Hoàn thiện quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự

Chuyên mụcLuật tố tụng hình sự, Thảo luận pháp luật Bộ luật Tố tụng hình sự

Tóm tắt: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung một số quy định về giám đốc thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên, một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về giám đốc thẩm liên quan đến đối tượng, căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm và thẩm quyền của hội đồng giám đốc thẩm vẫn còn có những hạn chế nhất định. Do đó, để đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, việc sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục giám đốc thẩm là cần thiết.

 

Abstract: The Criminal Procedure Code of 2015 made improvements to a number of provisions on cassation formerly in the Criminal Procedure Code of 2003. However, some provisions of the Criminal Procedure Code of 2015 on cassation related to the subjects, the grounds for reviews of the cassation and the jurisdiction of the cassation review panel still have certain shortcomings. Therefore, to meet the practical requirements, it is are necessary for the amendment of a number of provisions of the criminal procedure law on cassation.

 

Hoàn thiện quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự

  1. Những hạn chế, bất cập trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục giám đốc thẩm
  2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục giám đốc thẩm

Bộ luật Tố tụng hình sự

1. Những hạn chế, bất cập trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục giám đốc thẩm

1.1 Đối tượng của giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự 

Việc xác định đúng đối tượng giám đốc thẩm sẽ đảm bảo cho hoạt động giám đốc thẩm được chính xác, hiệu quả và có giá trị. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (Bộ luật Tố tụng hình sự 2015) không có điều luật cụ thể về đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm mà chỉ quy định chung về tính chất của giám đốc thẩm: “giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật…”[1].

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thì các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bao gồm:

– Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị[2];

– Toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị nhưng người kháng cáo và Viện kiểm sát kháng nghị rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị và Toà án cấp phúc thẩm (Thẩm phán trước khi mở phiên toà, Hội đồng xét xử tại phiên toà) ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm[3];

– Trong trường hợp người kháng cáo rút một phần trong kháng cáo của mình hoặc có nhiều người kháng cáo, nhưng có người rút kháng cáo, có người không rút kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị trong kháng nghị của mình, nếu Toà án cấp phúc thẩm không xem xét các phần có kháng cáo, kháng nghị đã bị rút; thì những phần của bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị[4];

– Bản án phúc thẩm, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án, ra quyết định[5];

Đối với các quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn chưa có quy định cụ thể những quyết định nào là đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm.

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ thời điểm nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án, Tòa án ra nhiều quyết định tố tụng khác nhau, chẳng hạn, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là các quyết định phân công hoặc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên, Thư ký; quyết định tạm giam; quyết định bắt, tạm giam; quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn; quyết định áp dụng, đình chỉ biện pháp bắt buộc chữa bệnh; quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, quyết định trưng cầu giám định; quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định trả hồ sơ vụ án (để truy tố theo thẩm quyền); quyết định đình chỉ vụ án; quyết định phục hồi vụ án; quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, trong quá trình xét xử sơ thẩm, phúc thẩm là quyết định hoãn phiên tòa; quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm; quyết định tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ vụ án; quyết định phục hồi vụ án; quyết định hoãn phiên tòa; quyết định giải quyết việc kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; quyết định về việc giải quyết kháng cáo quá hạn;… sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, Tòa án có thể ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm. Những quyết định này do nhiều chủ thể khác nhau ban hành, có thể là Thẩm phán, Phó Chánh án, Chánh án, Hội đồng xét xử, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm… nhưng đều là những quyết định có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, trong các nghiên cứu về giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự còn có nhiều quan điểm khác nhau về việc xác định quyết định nào là đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm. Qua thực tiễn công tác giám đốc thẩm, một số Kiểm sát viên, Thẩm phán khi báo cáo hoặc trao đổi nghiệp vụ đã cho rằng, tất cả các quyết định có hiệu lực pháp luật do Tòa án ban hành đều là đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm.

Tuy nhiên, việc coi tất cả các quyết định của Tòa án đều là đối tượng của giám đốc thẩm có thể dẫn đến tình trạng kháng nghị tràn lan, không phù hợp với bản chất và mục đích của thủ tục giám đốc thẩm. Bởi vì, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng gồm cả Tòa án ban hành nhiều quyết định tố tụng khác nhau để xác định sự thật vụ án. Có những quyết định mà tính chất, hiệu lực không khác gì nhau, mặc dù được ban hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau, chẳng hạn các quyết định phân công, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn… Các quyết định này nếu tách riêng lẻ thì bản thân từng quyết định không thể giải quyết triệt để vụ án mà chỉ có ý nghĩa trong việc đảm bảo hoạt động chứng minh của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đúng pháp luật, khách quan, toàn diện, đầy đủ và xác định tội phạm, xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội. Các quyết định này chỉ là đối tượng của hoạt động kiến nghị, khiếu nại mà không thể là đối tượng kháng cáo, kháng nghị trong hoạt động xét xử.

Theo chúng tôi, điều kiện cần để một quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án trở thành đối tượng của giám đốc thẩm trước hết là quyết định đó phải có tính chất giải quyết vụ án. Nhưng không phải quyết định nào có tính chất giải quyết vụ án (tạm thời hoặc dứt điểm) cũng có thể coi là đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm, chẳng hạn quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa; quyết định áp dụng, đình chỉ biện pháp bắt buộc chữa bệnh của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án.

Khoản 2 Điều 330 và khoản 2 Điều 453 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm; việc kháng cáo, kháng nghị quyết định của Tòa án về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh được thực hiện như đối với quyết định sơ thẩm. Như vậy, nếu các quyết định này không bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm thì sẽ trở thành quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, trong trường hợp chưa có quyết định đưa vụ án ra xét xử, đối tượng của các quyết định này đều là bị can. Trong các quyền của bị can quy định tại khoản 2 Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì bị can không có quyền kháng cáo. Quy định như hiện nay là có sự mâu thuẫn giữa các điều luật, không phù hợp với các nguyên tắc của tố tụng hình sự và bản chất của xét xử. Vì vậy, các quyết định này chỉ nên quy định là đối tượng của khiếu nại như các quyết định tương tự của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát.

Do đó, điều kiện để các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án trở thành đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm là:

– Phải được quyết định bởi Hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm.

– Các quyết định này phải giải quyết định nội dung thực chất của vụ án.

– Phải là quyết định giải quyết cuối cùng, dứt điểm đối với vụ án đó.

– Phát sinh hiệu lực pháp luật.

Về giới hạn đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có những điểm giống với Bộ luật tố tụng hình sự 1988, mặc dù không giới hạn đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm nhưng lại bị ràng buộc bởi khoản 4 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) năm 2014, “quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị”. Quy định này của Luật Tổ chức TAND năm 2014 không phù hợp với tinh thần của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, nhất là khi Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã dành một chương XXVII để quy định thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao. Vì vậy, đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm cần bao gồm cả quyết định giám đốc thẩm và tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, đặc biệt trong trường hợp vì lợi ích pháp luật, cần phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để đảm bảo việc áp dụng pháp luật chính xác, thống nhất hoặc trường hợp minh oan cho người bị kết án.

1.2 Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại Điều 371 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong ba căn cứ sau:

Thứ nhất, kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án.

So sánh với quy định trước đây, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã quy định cụ thể chủ thể của quyết định, bản án bị kháng nghị giám đốc thẩm là Tòa án. Quy định mới không làm thay đổi cơ bản nội dung của căn cứ mà chỉ có tính chất làm rõ hơn đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm. Sự bổ sung này là cần thiết để xác định cụ thể đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm phải là các bản án, quyết định của Tòa án.

“Kết luận trong bản án hoặc quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án” là trường hợp Hội đồng xét xử đưa ra những kết luận không đúng với những gì có thật đã xảy ra và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa. Tất cả kết luận của Tòa án được thể hiện trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Các kết luận này bao gồm nội dung vụ án, quan điểm, nhận định, đánh giá của Tòa án về nội dung vụ án, các chứng cứ, tài liệu được sử dụng để chứng minh tội phạm, quyết định về tội danh, hình phạt, mức bồi thường, án phí… Các kết luận của Tòa án căn cứ vào chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được kiểm tra tại phiên tòa. Kết luận trong bản án hoặc quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án có thể xuất phát từ ý chí chủ quan của Hội đồng xét xử. Đó là trường hợp mặc dù các chứng cứ để kết tội bị cáo đã đầy đủ, hợp pháp nhưng Hội đồng xét xử đánh giá không đúng về tội danh, khung hình phạt… đối với bị cáo. Cũng có những trường hợp kết luận không phải của Tòa án nhưng Hội đồng xét xử trích dẫn, sử dụng trong bản án thì vẫn phải coi là kết luận của Tòa án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án. Chẳng hạn trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo bị bức cung, nhục hình nên khai nhận tội. Tòa án sử dụng lời khai nhận tội này làm chứng cứ để buộc tội bị cáo dẫn đến việc kết án không đúng người.

Kết luận không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án có thể do lỗi chủ quan hoặc khách quan. Trường hợp trong quá trình xác định sự thật của vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng có vi phạm pháp luật trong việc thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm thì những kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án sẽ không “phù hợp với các tình tiết khách quan” của vụ án vì các căn cứ để đi đến kết luận đã bị tác động bởi ý thức chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Việc Tòa án đưa ra kết luận mà không đủ chứng cứ hoặc trên cơ sở sử dụng những chứng cứ, tài liệu không bảo đảm tính hợp pháp, không được thu thập theo trình tự, thủ tục được quy định trong luật tố tụng hình sự mới là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm. Ngược lại, nếu như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử không biết được các “tình tiết khách quan” trong quá trình chứng minh tội phạm dẫn đến kết luận không đúng sự thật khách quan của vụ án thì lại là căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Vì vậy, để phân biệt giữa căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm và căn cứ kháng nghị tái thẩm, nên thay đổi cụm từ “tình tiết khách quan” bằng “chứng cứ của vụ án” thì phù hợp và rõ ràng hơn.

Ngoài ra, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chưa quy định cụ thể hoặc hướng dẫn thế nào là “không phù hợp với tình tiết khách quan”. Việc đánh giá vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án mang tính chủ quan, phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm của các chủ thể có thẩm quyền. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc kháng nghị giám đốc thẩm phải rút hoặc không được chấp nhận. Tỷ lệ kháng nghị phải rút hoặc không được Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận trong 10 năm, từ 2009 đến 2018 chiếm 10,2% tổng số kháng nghị giám đốc thẩm. Nghiêm trọng hơn, một số quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm Tòa án cấp dưới bị Hội đồng giám đốc thẩm TAND tối cao hủy để điều tra lại (từ năm 2009 đến năm 2018, có 60/1472 quyết định giám đốc thẩm bị hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại[6]).

Thứ hai, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.

Theo Từ điển Tiếng Việt, thủ tục là “những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để tiến hành một công việc có tính chính thức”[7]. Việc sử dụng thuật ngữ “thủ tục tố tụng” không bao hàm hết những vi phạm pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình chứng minh tội phạm bởi vì ngoài thủ tục tố tụng, luật tố tụng hình sự còn quy định khác về những nguyên tắc của tố tụng hình sự, những quy định chung, thẩm quyền. Nếu vi phạm nghiêm trọng các quy định này cũng có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm, chẳng hạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sai thẩm quyền; khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm)…

Mặt khác, căn cứ này chỉ giới hạn trong việc điều tra, truy tố, xét xử là không đầy đủ. Hoạt động khởi tố vụ án hình sự nếu có vi phạm cũng có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm, chẳng hạn: khởi tố vụ án không có căn cứ; khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại quy định tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự. Trường hợp này, mặc dù Cơ quan điều tra khởi tố không đúng nhưng Viện kiểm sát và Tòa án không phát hiện ra nên vẫn truy tố, xét xử; vi phạm các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự trong hoạt động chứng minh tội phạm…

Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thêm một điều kiện để kháng nghị giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án có “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử” là những vi phạm này “phải dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”. Chúng tôi cho rằng, quy định này là không hợp lý, không đúng với bản chất, ý nghĩa và mục đích của thủ tục giám đốc thẩm.

Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm là vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án, còn căn cứ để kháng nghị tái thẩm liên quan đến việc xác định sự thật của vụ án. Đây là sự khác nhau cơ bản để phân biệt giữa thủ tục giám đốc thẩmthủ tục tái thẩm. Quá trình xác định sự thật của vụ án hình sự là quá trình tiếp cận chân lý. Khi tiếp cận được sự thật, chân lý sẽ được thể hiện trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Trước khi tuyên án bằng bản án, Tòa án phải giải quyết được hai vấn đề chính: (1) làm sáng tỏ những tình tiết của sự việc phạm tội trên cơ sở xem xét tất cả các chứng cứ, tài liệu cần thiết cho việc chứng minh, đánh giá mức độ tin cậy của các chứng cứ, tài liệu này và (2) đối chiếu những tình tiết khách quan đã được làm sáng tỏ với các quy định của pháp luật để đưa ra phán quyết về trách nhiệm của bị cáo. Pháp luật tố tụng hình sự đảm bảo các chứng cứ, tài liệu được thu thập để chứng minh tội phạm khách quan, tin cậy. Nếu người tiến hành tố tụng vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án thì những chứng cứ, tài liệu thu thập được không còn đảm bảo tính khách quan. Có thể vi phạm không làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án nhưng nếu có vi phạm thì bản án, quyết định của Tòa án cũng không xác định được sự thật khách quan của vụ án. Mặt khác, nếu vi phạm không được khắc phục thì cũng không thể kết luận được vi phạm đó có ảnh hưởng tới kết quả giải quyết vụ án hay không. Ví dụ: việc giám định lại không do người giám định khác tiến hành. Mục đích của giám định lại là để đánh giá, so sánh kết quả giám định trước và kết quả giám định sau. Nếu giám định và giám định lại được thực hiện bởi cùng một người thì hai kết quả giám định này không còn đảm bảo tính khách quan, không có giá trị so sánh, đánh giá bởi vì khi có nghi ngờ về kết quả giám định trước mới yêu cầu giám định lại. Việc cho rằng kết quả giám định lại vẫn phản ánh đúng thực tế là không có căn cứ. Cũng có thể sau khi điều tra lại, việc giám định lại lần 2 được tiến hành bởi một người khác, kết quả cũng không có gì thay đổi nhưng nếu không kháng nghị giám đốc thẩm thì cũng không thể xác định được kết luận giám định chính xác để giải quyết vụ án.

Quan điểm cho rằng có vi phạm thủ tục tố tụng nhưng nếu vi phạm đó không làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án thì việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cũng không cần thiết là đã có sự nhầm lẫn giữa mục đích của giám đốc thẩm và mục đích của tái thẩm. Mục đích của thủ tục giám đốc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp trong quá trình giải quyết vụ án, phát hiện những vi phạm pháp luật để khắc phục, bảo đảm tính hợp pháp của các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, nhằm tạo ra sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Trong khi đó, thủ tục tái thẩm đánh giá lại vụ việc thực tế để xác định lại sự thật và kết quả giải quyết vụ án, từ đó minh oan cho người vô tội, tiến hành bồi thường (nếu có), kết án đúng người, đúng tội theo pháp luật.

Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, nếu không quy định hậu quả của những sai lầm, vi phạm là dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án có thể xảy ra tình trạng kháng nghị tràn lan. Tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm đến hậu quả của những vi phạm sẽ bỏ qua rất nhiều những vi phạm nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án mà có những vi phạm xâm phạm các quyền con người cơ bản được Hiến pháp, pháp luật hình sự, tố tụng hình sự bảo vệ như hành vi bức cung, nhục hình. Ngoài ra, nếu tiếp tục quy định như trên, mục đích giải quyết vụ án sẽ được đặt lên trên việc tuân thủ pháp luật, khi đó pháp luật sẽ không được tôn trọng, chỉ tồn tại hình thức.

Thứ ba, có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật.

Căn cứ “có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã khắc phục được những hạn chế của Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Tuy nhiên, phạm vi của căn cứ này là quá rộng vì “quy định của pháp luật” đã bao hàm tất cả các quy định trong các bộ luật, các luật, thông tư, hướng dẫn… khác nhau, bao hàm cả hai căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm nêu trên và các căn cứ kháng nghị tái thẩm. “Căn cứ này bao gồm tất cả những sai lầm trong việc xác định đúng sự việc thực tế đã xảy ra; sai lầm trong việc lựa chọn quy phạm pháp luật trong trường hợp cụ thể; sai lầm trong việc ra văn bản áp dụng pháp luật; sai lầm trong việc tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật cả về nội dung và hình thức, thủ tục tố tụng”[8].

1.3 Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm đã được mở rộng hơn so với Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Cụ thể, ngoài các thẩm quyền: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án, Hội đồng giám đốc thẩm còn có quyền hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy, sửa không đúng pháp luật; sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ xét xử giám đốc thẩm. Mặc dù một số thẩm quyền mới được quy định nhưng đã có những bất cập, cụ thể như sau:

Thứ nhất, thẩm quyền “hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại”.

Theo chúng tôi, không quy định việc hủy bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án để truy tố lại là chưa phù hợp. Có ý kiến cho rằng, truy tố là phần kết thúc của giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nên quy định hủy bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật để điều tra lại đã bao gồm cả truy tố lại. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, truy tố là một giai đoạn độc lập trong tố tụng hình sự. Về bản chất, quá trình điều tra để phục vụ cho việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Giai đoạn này vừa kiểm tra, đánh giá tính đúng đắn, hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra, vừa quyết định có truy tố bị can ra trước Tòa án hay không. Vụ án chỉ được đưa ra xét xử khi Viện kiểm sát quyết định truy tố. Cáo trạng hay quyết định truy tố bị can là cơ sở để Tòa án đưa vụ án ra xét xử và ban hành bản án, quyết định có liệu lực pháp luật. Trên thực tế, có những trường hợp, kháng nghị giám đốc thẩm là do vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong giai đoạn truy tố như truy tố sai thẩm quyền nhưng Tòa án không phát hiện ra, vẫn xét xử và ra bản án, quyết định. Trường hợp này, mặc dù quyết định hủy bản án, quyết định của Tòa án để điều tra lại cũng có thể dẫn đến việc truy tố lại (trừ trường hợp đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án) nhưng việc quyết định điều tra lại không xác định chính xác giai đoạn có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng. Mặt khác, thời hạn điều tra luôn dài hơn thời hạn truy tố. Nếu sai lầm ở giai đoạn truy tố mà phải điều tra lại sẽ dẫn đến việc kéo dài thời gian giải quyết vụ án, cơ quan điều tra phải thực hiện lại những việc đáng lẽ không cần phải làm.

Thứ hai, thẩm quyền “sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật”.

Chúng tôi cho rằng, quy định Hội đồng giám đốc thẩm có thẩm quyền sửa bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là không hợp lý, không đúng với bản chất “phá án” của giám đốc thẩm. Bởi vì giám đốc thẩm không phải một cấp xét xử. Đối tượng của giám đốc thẩm là các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Khi có kháng nghị, Hội đồng giám đốc thẩm sẽ xem xét, đánh giá các bản án, quyết định này có vi phạm pháp luật hay không, mức độ vi phạm như thế nào để đưa ra cách thức giải quyết. Việc khắc phục vi phạm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới không phải là mục đích chính của giám đốc thẩm bởi vì có những trường hợp sai lầm của Tòa án cấp dưới là không thể khắc phục vì hết thời hiệu. Chẳng hạn, trong bản án phúc thẩm của Tòa án có hiệu lực pháp luật, bị cáo bị xử phạt quá nhẹ và cho hưởng án treo không đúng quy định; ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn sai lầm trong việc xác định trách nhiệm dân sự của bị cáo. Hết thời hạn 01 năm, những vi phạm này mới bị phát hiện. Trường hợp này, vi phạm về áp dụng hình phạt của Tòa án là không thể khắc phục.

Việc quy định Hội đồng giám đốc thẩm có thể sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm không chỉ kiểm tra tính hợp pháp của các bán án, quyết định của Tòa án cấp dưới mà còn trực tiếp xét xử về nội dung vụ án, biến giám đốc thẩm thành một cấp xét xử thứ ba, có những đặc điểm gần giống như xét xử phúc thẩm. Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi của Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng cho rằng quy định này “không phù hợp với nguyên tắc chế độ hai cấp xét xử; thậm chí, có thể sẽ làm cho Hội đồng giám đốc thẩm trở thành cấp xét xử thứ ba. Như vậy là không phù hợp với tính chất của xét xử giám đốc thẩm”[9].

Mặt khác, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm bởi vì khi xét xử phúc thẩm, bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị nên chưa có hiệu lực pháp luật. Các bản án, quyết định của Tòa án được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm là các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Các bản án, quyết định này mang tính quyền lực Nhà nước sâu sắc, thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước đối với tội phạm và người phạm tội. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có tính bắt buộc đối với các bên có liên quan và với mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội. Các hành vi cố ý không thi hành án hay cản trở việc thi hành án có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc quy định Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là trái với nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm của Bộ luật tố tụng hình sự và các quy định về bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án.

2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục giám đốc thẩm

2.1 Đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự

Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 theo hướng bổ sung quy định về đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm:

Thứ nhất, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trong đó bao gồm:

– Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;

– Những bản án phúc thẩm.

Thứ hai, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, trong đó bao gồm:

– Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm;

– Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của TAND cấp cao;

– Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao trong trường hợp vì lợi ích pháp luật hoặc minh oan người bị kết án.

2.2 Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Sửa đổi Điều 371 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị khi có một trong các căn cứ sau:

Thứ nhất, kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những chứng cứ của vụ án, cụ thể là:

– Kết luận của Tòa án không được khẳng định bằng các chứng cứ được xem xét tại phiên tòa;

– Hội đồng xét xử đã không cân nhắc đến những chứng cứ có ảnh hưởng cơ bản đến kết luận trong bản án, quyết định;

– Còn tồn tại những chứng cứ đối lập nhau có ý nghĩa quan trọng trong việc ra phán quyết nhưng Tòa án đã chấp nhận một trong các chứng cứ đối lập mà không nêu ra những căn cứ của việc chấp nhận những chứng cứ này và bác bỏ chứng cứ khác;

– Kết luận đã được nêu trong bản án có những mâu thuẫn cơ bản và đã ảnh hưởng hoặc có thể ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề có tội hoặc không có tội của người bị kết án hoặc người được tuyên vô tội, đến việc áp dụng đúng pháp luật hình sự hoặc quyết định mức hình phạt.

Thứ hai, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử.

Thứ ba, có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Dân sự.

2.3 Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm

Để đảm bảo nguyên tắc xét xử hai cấp, đồng thời thể hiện tính chất đặc biệt của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự, nên bỏ quy định tại khoản 5 Điều 388 và Điều 393 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về thẩm quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Hội đồng giám đốc thẩm.

Đối với căn cứ để Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra hoặc xét xử lại, quy định tại Điều 391 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cần được bổ sung theo hướng: hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại, truy tố lại hoặc xét xử lại”./.

THS. NGUYỄN TRUNG KIÊN

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 16 (392), tháng 8/2019


[1] Điều 370 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Điều 343 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[3] Khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự; hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 7.2 mục 7 Phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần “xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự.

[4] Hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 7.2 mục 7 Phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần “xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự.

[5] Khoản 2 Điều 355; khoản 2 Điều 361 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[6] TAND tối cao, Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân từ năm 2009 đến 2018. Nguồn: Vụ tổng hợp TAND tối cao

[7] Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, Nxb. Đà Nẵng. tr.885-886.

[8] Phan Thị Thanh Mai (2017), Một số ý kiến về những điểm mới trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về giám đốc thẩm, Tạp chí Nghề luật (4), Hà Nội, tr.48

[9] Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Báo cáo đánh giá tác động dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), tr.19.

5/5 - (2807 bình chọn)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền