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6512 như sau: “Tôi và vợ kết hôn từ năm 2015 có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, vào năm 2018 chúng tôi có mua một mảnh đất từ một người bạn có giá trị 1,5 tỷ đồng. Năm 2019, tôi và vợ có đưa nhau ra Ủy ban Nhân dân có thẩm quyền yêu cầu xin cấp Sổ đỏ nhưng vợ tôi chỉ muốn một mình tên của vợ mà không muốn có tên tôi trong đó. Tôi không biết vợ của tôi làm vậy có ý gì nhưng không biết pháp luật quy định như thế nào về quyền lợi của tôi đối với mảnh đất đó. Tôi xin chân thành cảm ơn!”
Trả lời: Chúng tôi – Đội ngũ Chuyên viên tư vấn luật đất đai về quy định về luật cấp sổ đỏ của Tổng đài tư vấn Pháp luật 1900.6512 đã nhận được câu hỏi từ bạn và xin giải đáp thắc mắc của bạn như sau:
Trước tiên, căn cứ vào Điều 33 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì tài sản chung của vợ chồng về quyền sử dụng đất như sau: “Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.” Theo như thông tin bạn cung cấp, bạn đã cùng vợ mình mua mảnh đất trong thời kỳ hôn nhân, dó đó đây là tài sản chung của hai người và bạn ngang quyền với vợ trong việc thực hiện các quyền lợi của người sử dụng đất đối với mảnh đất đó.
Căn cứ vào Khoản 4 Điều 98 của Luật Đất đai năm 2013 thì : “Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung
của vợ và chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người.”
Do đó, trong trường hợp này, để tránh những rủi ro không cần thiết thì bạn nên ghi tên mình cùng vợ trong Sổ đỏ. Nếu anh vẫn muốn chỉ để mình tên vợ ở Sổ đỏ thì phải có sự thỏa thuận bằng văn bản giữa hai người.
Tình huống 03: Luật sư tư vấn việc làm sổ đỏ thông qua văn bản tặng cho quyền sử dụng đất
Ông Nguyễn Văn D (57 tuổi) có gửi một câu hỏi thắc mắc về quy định cấp Sổ đỏ qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900.6512 như sau: “Tôi có một người con gái không may qua đời vì căn bệnh hiểm nghèo vào năm 2018. Trong rất nhiều di sản mà con tôi để lại có một mảnh đất có diện tích 103.4 m2, đây là mảnh đất của vợ tôi – bà H đã tặng cho con gái tôi làm của riêng khi con gái tôi lập gia đình. Trước khi mất, con gái tôi có giấy viết tay tặng mảnh đất có diện tích trên cho tôi. Tuy nhiên, con rể tôi – tức chồng của con gái đã mất của tôi không chấp nhận điều này.Tôi được biết mảnh đất này không được con gái tôi nhập vào tài sản chung của hai vợ chồng lúc nó còn sống. Vậy, tôi xin hỏi Luật sư liệu tôi có thể làm Sổ đỏ đối với mảnh đất trên đứng tên tôi được không?”
Trả lời: Chúng tôi – Đội ngũ Chuyên viên tư vấn luật đất đai về quy định về cấp sổ đỏ của Tổng đài tư vấn Pháp luật 1900.6512 đã nhận được câu hỏi từ bạn và xin giải đáp thắc mắc của bạn như sau:
Theo như những thông tin được ông cung cấp, căn cứ vào Điều 33 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì “quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.” Hơn nữa lúc sinh thời, chị không nhập mảnh đất này vào tài sản chung của vợ và chồng nên toàn quyền quyết định mảnh đất ấy thuộc về chị.
Năm 2018, chị trước khi mất có để lại giấy viết tay tặng cho ông mảnh đất này là hợp lí, không có gì sai và thậm chí người chồng của chị không có quyền lợi gì với mảnh đất trên. Căn cứ vào điểm c, Khoản 1, Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 thì ông hoàn toàn có thể làm Sổ đỏ đứng tên ông bởi hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
Điều 100. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
…
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;
…
Trên đây là nội dung tư vấn của luật sư tư vấn pháp luật làm Sổ đỏ theo quy định của pháp luật. Nếu có vấn đề gì thắc mắc hoặc cần giải quyết, xin vui lòng liên hệ với Chúng tôi qua Tổng đài Trực tuyến 1900.6512 để được giải đáp. Trân trọng!
Để lại một phản hồi