Chuẩn bị phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự 2015

chuan-bi-pham-toi

Chuẩn bị phạm tội được quy định tại Điều 14 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

 

Các nội dung liên quan:

 

Chuẩn bị phạm tội là gì?

Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn người phạm tội có hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó. Về nguyên tắc không phải hành vi chuẩn bị phạm tội nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Bình Luận về chuẩn bị phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

Bộ luật Hình sự năm 2015 (Phần thứ nhất), còn gọi là phần chung có 2 điều luật quy định về chế định “chuẩn bị phạm tội”, đó là Điều 14 và Điều 57.

Lúc đầu Điều 14 BLHS năm 2015 quy định:

 

1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm trừ trường hợp quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này.

2. Người chuẩn bị phạm một trong các tội sau đây thì phải chịu trách nhiệm hình sự:

a) Điều 108 (Tội phản bội Tổ quốc); Điều 110 (Tội gián điệp); Điều 111 (Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ); Điều 112 (Tội bạo loạn); Điều 113 (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 114 (Tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Điều 117 (Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Điều 118 (Tội phá rối an ninh); Điều 119 (Tội chống phá cơ sở giam giữ); Điều 120 (Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 121 (Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân);

b) Điều 123 (Tội giết người); Điều 134 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác);

c) Điều 168 (Tội cướp tài sản); Điều 169 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản);

d) Điều 299 (Tội khủng bố); Điều 300 (Tội tài trợ khủng bố); Điều 301 (Tội bắt cóc con tin); Điều 302 (Tội cướp biển); Điều 303 (Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 324 (Tội rửa tiền).

3. Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.

 

Tuy nhiên, sau khi BLHS năm 2015 bị tạm đình chỉ thi hành thì Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 quy định lại trường hợp chuẩn bị phạm tội như sau:

 

1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này.

2. Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.

3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.

 

Theo Điều 14 BLHS đã sửa đổi, bổ sung theo Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015, thì chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm trừ trường hợp quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của BLHS.

So với Điều 17 BLHS năm 1999 thì Điều 14 BLHS năm 2015 bổ sung thêm hành vi “thành lập, tham gia nhóm tội phạm” nhưng lại “trừ trường hợp quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật Hình sự”.

Vấn đề đặt ra là, tại sao nhà làm luật lại trừ 3 trường hợp phạm tội không phải là chuẩn bị phạm tội? Trong khi đó, hành vi thành lập, tham gia nhóm tội phạm thực ra cũng là hành vi “tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm”.

Nhà làm luật trừ 3 trường hợp: “thành lập, tham gia nhóm tội phạm trừ trường hợp quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật Hình sự” lại không phải là trường hợp chuẩn bị phạm tội?

Để hiểu được quy định này, trước hết chúng ta phải xem Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của BLHS là điều luật quy định tội phạm gì ? Từ đó, mới hiểu vì sao nhà làm luật lại trừ 3 trường hợp này không phải là chuẩn bị phạm tội.

Trước hết, Điều 109 quy định “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân được coi  là hành vi khách quan của cấu thành tội phạm này. Chỉ cần “thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” là tội phạm đã hoàn thành (cấu thành hình thức), mà khoa học luật hình sự gọi là (cấu thành cắt xén). Còn đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 113 và điểm a khoản 2 Điều 299 BLHS cũng là hành vi khách quan cấu thành tội phạm nhưng là cấu thành tăng nặng.

Như vậy, ba trường hợp trên không thuộc trường hợp chuẩn bị phạm tội nữa. Tuy nhiên, nếu người phạm tội quy định tại khoản 1 và khoản 3 của Điều 109 và Điều 299  thì vẫn có trường hợp chuẩn bị phạm tội.

Về kỹ thuật lập pháp, quy định như trên tương đối phức tạp, nếu không có kiến thức pháp lý về cấu thành tội phạm, về cấu thành hình thức (cấu thành cắt xén), về các giai đoạn tội phạm thì rất khó hiểu.

 

Bộ luật Hình sự năm 2015 còn liệt kê các tội phạm mà người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội, gồm 25 tội, đó là: Điều 108 (Tội phản bội Tổ quốc); Điều 110 (Tội gián điệp); Điều 111 (Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ); Điều 112 (Tội bạo loạn); Điều 113 (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 114 (Tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Điều 117 (Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Điều 118 (Tội phá rối an ninh); Điều 119 (Tội chống phá trại giam); Điều 120 (Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 121 (Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 123 (Tội giết người); Điều 134, (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 168 (Tội cướp tài sản); Điều 169, các khoản 2, 3 và 4 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 207 (Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả); Điều 299 (Tội khủng bố); Điều 300 (Tội tài trợ khủng bố); Điều 301 (Tội bắt cóc con tin); Điều 302 (Tội cướp biển); Điều 303 (Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 324 (Tội rửa tiền).

 

Như vậy, ngoài 25 trường hợp đã được liệt kê thì đối với các tội phạm khác mà người phạm tội mới chuẩn bị phạm tội thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Riêng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người và Tội cướp tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.

Về lý luận, chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm, nhưng ở giai đoạn này người phạm tội chưa thực hiện hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm, tức là chưa có hành vi xâm phạm đến đối tượng tác động. Ví dụ A chuẩn bị dao để tìm B giết nhưng bị em của A phát hiện nên A không thực hiện hành vi giết B.

Hành vi chuẩn bị phạm tội thường được thể hiện dưới các dạng sau:

Chuẩn bị kế hoạch phạm tội như: Bàn bạc, phân công trách nhiệm cho từng người, kế hoạch tiêu thụ tài sản hay kế hoạch che giấu tội phạm… Dạng chuẩn bị phạm tội này thường xảy ra đối với những tội phạm được thực hiện có đồng phạm hoặc có tổ chức. Tuy nhiên, cũng có trường hợp tội phạm chỉ do một người thực hiện vẫn có sự chuẩn bị kế hoạch phạm tội. Ví dụ A có ý định đầu độc B, tự A đã vạch ra một kế hoạch như mua thuốc độc ở đâu, bỏ thuốc độc vào nước cho B uống như thế nào, sau khi B bị trúng độc thì làm thế nào để che giấu được tội phạm…

– Thăm dò hoặc tìm địa điểm phạm tội, dạng chuẩn bị này chủ yếu đối với các tội xâm phạm sở hữu hoặc xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân. Ví dụ A muốn cướp tài sản tại nhà B, nên A đã nhiều lần đến nhà B thăm dò xem quy luật sinh hoạt của gia đình ra sao để tiến hành cướp tài sản.

– Chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội như: Chuẩn bị xe máy để đi cướp tài sản, chuẩn bị dao để giết người, chuẩn bị thuốc nổ để hủy hoại tài sản, chuẩn bị xăng để đốt nhà, chuẩn bị thuốc mê để làm cho người có tài sản uống nhằm chiếm đoạt tài sản của họ.v.v.

– Loại trừ trước những trở ngại khách quan để thực hiện tội phạm được thuận lợi dễ dàng như: Cho các con đi nghỉ mát để ở nhà giết vợ được dễ dàng…

Như vậy, chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo ra tiền đề (điều kiện) cần thiết cho việc thực hiện tội phạm. Hành vi chuẩn bị phạm tội có một ý nghĩa rất quan trọng đến kết quả của việc thực hiện tội phạm, chuẩn bị càng chu đáo công phu bao nhiêu thì kết quả của việc thực hiện tội phạm càng đạt kết quả bấy nhiêu. Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội được đánh giá và phân biệt thành hai loại: Loại hành vi chuẩn bị phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và loại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mặc dù cả hai loại đều chưa gây ra hậu quả, nhưng tính chất nguy hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội có khác nhau và sự khác nhau đó lại không phụ thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi chuẩn bị mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm mà người đó định thực hiện.

Về lý luận thì chỉ có tội phạm được thực hiện do cố ý (cố ý trực tiếp) thì mới có giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Do đó, sẽ không có hành vi chuẩn bị phạm tội mà tội phạm đó sẽ được thực hiện do lỗi cố ý gián tiếp hoặc do lỗi vô ý.

Theo quy định của Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015, thì những người chuẩn bị phạm một trong các tội phạm đã được liệt kê trong điều luật là bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, có một số điều luật nếu chỉ căn cứ vào hành vi chuẩn bị phạm tội thì cũng chưa biết tội phạm đó đã cấu thành hay chưa, mà phải căn cứ vào tội phạm đã hoàn thành mới biết được. Ví dụ: Có một nhóm người đã chuẩn bị hung khí để gây thương tích cho nạn nhân nhưng vì chưa gây thương tích đã bị bắt thì làm sao biết được tỷ lệ thương tật bao nhiêu mà xác định họ có phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hay không mà truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ? vì tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác là tội phạm cấu thành vật chất, chứ không phải là cấu thành hình thức “cấu thành cắt xén” mà hành vi chuẩn bị phạm tội là hành vi cấu thành tội phạm? Nếu nhà làm luật quy định chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì về lý luận, tội phạm này phải coi là tội phạm có cấu thành hình thức.

Việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp chuẩn bị phạm tội, BLHS năm 2015 cũng có nhiều sửa đổi, bổ sung như:

Nếu khoản 2 Điều 52 BLHS năm 1999 quy định: “Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định”, thì khoản 2 Điều 57 BLHS năm 2015 chỉ quy định: “Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các điều luật cụ thể”. Vậy muốn biết hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các điều luật cụ thể thì lại phải tìm từng điều luật xem điều luật đó có quy định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội hay không? Nếu điều luật nào có quy định trường hợp chuẩn bị phạm tội thì mới áp dụng, còn điều luật nào không quy định chuẩn bị phạm tội thì không được áp dụng.

Ví dụ: Tội hiếp dâm quy định tại Điều 141 BLHS không quy định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội thì dù người chuẩn bị phạm tội hiếp dâm thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 141 BLHS cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị áp dụng hình phạt đối với họ. Tuy nhiên, thực tế có nhiều trường hợp hiếp dâm có nhiều người tham gia (hiếp dâm có tổ chức) có sự chuẩn bị hung khí, địa điểm, phân công vai trò của từng người… lại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, thì đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 thì người phạm tội chuẩn bị phạm tội không phân biệt ở khoản nào của điều luật cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị áp dụng khoản hình phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạm tội tù từ 03 tháng đến 02 năm (khoản 6). Nhiều ý kiến cho rằng, quy định như vậy là chưa thoả đáng, vì khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác có tỷ lệ thương tật đến 30% cũng chỉ có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Trong khi đó, mới chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chưa gây ra hậu quả gì đã bị phạt tù đến 02 năm. Lúc đầu, Điều 134 có cấu thành 7 khoản và khoản 7 của Điều 134 quy định: “Người chuẩn bị phạm tội này (tức tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác không phân biệt khoản nào của điều luật), thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”. Tuy nhiên, sau khi BLHS tạm đình chỉ việc thi hành, thì Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 mới quy định lại đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác chỉ cơ cấu lại 6 khoản và khoản 6 của Điều 134 quy định: “Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.

Trong quá trình thảo luận về dự án BLHS năm 2015, cũng như dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 cũng có ý kiến đề nghị nên giữ lại quy định về trường hợp chuẩn bị phạm tội như quy định tại Điều 17 và Điều 52 BLHS  năm 1999 hoặc bổ sung thêm các trường hợp phạm tội thuộc trường hợp chuẩn bị phạm tội nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trong đó có chuẩn bị phạm Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 134 BLHS. Tuy nhiên, ý kiến này cuối cùng không được chấp nhận.

(Trích bài: Tìm hiểu chế định chuẩn bị phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 2015 của tác giả Đinh Văn Quế, Nguyên Chánh tòa hình sự, Tòa án nhân dân tối cao, TCKS số 20).

5/5 - (1 bình chọn)

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Nếu cần BQT hỗ trợ gấp, vui lòng liên hệ hotline 1900.0164 bấm phím 0.