Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo quy định Luật Doanh nghiệp 2014

Chuyên mụcLuật doanh nghiệp, Thảo luận pháp luật Công ty cổ phần

Tóm tắt: Khác với cơ cấu tổ chức theo hướng đơn giản, tinh gọn của các loại hình công ty đối nhân, cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần khá phức tạp. Bởi lẽ, công ty cổ phần là loại hình công ty có sự tham gia của rất nhiều thành viên nên cần có cơ chế kiểm soát và phối hợp chặt chẽ để đảm bảo cho công ty hoạt động hiệu quả. Vì vậy, nghiên cứu về cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014, từ đó, chỉ ra một số hạn chế, bất cập và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về công ty này là việc làm cần thiết.

 

Abstract: In difference from the simplified structure of organization of a counterpart company, the organization of a joint stock company is quite more complicated. Joint stock company is the form of company that is often participated by several shareholders and executive persons, it thus is necessary to have control and coordination mechanism a to ensure its effective operation. This article is focused on the studies of the organizational structure of joint stock company under the Enterprise Law of 2014 to point out limitations and shortcomings in the current law and provides recommendations to further improve the regulations on this form of company.

 

1. Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần

So với các loại hình công ty phổ biến hiện nay ở Việt Nam và trên thế giới, công ty cổ phần (CTCP) luôn “có số lượng thành viên rất đông. Có công ty cổ phần có tới hàng vạn cổ đông ở hầu khắp các nước trên thế giới, vì vậy có khả năng huy động vốn rộng rãi nhất trong công chúng để đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau”[1]. Hơn nữa, công ty cổ phần là loại hình công ty “có khả năng mở rộng quy mô vốn thông qua thị trường chứng khoán”[2]. Chính vì thế, vấn đề tổ chức quản lý công ty này luôn rất phức tạp[3]. Pháp luật ở hầu hết các quốc gia đều quy định cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần với sự tham gia của khá nhiều cơ quan như: “Chủ sở hữu (cổ đông); Hội đồng quản trị (HĐQT) hoặc Hội đồng giám sát; Giám đốc điều hành; Ban kiểm soát đối với công ty có số lượng thành viên trên 11 người”[4]. Sự tham gia của các cơ quan này chủ yếu với mục đích quản lý điều hành, duy trì các hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần và mặt khác, còn để giám sát, kiểm tra lẫn nhau nhằm hạn chế việc lạm dụng quyền lực của từng cơ quan.

Luật Doanh nghiệp 2014

Hiện nay, Luật Doanh nghiệp 2014 thiết kế hai mô hình cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần để các cổ đông khi thành lập công ty này có quyền lựa chọn: (i) Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ), hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc/Tổng giám đốc; và (ii) ĐHĐCĐ, hội đồng quản trị (bao gồm các thành viên độc lập và Ban kiểm toán nội bộ); Giám đốc/Tổng giám đốc. Như vậy, có thể nhận thấy, sự khác biệt căn bản giữa hai mô hình tổ chức thể hiện qua việc có hay không sự tham gia của Ban kiểm soát hay Ban kiểm toán nội bộ và thành viên độc lập.

Thứ nhấtmô hình tổ chức của công ty cổ phần có sự tham gia của Ban kiểm soát

Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2014, mô hình này bao gồm các thiết chế: ĐHĐCĐ, hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Giám đốc/Tổng giám đốc. Trường hợp công ty cổ phần có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì không bắt buộc phải có Ban kiểm soát. Thực chất, mô hình này cũng chính là mô hình tổ chức của công ty cổ phần được quy định tại Điều 95 Luật Doanh nghiệp 2005 trước đây. Theo đó, từng cơ quan tại bộ máy tổ chức hoạt động của công ty cổ phần lại có nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể như sau:

Đối với ĐHĐCĐ, có thể nhận thấy, “một trong những đặc điểm của công ty cổ phần là quản lý tập trung thông qua cơ cấu Hội đồng. Về nguyên tắc, cơ cấu tổ chức và phân phối quyền lực trong cơ cấu tổ chức là công việc nội bộ của các nhà đầu tư”[5]. Còn theo quy định tại Điều 135 Luật Doanh nghiệp 2014, ĐHĐCĐ gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết và đây chính là cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất của công ty cổ phần. Về nguyên tắc, “cổ đông không có quyền biểu quyết thì không được tham dự Đại hội đó là cổ đông ưu đãi cổ tức và cổ đông ưu đãi hoàn lại”[6]. Mặc dù vậy, ĐHĐCĐ lại không thường xuyên hoạt động như hội đồng quản trị mà chỉ họp thường niên mỗi năm một lần. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nếu xét thấy cần thiết thì ĐHĐCĐ có thể họp bất thường.

Về hội đồng quản trị, có ý kiến cho rằng, “HĐQT là cơ quan quyền lực mang tính hạt nhân trong công ty cổ phần”[7]. Điều này thể hiện tầm quan trọng và vai trò đặc biệt của hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần. Bởi lẽ, đây chính là cơ quan quản lý của công ty cổ phần và là cơ quan có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty cổ phần nếu không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ[8]. Trên thực tế, hội đồng quản trị là cơ quan chịu trách nhiệm duy trì mọi hoạt động của công ty cổ phần, nên quyền hạn của cơ quan này rất lớn. Theo quy định hiện nay, hội đồng quản trị sẽ có từ 03 đến 11 thành viên và hoạt động trong nhiệm kỳ không quá 05 năm nhưng thành viên có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế[9]. Do chịu trách nhiệm quản lý điều hành mọi công việc quan trọng của công ty cổ phần, nên vai trò, khả năng, trình độ hay đạo đức của từng thành viên hội đồng quản trị rất được đề cao. Về nguyên tắc, các thành viên phải đáp ứng khá nhiều tiêu chuẩn và điều kiện để có thể trở thành thành viên của hội đồng quản trị[10]. Nhìn chung, nếu các thành viên hội đồng quản trị hoạt động cần mẫn và có tinh thần, ý thức trách nhiệm cao với công việc thì công ty và các cổ đông hoặc nhóm cổ đông thiểu số sẽ được hưởng lợi. Ngược lại, nếu như thành viên hội đồng quản trị cấu kết với nhau để chuyên quyền, tư lợi thì sẽ gây ảnh hưởng và thiệt hại rất lớn cho công ty cũng như ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cổ đông hoặc nhóm cổ đông thiểu số. Chính vì vậy, hầu hết các công ty cổ phần hiện nay đều quy định sự tham gia của Ban kiểm soát để kiểm tra, giám sát hoạt động của các thành viên hội đồng quản trị.

Đối với Ban kiểm soát, có thể khẳng định, “trong các công ty cổ phần, đặc biệt là các công ty đại chúng và công ty niêm yết, vai trò của Ban kiểm soát là hết sức quan trọng”[11]. Bởi đây là cơ quan chịu trách nhiệm thường xuyên giám sát mọi hoạt động của hội đồng quản trị và các chức danh lãnh đạo khác của công ty cổ phần. Về nguyên tắc, “Ban kiểm soát là một cơ quan do ĐHĐCĐ bầu ra, có số lượng từ 03 đến 05 thành viên, trong đó, có ít nhất một thành viên là kế toán viên hoặc kiểm toán viên”[12]. Nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu của Ban kiểm soát chính là thực hiện các công việc liên quan đến việc giám sát hoạt động của hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành của công ty cổ phần[13]. Chính vì vậy, Ban kiểm soát phải được quyền tiếp cận mọi thông tin liên quan đến hoạt động của các chủ thể trên. Mặt khác, sau khi đã xem xét, thẩm định các thông tin mà chủ yếu liên quan đến hoạt động tài chính của công ty thì Ban kiểm soát phải có trách nhiệm lập các báo cáo thẩm định và trình ĐHĐCĐ. Ngoài ra, “Ban kiểm soát còn đóng vai trò quan trọng trong việc đề xuất các biện pháp, giải pháp khắc phục, cải tiến để hoạt động quản lý, điều hành công ty đạt được hiệu quả cao nhất… Thế nhưng, ở không ít các công ty, Ban kiểm soát chỉ đóng vai trò hình thức, được chính hội đồng quản trị và các cổ đông lớn dựng lên cho có và hoàn toàn bị vô hiệu hóa, thậm chí còn được xem là lực lượng hậu thuẫn, đứng sau, tiếp tay cho hội đồng quản trị, Tổng giám đốc/Giám đốc dấn sâu vào những hoạt động sai phạm, xâm phạm lợi ích các cổ đông nhỏ lẻ”[14]. Trên thực tế, không ít trường hợp hội đồng quản trị và Ban kiểm soát phối hợp, liên kết với nhau để thao túng mọi quyền lực trong công ty cổ phần.

Đối với các chức danh Giám đốc/Tổng giám đốc, về nguyên tắc, Giám đốc/Tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty cổ phần và chịu sự giám sát cũng như chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị. Luật Doanh nghiệp 2014 cho phép hội đồng quản trị được quyền bổ nhiệm một thành viên trong số họ hoặc thuê người khác làm Giám đốc/Tổng giám đốc của công ty cổ phần[15]. Ngoài ra, “Chủ tịch hội đồng quản trị có thể kiêm nhiệm Giám đốc (Tổng giám đốc) công ty”[16]. Nhiệm kỳ của Giám đốc/Tổng giám đốc sẽ là 05 năm nhưng tương tự thành viên của hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng giám đốc có thể được bổ nhiệm lại và không bị hạn chế về số nhiệm kỳ. Về cơ bản, nhiệm vụ và quyền hạn của Giám đốc/Tổng giám đốc liên quan đến việc quyết định công việc kinh doanh hằng ngày của công ty cổ phần mà các công việc đó không cần phải có quyết định của hội đồng quản trị.

Có thể nói rằng, do bản chất “là loại hình công ty đối vốn, có tư cách pháp nhân, công ty cổ phần được tổ chức quản lý theo cơ chế có sự tách biệt khá rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền quản lý công ty. Quyền quản lý công ty không dàn trải, phân bổ cho các cổ đông mà được tập trung ở bộ máy có tính “chuyên nghiệp”. Các cổ đông nắm quyền sở hữu công ty, có quyền bầu ra bộ máy quản lý công ty nhưng bản thân mỗi cổ đông không phải là người quản lý công ty”[17]. Chính vì vậy, sự tham gia của Ban kiểm soát là rất cần thiết đối với việc giám sát mọi hoạt động của hội đồng quản trị. Tuy nhiên, hoạt động với mô hình này chỉ mới có thể giúp cho Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động của hội đồng quản trị chứ chưa có thể trực tiếp quản lý các thành viên của hội đồng quản trị như mô hình đang áp dụng ở một số nước, như ở Cộng hòa liên bang Đức hiện nay[18]. Vì vậy, quyền hạn của hội đồng quản trị rất lớn và gần như chi phối mọi thiết chế quyền lực khác trong công ty cổ phần.

Thứ hai, mô hình tổ chức của công ty cổ phần có sự tham gia của Ban kiểm toán nội bộ và thành viên độc lập.

So với Luật Doanh nghiệp 2005, “mô hình quản trị công ty này mới được Luật Doanh nghiệp 2014 quy định”[19]. Cụ thể, theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 134 của Luật Doanh nghiệp 2014, công ty cổ phần có mô hình tổ chức bao gồm các thiết chế: ĐHĐCĐ, hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng giám đốc. Trong đó, hội đồng quản trị phải có hai loại thành viên khác nhau đó là thành viên chịu trách nhiệm điều hành mọi hoạt động của công ty (thành viên điều hành); và thành viên độc lập. Ngoài ra, trong mô hình này, còn có sự tham gia của Ban kiểm toán nội bộ và đây là cơ quan trực thuộc của hội đồng quản trị.

So với mô hình cơ cấu tổ chức truyền thống của công ty cổ phần bên trên thì đối với mô hình tổ chức mới này, các vấn đề cơ bản như vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và các quy định khác của các cơ quan ĐHĐCĐ, hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng giám đốc là tương tự như nhau. Tuy vậy, sự khác biệt chỉ thể hiện khi trong cơ cấu tổ chức của hội đồng quản trị còn có thêm sự tham gia của Ban kiểm toán nội bộ và thành viên độc lập. Cụ thể, về cơ bản, nhiệm vụ và quyền hạn của các thiết chế này thể hiện như sau:

Về Ban kiểm toán nội bộ và thành viên độc lập, có thể thấy rằng, “mô hình quản trị thứ hai này không có Ban kiểm soát mà thay vào đó là Ban kiểm toán nội bộ, thành viên độc lập thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện việc kiểm soát đối với việc quản lý, điều hành công ty”[20]. Hiện nay, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định ít nhất 20% số thành viên hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và các thành viên độc lập thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều hành công ty[21]. Về tiêu chuẩn, điều kiện để có thể trở thành thành viên độc lập được quy định tại khoản 2, Điều 151 Luật Doanh nghiệp 2014. Tuy nhiên, về nguyên tắc, thành viên độc lập phải là những người không được nắm giữ bất kỳ chức vụ nào trong công ty cổ phần (ví dụ Chủ tịch hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng giám đốc, Phó Giám đốc/Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng…). Vì có như vậy, thành viên độc lập mới không bị ảnh hưởng, chi phối bởi những lợi ích từ việc đang nắm giữ các chức vụ, quyền hạn trong công ty.

Có thể thấy rằng, mô hình tổ chức thứ hai mặc dù khá mới lạ nhưng đã tạo điều kiện thuận lợi cho công ty cổ phần có thể dễ dàng tổ chức bộ máy quản lý và giám sát. Tuy nhiên, hạn chế rất lớn của mô hình này chính là việc Ban kiểm toán không tách biệt với hội đồng quản trị mà lại là cơ quan phụ thuộc vào hội đồng quản trị. Điều này dễ dẫn đến tình trạng hội đồng quản trị thao túng Ban kiểm toán nội bộ.

Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định trường hợp công ty chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì Chủ tịch hội đồng quản trị hoặc Giám đốc/Tổng giám đốc sẽ là người đại diện theo pháp luật. Trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác thì Chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp có hơn một người đại diện theo pháp luật thì Chủ tịch hội đồng quản trị và Giám đốc/Tổng giám đốc đương nhiên là người đại diện theo pháp luật cho công ty cổ phần[22]. Quy định về đại diện trên được áp dụng cho cả hai mô hình cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần.

Tóm lại, công ty cổ phần có rất nhiều ưu thế để cạnh tranh và khả năng mở rộng quy mô không bị giới hạn. Tuy nhiên, cả hai mô hình cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp 2014 hiện nay, vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế, bất cập và cần có sự nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện.

2. Kiến nghị

Như đã trình bày, theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 135 Luật Doanh nghiệp 2014, ĐHĐCĐ là cơ quan quyền lực cao nhất và trực tiếp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên hội đồng quản trị và Kiểm soát viên. Điều này đồng nghĩa, Ban kiểm soát không có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành việc của hội đồng quản trị. Còn nếu công ty cổ phần hoạt động theo mô hình Ban kiểm toán nội bộ thì đây lại là cơ quan trực thuộc của hội đồng quản trị nên vì thế có thể dẫn đến tình trạng có sự thông đồng, móc nối giữa hội đồng quản trị và Ban kiểm toán nội bộ. Mặc dù vậy, nghiên cứu cho thấy, trái ngược với quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, pháp luật Cộng hòa liên bang Đức hiện quy định Ban kiểm soát mới là cơ quan bầu ra các thành viên của hội đồng quản trị và giám sát hoạt động của cơ quan này[23]. Cụ thể tại Đức, pháp luật luôn đề cao vai trò của Ban kiểm soát trong việc giám sát các hoạt động và thành viên của hội đồng quản trị. Hay nói cách khác, pháp luật Đức quy định cho Ban kiểm soát quyền hạn rất lớn và đây là cơ quan hoàn toàn độc lập với hội đồng quản trị. Điểm thuận lợi của mô hình tổ chức này chính là việc hội đồng quản trị trong quá trình hoạt động phải luôn có tinh thần, ý thức trách nhiệm rất cao vì luôn chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ của Ban kiểm soát. Từ đó, theo chúng tôi, nếu Việt Nam quy định cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần giống như mô hình của Đức hiện nay thì sẽ phù hợp hơn. Bởi lẽ, điều này góp phần mở rộng sự dân chủ, bình đẳng giữa mọi cổ đông và giảm bớt sự tư lợi, chuyên quyền của các cổ đông hoặc nhóm cổ đông lớn. Trên thực tế, các công ty cổ phần của Việt Nam hiện nay đang phát triển theo mô hình của Hoa Kỳ. Tức là, “quyền lực của các công ty tập trung chủ yếu vào các cổ đông lớn và những người quản lý điều hành công ty (managers)”[24]. Mặc dù pháp luật của Việt Nam có quy định ít nhất 20% số thành viên hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập, tuy nhiên, như đã nói, điều này lại đang mâu thuẫn rất lớn vì lẽ những cổ đông hoặc nhóm cổ đông nắm giữ rất ít cổ phần thì rất khó có thể đủ điều kiện để trở thành thành viên của hội đồng quản trị. Vì với nguyên tắc ưu tiên số phiếu bầu, nên thông thường những cổ đông được tham gia vào hội đồng quản trị chủ yếu lại là các cổ đông hoặc nhóm cổ đông lớn. Cho dù các cổ đông lớn này không giữ các chức vụ của công ty và chỉ tham gia vào Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc hội đồng quản trị nhưng ít nhiều họ vẫn mong muốn các điều mang lại lợi ích cho họ hoặc cho nhóm quyền lợi của họ. Vì thế, theo chúng tôi, mô hình Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc hội đồng quản trị rất có thể tiếp tay cho các thành viên đang giữ chức vụ trong hội đồng quản trị dễ dàng thao túng công ty theo hướng có lợi cho họ. Điều này càng làm cho các cổ đông thiểu số sẽ rất khó khăn khi muốn tiếp cận và giám sát hoạt động của hội đồng quản trị. Hơn nữa, có thể dễ dàng nhận thấy, mô hình công ty cổ phần tại Việt Nam hiện nay đang ưu tiên khá nhiều quyền hạn cho hội đồng quản trị. Ngược lại, đã có nhận xét cho rằng, pháp luật Đức với “cơ cấu ba cơ quan của công ty cổ phần hướng tới sự phân chia đồng đều về quyền lãnh đạo và quản lý giữa các cơ quan”[25]. Chính vì vậy, nếu mô hình công ty cổ phần của Việt Nam hoạt động giống như mô hình tại Đức hiện nay thì Ban kiểm sát mới có thể độc lập với hội đồng quản trị và có quyền hạn cần thiết để kiểm tra, giám sát các hoạt động của hội đồng quản trị. Như vậy mới có thể bảo vệ tốt nhất cho các cổ đông hoặc nhóm cổ đông thiểu số./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo điện tử Vneconomy.vn, Ban kiểm soát bị vô hiệu hóa như thế nào?, nguồn truy cập: http://vneconomy.vn/doanh-nhan/ban-kiem-soat-bi-vo-hieu-hoa-nhu-the-nao-20100330111055423.htm , truy cập ngày: 06/4/2019.

2. Friedrich Fubler, Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, Nhà xuất bản Pháp lý.

3. Nguyễn Thị Khế (2007), Pháp luật về tổ chức các hình thức kinh doanh, Nxb. Tư pháp.

4. Nguyễn Thị Lan Hương (2009), Một số so sánh về công ty cổ phần theo Luật công ty Nhật Bản và Luật doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 25 (2009).

5. Lê Học Lâm và Lê Ngọc Đức (2010), Luật Kinh doanh, Nxb. Thống kê.

6. Khoa Luật – Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (1998), Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

7. Phạm Duy Nghĩa (2009), Luật Doanh nghiệp – Tình huống – Phân tích – Bình luận, Nhà Nxb.  Đại học Quốc gia Hà Nội.

8. Nguyễn Như Phát (2011), Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam, Viện Đại học Mở Hà Nội, Nxb.  Công an nhân dân.

9. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp.

10. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp.

11. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật thương mại Việt Nam tập I, Nxb. Công an nhân dân.

12. Lê Minh Toàn (chủ biên 2006), Luật Kinh tế Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia

TS. NGUYỄN VINH HƯNG

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 24 (400), tháng 12/2019


[1] Lê Minh Toàn (chủ biên 2006), Luật Kinh tế Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 215.

[2] Nguyễn Thị Lan Hương (2009), Một số so sánh về công ty cổ phần theo Luật công ty Nhật Bản và Luật doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 25 (2009), tr. 88.

[3] Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật thương mại Việt Nam tập I, sđd, tr. 205.

[4] Lê Học Lâm và Lê Ngọc Đức (2010), Luật Kinh doanh, Nxb Thống kê, tr. 135.

[5] Lê Học Lâm và Lê Ngọc Đức (2010), Luật Kinh doanh, sđd, tr. 135.

[6] Nguyễn Thị Khế (2007), Pháp luật về tổ chức các hình thức kinh doanh, Nxb. Tư pháp, tr. 87.

[7] Phạm Duy Nghĩa (2009), Luật Doanh nghiệp – Tình huống – Phân tích – Bình luận, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 146.

[8] Khoản 1, Điều 149 Luật Doanh nghiệp 2014.

[9] Điều 150 Luật Doanh nghiệp 2014.

[10] Điều 151 Luật Doanh nghiệp 2014.

[11] Báo điện tử Vneconomy.vn, Ban kiểm soát bị vô hiệu hóa như thế nào?, nguồn: http://vneconomy.vn/doanh-nhan/ban-kiem-soat-bi-vo-hieu-hoa-nhu-the-nao-20100330111055423.htm , truy cập ngày 06/4/2019.

[12] Phạm Duy Nghĩa (2009), Luật Doanh nghiệp – Tình huống – Phân tích – Bình luận, sđd, tr. 158.

[13] Điều 165 Luật Doanh nghiệp 2014.

[14] Báo điện tử Vneconomy.vn, Ban kiểm soát bị vô hiệu hóa như thế nào?, tlđd, truy cập 06/4/2019.

[15] Điều 157 Luật Doanh nghiệp 2014.

[16] Lê Học Lâm và Lê Ngọc Đức (2010), Luật Kinh doanh, sđd, tr. 138.

[17] Nguyễn Như Phát (2011), Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam, Viện Đại học Mở Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, tr. 113 – 114.

[18] Friedrich Fubler, Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, Nxb Pháp lý, tr. 47. Tại Đức, Ban điều hành (HĐQT) do Hội đồng giám sát (Ban kiểm soát) cử ra, có nhiệm vụ quản lý và điều hành mọi hoạt động của công ty, chẳng hạn lập kế hoạch kinh doanh, thực hiện các chính sách tài chính, lao động, đại diện công ty trong giao dịch với bên ngoài.

[19] Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam, Tập I, sđd, tr. 212.

[20] Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam, Tập I, sđd, tr. 212 – 213.

[21] Điểm b, khoản 1, Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2014.

[22] Khoản 2, Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2014.

[23] Friedrich Fubler, Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, sđd, tr. 49.

[24] Friedrich Fubler, Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, sđd, tr. 50.

[25] Friedrich Fubler, Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, sđd, tr. 47.

5/5 - (2 bình chọn)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền