Có nên hay không nên bỏ hình phạt tử hình ở Việt Nam?

Thi hành án tử hình bằng hình thức xử bắn
Ảnh minh họa: Thi hành án tử hình bằng hình thức xử bắn (Nguồn: internet)

Khái niệm hình phạt tử hình

Trong lịch sử lập pháp hình sự của nước ta từ trước tới nay, khái niệm hình phạt lần đầu tiên được quy định tại Điều 26 Bộ luật Hình sự (BLHS). Theo đó: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định.

Hình phạt tử hình là một loại hình phạt truyền thống, có từ lâu đời. Thuật ngữ hình phạt tử hình có tên tiếng Anh là “death penalty” hay là “capital punishment”. Capital có nguồn gốc từ tiếng Latin là capitalis, trong đó có gốc của từ kaput, có nghĩa là đầu. “Capital punishment” có nghĩa là hình phạt mà khi áp dụng, người bị áp dụng sẽ bị mất đầu, tức là tước bỏ quyền sống của một người. Trong tiếng Pháp hình phạt này có tên  “peine de mort” hay còn gọi là “peine capitale”; trong tiếng Đức nó có tên gọi là “todesstrafe”.

Trong Luật Hình sự Việt Nam, tử hình là loại hình phạt đặc biệt và nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt, tước đi quyền sống của người bị kết án và chỉ được áp dụng đối với người phạm tội có tính chất nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội. Hình phạt tử hình được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định.

Có nên hay không nên bỏ hình phạt tử hình ở Việt Nam?

Trong xã hội ngày nay khi mà nhân loại càng tiến bộ, xã hội càng phát triển thì phạm vi áp dụng hình phạt tử hình càng có xu hướng thu hẹp, tiến tới xỏa bỏ hình phạt tử hình. Theo pháp luật các quốc gia còn lưu giữ hình phạt tử hình, thì hình phạt này chỉ thường áp dụng cho các tội phạm có tính nguy hiểm đặc biệt cao, xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng hòa bình thế giới, các tội phạm ma túy, giết người…Vậy ở Việt Nam, hình phạt tử hình, có nên tiếp tục duy trì hay không? Nếu duy trì hình phạt tử hình có vi phạm nguyên tắc nhân đạo không? Vi phạm chuẩn mực quốc tế không? Nếu có duy trì thì có giảm bớt điều luật áp dụng tử hình hay là giữ nguyên?

Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) ra đời thay thế Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là một tất yếu khách quan trước diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm, thể hiện những đổi mới trong đường lối, chính sách phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm của Đảng và Nhà nước ta. Đáng chú ý là đã giảm dần các tội phạm có thể áp dụng hình phạt tử hình, tập trung quy định áp dụng hình phạt tử hình vào các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phạm ma túy, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, các tội phạm quốc tế.

Việc giảm dần các điều luật có quy định hình phạt tử hình đối với các tội trên là hợp lý, thể hiện sự tương xứng giữa chế tài áp dụng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta, phù hợp xu hướng chung trên thế giới thu hẹp dần, tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình.

Xoay quanh vấn đề này trong khoa học pháp lý hình sự của Việt Nam cũng đã ghi nhận và theo đuổi những quan điểm khác nhau trên thế giới về vấn đề bỏ hay duy trì hình phạt tử hình trong luật hình sự.

Cần tiếp tục duy trì hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam

Theo tôi, thì việc tiếp tục duy trì hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự Việt Nam phải trên cơ sở hai yêu cầu đó là phải tương thích với chuẩn mực quốc tế, thứ hai là phải phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu chống tội phạm tại Việt Nam, trong đó yêu cầu thứ hai là quan trọng hàng đầu, điều này lý giải tại sao có quốc gia sau khi xóa bỏ hình phạt từ hình trong một thời gian phải khôi phục lại hình phạt này do tình hình tội phạm gia tăng đột biến.

Thực tế cho thấy nước ta đang phát triển nến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những thành tựu đáng kể mà đất nước ta đạt được kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh những yếu tố tiêu cực, tác động đến mọi mặt của xã hội, trong đó có tội phạm. Đặc biệt thời gian gần đây các tội phạm về an ninh quốc gia vẫn diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch chưa từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng nước ta; các tội phạm về ma túy, tội phạm tình dục, các tội phạm tham nhũng, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe đang có chiều hướng gia tăng cả về quy mô và tính chất, các băng, nhóm tội phạm có tổ chức, hoạt động liên tỉnh, xuyên quốc gia, gây ra nhiều tội phạm đặc biệt nghiêm trọng gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế – xã hội. Đơn cử như vụ án ma túy, vận chuyển trái phép chất ma túy từ Lào về Việt Nam đưa sang Trung Quốc tiêu thụ, xảy ra vào ngày 4/7/2012 tại Sơn La được cho là lớn nhất từ trước đến nay. Trong vụ án này, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy của Bộ Công an đã thu giữ 89 bánh hêrôin và 33.800 viên ma túy tổng hợp, 1 kg ma túy tổng hợp dạng tinh thể. Đối với những vụ án này để phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả thì không thể không duy trì hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt.

Về cơ sở pháp lý

Theo tôi thì việc duy trì hình phạt tử hình cũng không trái pháp luật quốc tế và không vi phạm nhân quyền. Quyền được sống là quyền của mọi con người, mang tính phổ biến không ai có quyền tước đi. Những người ủng hộ quan điểm bỏ hình phạt tử hình dựa vào đó mà cho rằng hình phạt tử hình đã vi phạm quyền này của con người và dựa vào Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966, Nghị định thư không bắt buộc thứ hai của công ước này về việc xóa bỏ hình phạt tử hình (1989) để thiết lập các tiêu chuẩn quốc tế cho việc xóa bỏ hình phạt tử hình. Điều 3 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền nêu “Mọi người đều có quyền sống, tự do và được bảo vệ an toàn”. Ngoài ra Điều 5 quy định: “Không ai có thể phải gánh chịu một hình phạt tàn khốc hoặc làm giảm phẩm giá của con người”.

Theo đó các quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình giải thích rằng việc áp dụng hình phạt tử hình là vi phạm các nội dung nêu trên của tuyên ngôn, đồng nghĩa với việc vi phạm nhân quyền. Tuy nhiên, thực tế không có một đoạn văn nào của tuyên ngôn cụ thể hóa việc làm như thế nào là vi phạm nhân quyền. Do đó nếu dựa vào Điều 3 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, theo các quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình, để khẳng định rằng việc sử dụng hình phạt tử hình là vi phạm nhân quyền thì thật vô lý. Bởi vì, nếu tử hình một ai đó tức là vi phạm nhân quyền thì chúng ta cũng phải xóa bỏ các trại giam, nhà tạm giữ, trại tạm giam vì khi giam một ai đó cũng vi phạm quyền tự do. Bên cạnh đó dựa theo Điều 5 của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, các quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình cho rằng hình phạt tử hình nên được xóa bỏ vì đó là một hình phạt tàn khốc nhất, vô nhân đạo, hạ thấp phẩm giá con người. Đây là sự đánh giá mang tính phiến diện, vì Điều 5 của Tuyên ngôn không có sự giải thích và áp dụng trong những trường hợp cụ thể nào được coi là vô nhân đạo, hạ thấp phẩm giá con người. Do đó không thể giải thích là hình phạt tử hình hoàn toàn có nội dung tàn khốc và hạ thấp phẩm giá con người.

Việt Nam là thành viên của công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị từ năm 1966. Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 6 của công ước quy định: “Ở những quốc gia chưa xóa bỏ hình phạt tử hình thì chỉ được phép áp dụng đối với những tội nghiêm trọng nhất…”. Điều này cho thấy, công ước thừa nhận ở những quốc gia khác nhau, tùy theo điều kiện cụ thể của mình có thể duy trì hình phạt tử hình. Nhưng hình phạt tử hình phải được áp dụng đối với những người phạm tội nghiêm trọng nhất. Việt Nam đã thực hiện đúng cam kết này. Đối với nghị định thư thứ hai về việc xóa bỏ hình phạt tử hình, thì cũng chỉ mang tính khuyến nghị mà không có tính bắt buộc cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Như vậy việc tiếp tục duy trì hình phạt tử hình ở Việt Nam hiện nay là cần thiết và không trái pháp luật quốc tế.

Về mặt lý luận

Theo tôi thì hình phạt tử hình không trái với nguyên tắc nhân đạo. Hình phạt tử hình là nghiêm khắc nhất, tước đi quyền sống của người phạm tội. Đây là hình phạt chỉ có tác dụng trừng trị mà không có ý nghĩa cải tạo, giáo dục người phạm tội. Cũng vì thế các quan điểm chống lại hình phạt tử hình thường chỉ trích rằng nó vô nhân đạo đối với người phạm tội. Chúng ta cần phải hiểu rằng tính nhân đạo của pháp luật biểu hiện ở sự dung hòa lợi ích của xã hội và lợi ích của người phạm tội. Việc đề cao lợi ích của người phạm tội mà quên đi lợi ích của toàn xã hội không thể xem là thỏa mãn nguyên tắc nhân đạo của pháp luật.

Một người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây thiệt hại đặc biệt cho xã hội và còn tiếp tục đe dọa đến sự an toàn của xã hội thì việc nhân đạo đối với họ chính là vô nhân đạo đối với toàn thể cộng đồng xã hội.

Đứng ở góc độ xã hội, cần phải có một hình phạt nghiêm khắc hơn đó là hình phạt tử hình để đảm bảo mục đích phòng ngừa của hình phạt. Như vậy, hình phạt tử hình đã thể hiện tính nhân đạo một cách tương đối thông qua khía cạnh xã hội là loại bỏ mối đe dọa nguy hiểm cho xã hội, răn đe và giáo dục người khác không phạm tội hay từ bỏ ý định phạm tội.

Hình phạt tử hình góp phần nâng cáo phẩm giá con người, đảm bảo chất lượng cuộc sống và đảm bảo an toàn xã hội. Nâng cao phẩm giá của con người cũng chính là lý do được quan điểm chống lại hình phạt tử hình viện dẫn cho việc xóa bỏ hình phạt này. Quan điểm này cho rằng việc áp dụng hình phạt tử hình là sự không tôn trọng phẩm giá con người khi đã tước đi quyền sống của một con người, là một hình phạt mang tính chất nhục hình. Chúng ta phải xác định rằng bảo vệ phẩm giá của con người ở đây là của người bị hại và của cả cộng đồng, tội phạm đang diễn ra hết sức phức nghiêm trọng, nhất là đối với tội phạm về tham nhũng, ma túy, hiếp dâm, giết người, cướp tài sản. Trong những vụ phạm tội này, người phạm tội đã gây thiệt hại hàng nghìn tỉ đồng cho Nhà nước từ các vụ tham nhũng, nhiều gia đình tan nát vì vướng phải ma túy, nhiều trẻ em bị khủng hoảng suốt đời vì bị hiếp dâm… Trong trường hợp đó, vai trò của pháp luật là bảo vệ và nâng cao phẩm giá của người bị hại và của cả cộng đồng chứ không phải giữ gìn và nâng cao phẩm giá của người phạm tội và hình phạt tử hình sẽ làm tốt được điều này.

Mặt khác trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay, khi mà tội phạm còn tồn tại và tỏ ra đặc biệt nguy hiểm, đe dọa đến cuộc sống yên bình của bất kỳ thành viên nào trong xã hội thì hình phạt tử hình tồn tại là rất hiệu quả. Chúng ta hãy hình dung đối với một người phạm tội đặc biệt nguy hiểm nhưng không bị áp dụng hình phạt tử hình. Ở trong trại giam, người này có thể đe dọa về tính mạng cho những phạm nhân khác. Đó là chưa kể người này thoát khỏi sự kiểm soát của trại giam, cả cộng đồng đặt trong một tình trạng cực kỳ nguy hiểm. Kể cả khi người phạm tội chấp hành xong hình phạt (tù chung thân mà được giảm án), và một ngày họ sẽ được trở về. Khi đó những người từng làm chứng chống lại họ, những đối thủ của họ, thậm chí cả những người đã từng xét xử họ… sẽ không có được cuộc sống yên ổn vì lo âu, sợ hãi, sợ một ngày nào đó bị trả thù. Do đó, hình phạt tử hình được xem là điều kiện tốt để mang lại một cuộc sống có chất lượng và an ninh cho toàn xã hội. Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới cho thấy, khi các điều kiện chưa cho phép thì không nên nghĩ đến việc xóa bỏ hình phạt tử hình. Bởi vì, sau khi xoá bỏ hình phạt tử hình, họ phải khôi phục lại hình phạt tử hình nhằm trấn áp, răn đe tội phạm vốn chưa được kiểm soát nay có điều kiện phát triển bởi không còn sợ nguy cơ bị xử phạt tử hình.

Ngoài ra hình phạt tử hình đảm bảo mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm của hệ thống hình phạt. Hiện nay quan điểm bỏ hình phạt tử hình cho rằng việc duy trì hình phạt tử hình không có tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm mà thậm chí còn làm tăng tội phạm. Chúng ta đều biết, tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm của hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng phụ thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia như: Kinh tế, văn hóa, trình độ dân trí, ý thức pháp luật của người dân…Ở những quốc gia cho rằng hình phạt tử hình không làm giảm tội phạm đa số các quốc gia có nền kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao, ý thức pháp luật cao. Trước khi xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật, đã có một thời gian dài họ không hề áp dụng hình phạt tử hình trên thực tế. Do đó, việc họ còn duy trì hay xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật đã không còn ý nghĩa đến sự tăng hay giảm tội phạm. Trong khi ở Việt Nam, nền kinh tế vẫn còn đang phát triển, trình độ văn hóa chưa cao, ý thức pháp luật vẫn còn rất kém. Việc chạy theo xu thế của nước các nước phát triển để xóa bỏ hình phạt tử hình là chưa thể làm ngay được.

Dựa trên số liệu thống kê về tình hình tội phạm qua các năm để kết luận rằng dù có duy trì hình phạt tử hình thì tội phạm vẫn tăng và do đó hình phạt tử hình là không cần thiết là sai. Chúng ta phải đặt câu hỏi rằng, trong khi luật còn duy trì hình phạt tử hình mà tội phạm vẫn càng tăng như thế, nếu hình phạt tử hình được xóa bỏ thì tội phạm sẽ tăng như thế nào?

Phải thừa nhận rằng, hiện nay ở nước ta, nhiều người phạm tội vẫn có biểu hiện hết sức nghiêm trọng, ngoan cố, bất chấp tất cả hậu quả, dù đó là cái chết. Đối với những người đó, nếu không loại khỏi xã hội thì khả năng nguy hiểm là rất cao. Như thế mục đích phòng ngừa của hình phạt sẽ không đạt được. Người phạm tội dù tàn ác, ngoan cố đến đâu vẫn còn có lý trí để suy nghĩ và cân nhắc trước khi phạm tội về những vấn đề khi phạm tội mình được gì, cái giá phải trả cho việc phạm tội, khả năng thành công trong việc thực hiện tội phạm, khả năng trốn tránh pháp luật… Nếu cái giá phải trả càng thấp so với việc phạm tội đạt được thì khả năng thực hiện ý định phạm tội càng cao. Nhiều người phạm tội thổ lộ do nghĩ đến việc bị tử hình nên hành vi phạm tội được dừng lại và không tiếp diễn nghiêm trọng hơn.

Trên cơ sở phân tích như trên thì việc tiếp tục duy trì hình phạt tử hình ở Việt Nam là cần thiết khách quan và không trái với chuẩn mực quốc tế.

Danh mục tham khảo:

  • Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009)
  • Bàn về hình phạt tử hình – Tạp chí pháp luật dân chủ
  • Những điều cần biết về hình phạt tử hình – Nhà xuất bản Lao động – Xã hội
  • Một số ý kiến đóng góp khác trên Chuyên trang HLO

 


Các tìm kiếm liên quan đến vì sao việt nam không bỏ án tử hình: không nên bỏ án tử hình, nên bỏ hình phạt tử hình, duy trì án tử hình, co nen bo hinh phat tu hinh khong, hình phạt tử hình ở việt nam hiện nay, tại sao nên duy trì án tử hình, mục đích của hình phạt tử hình, có nên bỏ hình phạt tử hình không, hình phạt tử hình là cách duy nhất để ngăn chặn bọn tội phạm, nghị định thư xóa bỏ hình phạt tử hình, hình phạt tử hình trong luật hình sự việt nam

đánh giá bài viết

Phản hồi

  1. Tôi nghĩ ko lên duy trì án tử hình , án tử hình ở VN tuy chỉ áp dụng với những loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng , nhưng án tử hình ko phải là hình phạt hiệu quả và duy nhất để răn đe tội phạm .Trên thực tế dù có áp dụng hình phạt tử hình thì tội phạm đặc biệt nghiêm trọng vẫn ko có dấu hiểu giảm đi mà vẫn xảy ra , thậm chí có phần nghiêm trọng hơn . Bỏ án tử hình sẽ thể hiện tính nhân đạo và đảm bảo quyền đc sống của con người .

  2. Tôi đồng ý với cách phân tích của tác giả. Việc bỏ hình phạt tử hình không phải là chuyện đơn giản. Nếu không như dự trù, tức là việc bỏ án tử hình gây ra nhiều hệ lụy thì lúc đó có thể nói con đường quay về vạch xuất phát là vô cùng khó khăn.

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền