Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng

Luật sư
Luật sư - Ảnh: hocluat.vn

Quy tắc 9 quy định những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng. Có những việc luật sư không được làm đã được quy định trong pháp luật nhưng về mặt đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, quy tắc này mô tả chi tiết hơn, giúp các luật sư nhận diện và cố gắng tuân thủ tính minh bạch, liêm chính, tạo được sự tin cậy trong quan hệ với khách hàng.

Mục lục:

* Quy tắc 9.1: Nhận, chiếm giữ, sử dụng tiền, tài sản của khách hàng trái với thỏa thuận giữa luật sư và khách hàng.

Như trên đã nêu, trong quan hệ với khách hàng, bên cạnh việc thiết lập thỏa thuận cung cấp dịch vụ pháp lý, trong quá trình hành nghề, luật sư thường có sự giao tiếp mật thiết, thường xuyên với khách hàng. Do có sự tin cậy, trong một số trường hợp, khách hàng có nhờ luật sư giữ hộ tiền, tài sản, chứng từ có giá khác để phòng ngừa bị mất hoặc nhằm xử lý một giao dịch dân sự khác của khách hàng ngoài quan hệ với luật sư. Về nguyên tắc, luật sư nên từ chối hoặc hạn chế việc nhận tiền, tài sản của khách hàng giao ngoài thù lao luật sư. Khi không thể từ chối được, hoặc nhằm thuận tiện trong việc giao dịch khi xử lý công việc, luật sư có thể nhận tiền, tài sản của khách hàng gửi nhờ giữ hộ hoặc đứng tên khi nhận được tiền, tài sản theo quyết định thi hành án. Tuy nhiên, đạo đức, phẩm giá của một luật sư liêm chính là không được lợi dụng lòng tin cậy của khách hàng để nhận, chiếm giữ, sử dụng tiền, tài sản của khách hàng trái với thỏa thuận giữa luật sư và khách hàng.

Ví dụ 6: Rủi ro pháp lý khi đứng tên nhận tiền được thi hành án của khách hàng vào tài khoản cá nhân của luật sư?

Bà T ngụ tại một tỉnh đồng bằng sông Cửu Long cùng những người trong gia đình được chia số tiền thừa kế khoảng 06 tỷ đồng theo bản án phúc thẩm của TANDTC tại TP. HCM. Bà T ủy quyền cho luật sư K thỏa thuận với các đồng thừa kế để chia phần di sản tại Cục Thi hành án dân sự TP. HCM. Theo nội dung vụ án, vào năm 2014, bà T được chia gần 1,4 tỷ đồng, tiền được chuyển vào tài khoản của luật sư K, luật sư đã rút toàn bộ tiền để chi tiêu nhưng vẫn nói với bà T là “chưa thỏa thuận được với các đương sự khác”. Tin tưởng, bà T tiếp tục ký nhiều văn bản thỏa thuận để ông K đại diện cho bà. Đến năm 2016, bà T cho rằng luật sư K lừa dối không chịu trả tiền nên hủy bỏ việc ủy quyền, làm đơn tố cáo gửi Cơ quan điều tra.

Tháng 7/2018, ông K bị TAND tỉnh B xử sơ thẩm lần đầu, tuyên phạt 12 năm tù. Bị cáo kháng cáo kêu oan. Cuối năm 2018, TAND cấp cao tại TP. HCM xử phúc thẩm, tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra xét xử lại do vi phạm tố tụng nghiêm trọng; chưa cho bị cáo tiếp cận hồ sơ; hồ sơ vụ án có nhiều mâu thuẫn, nhiều lời khai của người liên quan chưa được đối chất làm rõ… Quá trình điều tra lại, cơ quan tố tụng tỉnh B giữ nguyên quan điểm và tiếp tục truy tố ông K, cuối năm 2019, TAND tỉnh B xử sơ thẩm lần hai, xác định việc truy tố ông K là đúng người, đúng tội, không oan sai và tuyên phạt 12 năm tù. Ông K tiếp tục kháng cáo kêu oan và sau đó, TAND cấp cao tại TP. HCM dự kiến mở lại phiên tòa phúc thẩm vào ngày 26/11/2020 sau nhiều lần hoãn xử… Việc luật sư K bị vướng vào vòng tố tụng và cho rằng mình bị kết tội oan là một rủi ro phát sinh từ việc luật sư chấp thuận đứng tên nhận tiền của khách hàng vào tài khoản cá nhân của mình.

Ví dụ 7: Vay tiền của khách hàng, bị tố cáo lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản?

Một nữ luật sư tại tỉnh ĐT bị khách hàng của mình tố cáo về hai hành vi lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản do đã lợi dụng việc hành nghề, quen biết và hỏi vay 02 tỷ đồng của khách hàng mà luật sư nhận bảo vệ quyền lợi trong vụ án dân sự với lãi suất 3-12%/tháng, nói dối là cho người khác vay để đáo hạn ngân hàng. Thậm chí, một khách hàng khác tố cáo luật sư khi nhận ủy quyền tham gia tố tụng trong vụ án dân sự, khi thắng kiện và được 500 triệu đồng, nhưng luật sư đã làm giả hợp đồng ủy quyền tới Chi cục Thi hành án dân sự để nhận tiền, nhưng chưa chiếm đoạt được thì bị phát hiện.

Chưa hết, trong khoảng 4 tháng đầu năm 2014, luật sư vay của một khách hàng khác mà mình là người bảo vệ quyền lợi 5 lần với tổng số tiền 2,6 tỷ đồng, nhưng sau đó làm xác nhận luật sư đã trả xong, lại còn hùn vốn 2,2 tỷ đồng với khách hàng. Sau này khách hàng khẳng định chữ ký trong giấy xác nhận là của mình nhưng nội dung là giả nhằm giúp luật sư đối phó với Cơ quan điều tra, còn luật sư cho rằng giấy xác nhận là thật và khách hàng còn giữ vốn của mình. Ngoài ra, nữ luật sư này còn bị coi là lợi dụng hợp đồng ủy quyền nhận 121 triệu đồng của một khách hàng tại cơ quan thi hành án dân sự, tiêu xài cá nhân nhưng lại nói dối là chưa nhận được tiền…

Nguyên nữ luật sư đã bị TAND tỉnh ĐT xử lần 1 với tổng hợp hình phạt 24 năm tù, nhưng sau đó Tòa phúc thẩm TAND tối cao hủy án, chủ yếu xác định một hành vi nhưng bị xử 2 tội danh khác nhau. Tuy nhiên, sau khi thụ lý lại, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn giữ nguyên mức hình phạt 24 năm tù. Nguyên nữ luật sư liên tục kháng cáo kêu oan, đến 18/11/2020 Tòa phúc thẩm mở phiên tòa nhưng lại hoãn xử.

Mặc dù đến thời điểm này, bản án chưa có hiệu lực, nhưng từ vụ án này, có lẽ mỗi luật sư đều có thể tự chiêm nghiệm và rút ra bài học kinh nghiệm cho mình.

* Quy tắc 9.2: Gợi ý, đặt điều kiện để khách hàng tặng cho tài sản hoặc lợi ích khác cho luật sư hoặc cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em của luật sư.

Như trên đã phân tích, ngoài quan hệ giữa luật sư là người cung cấp dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng, giữa hai bên với tư cách là chủ thể xã hội có những quan hệ trong cuộc sống và sinh hoạt, một số trường hợp còn nảy sinh tình cảm bạn bè thân thiết hoặc giao lưu trong cuộc sống. Đây cũng chính là một loại quan hệ mà luật sư cần phân biệt một cách rạch ròi, làm sao giữ gìn hình ảnh, uy tín của luật sư, đồng thời thể hiện sự hiểu biết, tạo sự tin cậy của khách hàng trong cuộc sống. Tuy nhiên, trên thực tế, cũng có trường hợp do phát sinh tình huống, nhu cầu bất ngờ mà luật sư ở trong hoàn cảnh khó khăn, khách hàng có điều kiện về mặt kinh tế, nên chủ động gợi ý để khách hàng tặng cho tài sản hoặc lợi ích khác không chỉ cho bản thân luật sư mà cho cả người thân thích như cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em của luật sư.

Gợi ý, đặt điều kiện được đề cập ở đây là hành vi của luật sư chủ động đưa ra các tình huống, yêu cầu, mà nếu khách hàng không thỏa mãn bằng cách tặng cho tài sản hoặc lợi ích khác cho luật sư thì công việc cung cấp dịch vụ pháp lý bị trở ngại, mức độ đáp ứng yêu cầu bị hạn chế. Điều rất khó chấp nhận trong nhận thức và đạo đức hành nghề của luật sư là lợi dụng hoàn cảnh khó khăn, yếu thế của khách hàng để “bắt chẹt”, khiến cho khách hàng không thể không đáp ứng yêu cầu ngoài phạm vi thỏa thuận về thù lao luật sư. Điều này cũng lý giải vì sao trong xã hội vẫn lan truyền một số dư luận và tranh cãi trái chiều xung quanh sứ mệnh và bản chất nghề luật sư ở Việt Nam.

Ví dụ 8: Trên diễn đàn Quốc hội vào tháng 10/2014, một vị đại biểu Quốc hội khi đăng đàn tranh luận về “quyền im lặng”, coi đó không phải là quyền con người, đã đi xa hơn khi phát biểu: “Không phải Cơ quan điều tra ngại chuyện này, mà đây là chuyện kiểu như “vẽ đường cho hươu chạy” để bọn tội phạm lộng hành. Hơn nữa, thực chất luật sư ở Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền…”. Sau phát biểu trên, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam có văn bản gửi Chủ tịch Quốc hội đề nghị xem xét, làm rõ nội dung trên, đồng thời rất nhiều luật sư bày tỏ thái độ bức xúc, không đồng tình1.

Trên báo Thanh Niên ra ngày 01/11/20142 có đăng tải một ý kiến của bạn đọc phê bình phát biểu chưa được chặt chẽ về chữ nghĩa trong vai trò của một đại biểu Quốc hội, đã đụng chạm đến lòng tin thiêng liêng của người dân đối với người luật sư mà họ tin tưởng. Những ý kiến tranh luận trái chiều nói trên có thể xuất phát từ thực tế có một số trường hợp luật sư được “tạo thêm động lực” khi nhận được các khoản thù lao cao hoặc do lợi dụng vị thế nghề nghiệp của mình để gợi ý, đặt điều kiện, buộc khách hàng không thể từ chối tặng cho tài sản, hứa hẹn kết quả giải quyết để hưởng lợi không chính đáng.

Làm thế nào để giải quyết bài toán giữa đề cao sứ mệnh “phục vụ” thay cho đơn thuần là cung cấp “dịch vụ” mà hàng hóa là kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của luật sư? Đây thật sự là cơ sở để hình thành Quy tắc 9.2 này.

Việc ứng xử liên quan đến quan hệ tài sản, lợi ích không chỉ giữa luật sư với khách hàng mà còn bao gồm cả quan hệ của những người thân thích của luật sư. Cũng như trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức hành nghề phải bảo đảm các luật sư trong tổ chức của mình phải bảo mật thông tin của khách hàng, thì trong cuộc sống, những người thân thích của luật sư cũng không thể lợi dụng vị thế của luật sư trong quan hệ với khách hàng để vụ lợi. Khi xử lý không chuẩn mực quan hệ về tài sản, lợi ích giữa luật sư và khách hàng có thể làm tổn thương lòng tin của người dân đến vị thế, uy tín, hình ảnh và chức phận nghề nghiệp luật sư. Mỗi luật sư sẽ cần tự điều chỉnh, tìm ra ranh giới không được vượt qua trong quan hệ với khách hàng để ứng xử phù hợp.

* Quy tắc 9.3: Nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích nào khác từ người thứ ba để thực hiện hoặc không thực hiện công việc gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng.

Đây là một quy tắc khá đặc biệt mà các luật sư trong hành nghề và trong cuộc sống có thể ít quan tâm, để ý đến. Trong quá trình hành nghề, thông tin tìm hiểu về luật sư của khách hàng đến từ nhiều nguồn (tự tìm hiểu, thông qua bạn bè, người quen, báo chí giới thiệu…). Khi vướng vào vòng tố tụng, nhiều khách hàng ở trong hoàn cảnh rất khó khăn, khánh kiệt, không đủ tiền trang trải, thanh toán thù lao luật sư. Trong một số trường hợp, người thân hoặc bạn bè của khách hàng sẵn lòng chia sẻ, hỗ trợ nhằm có được luật sư tư vấn, bảo vệ quyền lợi hợp pháp tốt nhất cho khách hàng. Những trường hợp như vậy hoàn toàn có thể được coi là hợp lệ, về cách thức thì luật sư nên tư vấn để những cá nhân nói trên hỗ trợ trực tiếp cho khách hàng để gia đình họ thanh toán thù lao luật sư trực tiếp hoặc qua tài khoản của chính khách hàng.

Tuy nhiên, nội hàm của Quy tắc 9.3 này lại tiếp cận trên một bình diện khác, khi ràng buộc nghĩa vụ đạo đức của luật sư là không được nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích nào khác từ người thứ ba để thực hiện hoặc không thực hiện công việc gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng. Tình huống này biểu hiện trên thực tế như khi nhận tư vấn, bảo vệ quyền lợi cho một khách hàng, có người sẵn sàng trao đổi, đưa tiền cho luật sư để không làm xấu đi tình trạng của người khác có quyền lợi đối lập với khách hàng; thậm chí có trường hợp trong quan hệ tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại, luật sư đối phương đặt vấn đề thỏa thuận là nếu quan tâm đến quyền lợi của đối phương, đổi lại luật sư có thể được nhận một khoản tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Những trường hợp như thế thường không dễ xử lý, vì đôi khi do lợi ích vật chất quá lớn, luật sư “nhắm mắt gật đầu” mà không hết mình phục vụ khách hàng, thậm chí gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng.

Ví dụ 9: Nhận tiền, lợi ích của cả hai bên có bị coi là vi phạm quy tắc đạo đức?

Trong quá trình thương thảo Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần của Công ty A mà luật sư là người tư vấn, khi biết luật sư là người có uy tín trong xã hội, ngay lập tức Công ty B là bên nhận chuyển nhượng tìm đến luật sư, đặt vấn đề là nếu luật sư soạn thảo hợp đồng không quá chặt chẽ, tạo thuận lợi cho Công ty B thì Công ty B sẵn sàng có khoản “bồi dưỡng” cho luật sư. Việc trao đổi này là bí mật, Công ty A không được biết.

Để xử lý tình huống cụ thể này, luật sư tư vấn cho Công ty A phải kiên quyết từ chối, lập tức phải thông tin cho khách hàng của mình biết về việc Công ty B mong muốn có một dự thảo Hợp đồng công bằng cho cả hai phía và có nhã ý “bồi dưỡng”. Do đây là quá trình thương thảo Hợp đồng, nếu Công ty B muốn đàm phán các điều khoản then chốt, hài hòa lợi ích hai bên thì nên cử luật sư của mình đến trao đổi với luật sư của Công ty A một cách minh bạch. Trong trường hợp, vì cả hai Công ty đều tín nhiệm luật sư, mong muốn luật sư giúp đỡ cho cả hai bên, luật sư chỉ có thể thực hiện việc cung cấp dịch vụ pháp lý khi được sự đồng ý của Công ty A và chỉ nhận thù lao từ chính khách hàng của mình.

Trong thực tế, “người thứ ba” là một khái niệm khá trừu tượng, có thể là bất cứ ai ngoài quan hệ giữa luật sư và khách hàng. Vấn đề đặt ra về mặt đạo đức là luật sư nhận tiền, lợi ích khác để gây thiệt hại cho khách hàng – một điều không thể chấp nhận được trong trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư. Như đã đề cập, luật sư cũng chỉ là con người, ai có cũng có nhu cầu về đời sống, về vật chất, nhưng đánh đổi nhu cầu đó để phương hại đến quyền lợi của khách hàng là tự chôn vùi hình ảnh, uy tín của luật sư. Đôi khi, có luật sư nghĩ rằng việc mình nhận tiền của “người thứ ba” là bí mật, không ai biết, cho dù mọi thứ trót lọt, nhưng hành vi này của luật sư sẽ đi theo suốt cuộc đời hành nghề của luật sư, luật sư sẽ thấy tự mình cắn rứt lương tâm.

* Quy tắc 9.4: Tạo ra hoặc lợi dụng các tình huống xấu, những thông tin sai sự thật, không đầy đủ hoặc bất lợi cho khách hàng để gây áp lực nhằm tăng mức thù lao đã thỏa thuận hoặc có được lợi ích khác từ khách hàng.

Trong quá trình hành nghề, khi tiếp nhận yêu cầu của khách hàng, thường luật sư sẽ phải tìm hiểu về nhân thân, pháp nhân và lịch sử hình thành, phát triển của Công ty hay hoàn cảnh gia đình, quá trình công tác hoặc địa vị xã hội. Bên cạnh việc tin tưởng vào những điều trình bày, luật sư cũng tiếp nhận nhiều thông tin trái chiều, thậm chí bất lợi cho khách hàng. Chẳng hạn, khi nhận bào chữa cho một quan chức có vị trí cao trong bộ máy nhà nước hay một doanh nhân nổi tiếng, chắc chắn không tránh khỏi những điều thị phi. Chính điều đó khiến cho ngay từ đầu, luật sư đã phải cân nhắc xem có nhận bào chữa hay không. Một số trường hợp, nếu vụ án thuộc diện nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm, đôi khi có những áp lực vô hình mà luật sư không dễ vượt qua.

Vấn đề đặt ra từ ý nghĩa và nội dung của quy tắc này chính là tự bản thân luật sư không nên vì mong muốn khách hàng phải nhờ cậy mình, hoặc mong muốn thỏa thuận mức thù lao cao hơn bình thường, đã chủ động tạo ra hoặc lợi dụng các tình huống xấu, những thông tin sai sự thật, không đầy đủ hoặc bất lợi cho khách hàng để gây áp lực nhằm tăng mức thù lao đã thỏa thuận hoặc có được lợi ích khác từ khách hàng.

Ví dụ 10: Trong một vụ án hình sự xảy ra tại một doanh nghiệp xuất nhập khẩu lớn, vị Chủ tịch Hội đồng quản trị cảm thấy lo lắng, đến cậy nhờ luật sư tư vấn, chuẩn bị cho phương án có thể bị khởi tố bị can hoặc bắt tạm giam. Luật sư tìm hiểu thông tin qua báo chí, thấy phản ánh trong quá trình công tác, vị Chủ tịch này thường xuyên đi ăn nhậu trong các quán bia ôm, bị một đương sự chụp hình ảnh lưu lại. Mặt khác, vị Chủ tịch này lại có một Công ty “sân sau”, sử dụng nguồn tiền chiếm hưởng không hợp pháp để mua nhà cửa, đất đai… Biết được việc này, luật sư úp mở thông tin cho khách hàng biết là Cơ quan điều tra đang nắm được một số bí mật, nếu không dựa vào mối quan hệ quen biết của luật sư để tìm cách “giải tỏa” thì nguy cơ bị bắt tạm giam rất cao. Từ đó luật sư đặt khách hàng vào tình thế bắt buộc phải nhờ luật sư, nếu không thì sẽ bất lợi và sẵn sàng đưa tiền cho luật sư để lo lót.

Việc gây áp lực này là một điều rất đáng chê trách trong ứng xử đạo đức của một luật sư. Đến một thời điểm nào đó, khách hàng biết được luật sư sử dụng thông tin bất lợi để buộc phải cậy nhờ luật sư, sự đổ vỡ về niềm tin sẽ rất lớn. Trong con mắt của khách hàng, luật sư không còn là người trợ giúp trong lúc khó khăn, hoạn nạn, mà biến việc cung cấp dịch vụ trở thành “chợ búa”, mua bán, đổi chác kiến thức, kỹ năng hành nghề như là một loại hàng hóa thông thường. Luật sư cần tránh suy nghĩ rằng khách hàng là người thiếu hiểu biết hoặc ở trong tình trạng khó khăn mà luật sư muốn “đạo diễn” thế nào cũng được. Càng khó khăn, thậm chí như ngọn núi trước mặt, luật sư phải là người biết động viên, chia sẻ, tận tâm làm hết sức mình để giúp đỡ khách hàng, cho dù công việc, kết quả sau này không thật sự đạt được như ý muốn ban đầu, khách hàng vẫn luôn dành sự tôn trọng đối với luật sư.

* Quy tắc 9.5: Sử dụng thông tin biết được từ vụ việc mà luật sư đảm nhận để mưu cầu lợi ích không chính đáng.

Nội dung quy tắc này có phần trùng lắp với Quy tắc 9.4 nêu trên. Tuy nhiên, thông tin ở đây là thông tin từ trong hồ sơ, nội dung vụ án hoặc tranh chấp, diễn ra sau khi luật sư đã ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng. Ví dụ, luật sư khi được phép sao chụp hồ sơ vụ án, biết được rất nhiều thông tin, trong đó có cả những thông tin bất lợi, những chứng cứ có thể làm căn cứ buộc tội hoặc gỡ tội cho khách hàng. Thay vì thẳng thắn trao đổi, cung cấp cho khách hàng một cách minh bạch, luật sư lại “ám chỉ” bóng gió là những thông tin này nằm ngoài hồ sơ vụ án, từ đó luật sư đề xuất tăng mức thù lao bổ sung hoặc yêu cầu đưa thêm tiền không cần hóa đơn tài chính.

Trong một số trường hợp, luật sư sử dụng thông tin biết được từ vụ việc mà luật sư đảm nhận để đề cao giá trị và uy tín của luật sư, để khách hàng tin tưởng cho rằng chỉ có luật sư mới là người giúp thỏa mãn yêu cầu khách hàng. Rốt cuộc, trong trường hợp này, luật sư chỉ muốn chứng minh giá trị của mình mà không phải vì quyền lợi hợp pháp của khách hàng. Đó là mặt bên trong, khách hàng không thể nhìn thấy được nên cũng không thể có căn cứ phàn nàn luật sư, vì chỉ luật sư mới là người được quyền tiếp cận hồ sơ vụ án. Quy tắc này chủ yếu là để lưu ý, nhắc nhở luật sư trong quá trình hành nghề phải đặt quyền lợi của khách hàng lên trên quyền lợi của luật sư.

* Quy tắc 9.6: Thông tin trực tiếp cho khách hàng hoặc dùng lời lẽ, hành vi ám chỉ để khách hàng biết về mối quan hệ cá nhân của luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác nhằm mục đích gây niềm tin với khách hàng về hiệu quả công việc hoặc nhằm mục đích bất hợp pháp khác.

Kể từ thời điểm Liên đoàn Luật sư Việt Nam được thành lập, đến năm 2020 tổng số luật sư chính thức hành nghề là 15.061 luật sư1 , trong đó có nhiều người sau thời gian công tác trong các cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng đến tuổi về hưu đã tham gia vào Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Do nhiều người không phải trải qua quá trình đào tạo nguồn luật sư hoặc tập sự hành nghề luật sư, nên mặc dù tích lũy nhiều kiến thức, có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, đôi khi chưa thẩm thấu hết những khó khăn, vất vả mà phần đông luật sư đang phải đối diện hiện nay. Trong một chừng mực nhất định, các đồng nghiệp từng công tác trong các cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng có sẵn những mối quan hệ quen biết với những người đương nhiệm, nên có những lợi thế nhất định, tạo sự tin cậy của khách hàng về uy tín của luật sư. Ngoài ra, ngay cả các luật sư hành nghề một cách xuyên suốt, qua thời gian, cũng tích lũy được những quan hệ cá nhân hoặc thông qua hoạt động nghề nghiệp với các cơ quan và người tiến hành tố tụng. Những quan hệ có được từ quá trình công tác, hành nghề nói trên đều là những giá trị tích lũy chính đáng, tạo ra thương hiệu, uy tín của mỗi luật sư.

Ví dụ 11: Trong quan hệ với khách hàng, có nên thông tin luật sư “nguyên” là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên?

Hiện nay, nhiều luật sư đã biết sử dụng các phương tiện truyền thông, mạng xã hội để giới thiệu về tổ chức hành nghề và cá nhân mình, tạo được sự thu hút từ phía khách hàng. Khi in danh thiếp (card visit), một số luật sư có giới thiệu bản thân mình “nguyên” là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên. Cách thức tiếp cận để giới thiệu khách hàng như vậy pháp luật và quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp luật sư không cấm. Đó cũng là một phần giá trị của luật sư mà khách hàng rất trông cậy vào kiến thức, kỹ năng trong việc nhận diện vụ việc, đưa ra được những giải pháp pháp lý có căn cứ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Tuy nhiên, việc có cần thiết phải giới thiệu các chức danh trước đây hay không tùy theo quan niệm và cách thức của mỗi luật sư, vì dù sao, chức danh luật sư trong trường hợp này là quan trọng nhất, là chức danh tư pháp hiện có của luật sư. Đó là cơ sở để khách hàng tìm đến luật sư và yêu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý.

Vấn đề đặt ra là cách thức luật sư thông tin trực tiếp cho khách hàng một cách minh bạch hay dùng lời lẽ, hành vi ám chỉ để khách hàng biết về mối quan hệ cá nhân của luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác nhằm mục đích gây niềm tin với khách hàng về hiệu quả công việc hoặc nhằm mục đích bất hợp pháp khác. Do luật sư đã có chủ ý thông tin cho khách hàng về mối quan hệ với các cơ quan, người tiến hành tố tụng, tổ chức có thẩm quyền khác, mục đích là nhằm tạo dựng niềm tin để khách hàng giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với mình. Sâu xa hơn, có thể chủ đích của luật sư còn mang tính gợi ý khách hàng muốn được việc, có hiệu quả tốt thì cần phải “chạy”… Đối với một số khách hàng, nhu cầu “chạy” để thoát tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một thực tế có thể xảy ra. Bản thân luật sư đã có sẵn các mối quan hệ, có thể nghĩ rằng mình đang giúp cho khách hàng đạt hiệu quả mong đợi. Trong trường hợp này, nhu cầu của hai bên rất dễ gặp nhau.

Tuy nhiên, mỗi luật sư đều cần nhận thức tính hai mặt của vấn đề. Bên cạnh việc tạo sự tin cậy, niềm tin của khách hàng về hiệu quả công việc, đa phần cách thông tin hay dùng lời lẽ, hành vi ám chỉ rằng luật sư là người “có mối quan hệ rộng” với các cơ quan, người tiến hành tố tụng sẽ dễ dẫn đến khách hàng ngay lập tức nghĩ đó là sự gợi ý và họ bắt nhịp ngay với sự ám chỉ của luật sư. Cần thẳng thắn thảo luận ở đây là luật sư gây niềm tin hay tìm kiếm lợi ích cho bản thân mình hay nó sẽ mang đến những rủi ro cho luật sư? Đáng lẽ luật sư có thể hành nghề với tâm an mà không phải luôn tìm cách tiếp cận đối tượng có thẩm quyền giải quyết để giúp khách hàng. Lợi ích mà luật sư có thể thụ hưởng bằng cách thức không minh bạch đó liệu có giúp cho mình một cuộc sống tốt đẹp, giàu có hơn? Đó là chưa kể khi dấn thân vào con đường mà mình đã vạch ra như thế sẽ khó tránh khỏi những rủi ro. Không chỉ là rủi ro do vi phạm pháp luật, mà còn làm xấu đi hình ảnh, chức phận nghề nghiệp luật sư. Vậy câu trả lời ở đây là mỗi luật sư cần “tiết chế” nhu cầu của chính luật sư, không nên biện minh là mình đang làm những gì tốt nhất cho khách hàng.

* Quy tắc 9.7: Cố ý đưa ra những thông tin làm cho khách hàng nhầm lẫn về khả năng và trình độ chuyên môn của mình để tạo niềm tin cho khách hàng ký kết hợp đồng.

Thông tin về khả năng và trình độ chuyên môn của luật sư hiện nay được phản ánh thông qua các website của Liên đoàn, các Đoàn luật sư địa phương, trang web của các tổ chức hành nghề hay các trang mạng xã hội như Facebook… Ngoài ra, khách hàng có thể tìm hiểu hoạt động của luật sư được thể hiện qua thực tiễn tham gia tố tụng, tư vấn cho các vấn đề thời sự được phản ánh qua báo chí, truyền thông hoặc sự giới thiệu của người thân, bạn bè. Tuy nhiên, không phải khách hàng lúc nào cũng nhận diện và đánh giá đúng về phẩm chất, năng lực và trình độ chuyên môn của luật sư, vì đó là mặt bên trong, sự tích tụ và trải nghiệm thực tiễn, bản lĩnh và tư cách đạo đức của mỗi luật sư. Ngoài ra, trên thực tế hiện nay với số lượng luật sư hành nghề ngày càng đông, nguồn luật sư ngày càng phát triển, mỗi kỳ thi kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư hàng năm lên tới 400 – 500 người tập sự, nên khả năng cạnh tranh, có được việc làm của rất nhiều luật sư trẻ bị hạn chế. Theo số liệu không chính thức, được phản ánh qua các hội thảo, tọa đàm về nghề luật sư, có đến gần 1⁄2 số luật sư trẻ hiện nay không có điều kiện sống được bằng nghề, phải làm thêm các nghề tay trái để có thêm thu nhập.

Không chỉ các luật sư trẻ mới vào nghề, ngay các luật sư thực thụ, có quá trình hành nghề nhiều năm cũng gặp hoàn cảnh khó khăn tương tự. Do đó, làm thế nào để tạo dựng uy tín, dành được sự quan tâm của các chủ thể xã hội, sống được bằng chính nghề nghiệp của mình là một thách thức lớn trong sự phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay. Có một thực tế là trong điều kiện hiện nay, không phải luật sư nào cũng tinh thông hết các lĩnh vực chuyên môn, ngay các nước có nghề luật phát triển như Hoa Kỳ, CHLB Đức, Nhật Bản…, xu hướng tạo dựng uy tín, tên tuổi luật sư theo phạm vi tranh tụng và tư vấn, hay theo chuyên ngành là một xu hướng chủ đạo. Thậm chí, ở CHLB Đức, Đoàn luật sư liên bang đã hình thành chế độ luật sư chuyên ngành, các luật sư khi phát triển năng lực và chuyên môn về một lĩnh vực nào đó sẽ được kiểm tra, cấp chứng chỉ luật sư chuyên ngành. Từ những kinh nghiệm quốc tế, hiện nay nhiều Tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam thành danh nhờ vào các lĩnh vực chuyên môn sâu như tư vấn kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài, đầu tư, tài chính, sở hữu công nghiệp…

Trong tổng số trên 15.000 luật sư hiện nay, có khoảng 500 luật sư hoạt động trong lĩnh vực tư vấn đầu tư và thương mại quốc tế. Số lượng luật sư hoạt động trong lĩnh vực đầu tư và thương mại quốc tế phần lớn trưởng thành là do chính các Tổ chức hành nghề luật sư tự đào tạo như Công ty luật VILAF Hồng Đức, YKVN… và một số công ty luật nước ngoài tại Việt Nam. Một số tổ chức hành nghề đã ý thức trong việc xây dựng thương hiệu của mình trong lĩnh vực tranh tụng, tư vấn hay cung cấp các dịch vụ pháp lý khác.

Ví dụ 12: Bằng cấp có phải là tiêu chí đánh giá khả năng và trình độ chuyên môn của luật sư?

Trong quá trình học tập và tích lũy kinh nghiệm nghề nghiệp, nhiều luật sư đã cố gắng phấn đấu trau dồi kiến thức pháp luật và kỹ năng chuyên môn, đạt trình độ tiến sĩ, thạc sĩ luật học, được phong hàm giáo sư, phó giáo sư ngành luật. Theo thống kê của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, đến năm 2020, trong tổng số 15.061 luật sư chính thức, có 141 luật sư có bằng tiến sĩ luật, 938 luật sư có bằng thạc sĩ luật. Số luật sư có trình độ trên đại học chiếm 5% tổng số luật sư cả nước. Có khoảng 100 luật sư Việt Nam được đào tạo nghề luật sư ở nước ngoài, 20 luật sư được công nhận luật sư của nước ngoài (Hoa Kỳ, Australia, Pháp…)1 . Vì thế, trên danh thiếp, một số luật sư đã thể hiện học hàm, học vị của mình. Việc giới thiệu khả năng và trình độ chuyên môn như vậy hoàn toàn ngay thẳng, chính danh, là một tiêu chí đánh giá về phẩm chất và năng lực của luật sư.

Tuy nhiên, trong thực tế, cũng có luật sư ghi rất nhiều các chức danh, học vị của mình không theo quy chuẩn, hoặc bằng cấp không được Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam công nhận. Đó là chưa kể, trên danh thiếp của một số luật sư ghi quá nhiều về bằng cấp của nhiều cơ sở đào tạo, cốt để giới thiệu khả năng hiểu biết nhiều lĩnh vực của mình. Cách tiếp cận và giới thiệu khả năng và trình độ chuyên môn của luật sư như vậy chưa hẳn là một cách làm đúng.

Trong quá trình giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng, việc công khai, minh bạch về khả năng và trình độ chuyên môn của luật sư có ý nghĩa quan trọng, tạo niềm tin cho khách hàng. Tuy nhiên, quy tắc này nhấn mạnh đến hành vi bị coi là vi phạm quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp khi cố ý đưa ra những thông tin làm cho khách hàng nhầm lẫn về khả năng và trình độ chuyên môn của mình để tạo niềm tin cho khách hàng ký kết hợp đồng. Chẳng hạn, thực tế luật sư không có trình độ chuyên môn sâu về lĩnh vực tài chính, ngân hàng, kinh doanh thương mại nhưng vẫn giới thiệu cho khách hàng là mình có khả năng tư vấn, trợ giúp pháp lý trong việc soạn thảo hợp đồng chuyển nhượng cổ phần liên quan các dự án bất động sản. Trong tố tụng, để khách hàng nhờ bào chữa trong vụ án về ma túy, luật sư giới thiệu không đúng về khả năng và kinh nghiệm thực tế, cốt yếu để khách hàng đồng ý ký hợp đồng với mình. Lỗi ở đây là cố ý đưa ra các thông tin sai lệch, có khả năng gây nhầm lẫn cho khách hàng, mục đích làm cho khách hàng tin tưởng vào khả năng và trình độ chuyên môn của mình.

* Quy tắc 9.8: Hứa hẹn, cam kết bảo đảm kết quả vụ việc về những nội dung nằm ngoài khả năng, điều kiện thực hiện của luật sư.

Theo Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện chiến lược phát triển nghề luật sư Việt Nam1 , Liên đoàn nhận được 1541 đơn thư có nội dung khiếu nại, tố cáo liên quan đến luật sư, người tập sự hành nghề luật sư. Phần lớn các đơn thư có nội dung khiếu nại, tố cáo luật sư vi phạm đạo đức, ứng xử nghề nghiệp, tranh chấp về thù lao giữa luật sư với khách hàng. Liên đoàn đã phối hợp chặt chẽ với Đoàn luật sư có liên quan để giải quyết các đơn, thư này. Từ tháng 01/2011 đến tháng 4/2020, các Đoàn luật sư đã xử lý kỷ luật xóa tên 479 luật sư (trong đó có 413 trường hợp do không nộp phí thành viên, 66 trường hợp còn lại là xử lý kỷ luật do vi phạm đạo đức nghề nghiệp luật sư); xử lý kỷ luật bằng các hình thức khác (tạm đình chỉ tư cách thành viên, cảnh cáo, khiển trách) là 78 trường hợp. Trong số các trường hợp vi phạm nêu trên, có nhiều luật sư vi phạm quy tắc đạo đức về hứa hẹn, cam kết bảo đảm kết quả vụ việc về những nội dung nằm ngoài khả năng, điều kiện thực hiện của luật sư. Chẳng hạn, có những luật sư ghi rõ các điều kiện thanh toán thù lao của khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý là cam kết bảo đảm cho khách hàng “được hưởng án treo”.

Về mặt pháp lý, điểm đ khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư năm 2006 quy định một trong những hành vi bị cấm là “nhận, đòi hỏi thêm bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ khách hàng ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý”. Điểm d khoản 6 Điều 6 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định mức xử phạt từ 20 triệu đến 30 triệu đồng đối với hành vi sách nhiễu khách hàng; nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích khác ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý; lừa dối khách hàng mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Vấn đề ở đây là việc thỏa thuận thù lao luật sư dựa vào sự hứa hẹn, cam kết bảo đảm kết quả vụ việc, trong khi luật sư không có khả năng, điều kiện thực hiện. Một người bình thường cũng biết là trong tố tụng, kể cả hình sự hay dân sự, phán quyết về kết quả là do HĐXX quyết định, nằm ngoài khả năng và điều kiện của luật sư. Chỉ khi luật sư thực hiện hành vi trái pháp luật và đạo đức, móc nối với người tiến hành tố tụng thì mới có thể giao kết trước về kết quả nhằm mục đích hưởng lợi bất chính.

Vì thế, quy tắc này ràng buộc nghĩa vụ về đạo đức của luật sư, luật sư không được hứa hẹn, cam kết bảo đảm kết quả vụ việc. Trong hợp đồng dịch vụ pháp lý, luật sư cần thể hiện trong điều khoản về quyền và nghĩa vụ của luật sư theo nguyên tắc tận tâm, làm hết trách nhiệm nhằm bảo vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng trên cơ sở pháp luật.

* Quy tắc 9.9: Lợi dụng nghề nghiệp để quan hệ tình cảm nam nữ bất chính với khách hàng.

Quy tắc này thể hiện một khía cạnh khác trong hoạt động hành nghề của luật sư trong quan hệ với khách hàng. Hiểu cho đúng tinh thần và nội hàm của quy tắc này không hề đơn giản và phát sinh những tình huống gây tranh cãi. Như trên đã nêu, trong quá trình tiếp nhận vụ việc, luật sư và khách hàng phải thường xuyên gặp mặt, giao tiếp cả trong công việc và trong cuộc sống cá nhân. Thực tiễn hành nghề cho thấy, do cách giao tiếp, ứng xử trên tinh thần chia sẻ, đứng bên cạnh khách hàng trong những thời điểm sinh tử, khó khăn nhất, khách hàng rất kính trọng và yêu mến tấm lòng và tình cảm nhân ái, lòng trắc ẩn của luật sư trước số phận của khách hàng. Có nhiều trường hợp, mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng không chỉ phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng, mà còn trở thành mối quan hệ bạn bè thân thiết nhiều năm sau này.

Thực tế hành nghề luật sư, có trường hợp thông qua mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng trong quá trình tiếp nhận vụ việc, luật sư có quan hệ tình cảm, sau đó tiến tới hôn nhân với khách hàng. Có trường hợp một nữ luật sư khi nhận bào chữa cho một bị can bị tạm giam, thấu hiểu nỗi oan ức của khách hàng, đã dấn thân đấu tranh bảo vệ công lý, minh oan cho bị can, sau khi ra tù, hai bên đã nảy sinh tình cảm và tiến tới kết hôn. Để hiểu thấu đáo quy tắc này, cần tiếp cận trên hai phương diện:

Một là, trên bình diện là một con người sống trong xã hội, chưa lập gia đình, luật sư dù là nam hay nữ đều có quyền lựa chọn và kết hôn với bất cứ ai, dù đó là người đang bị đặt trong vòng tố tụng, bị hạn chế quyền tự do thân thể. Quan hệ tình cảm đơn thuần nảy sinh trong quan hệ giữa con người với con người, có đi đến kết hôn hay không là do tình cảm giữa hai bên mà pháp luật không cấm. Khi nảy sinh tình cảm, không có ranh giới để phân biệt rành mạch đây là quan hệ của luật sư với khách hàng, pháp luật hay quy tắc đạo đức không cấm, miễn không vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình.

Hai là, bị coi là vi phạm Quy tắc 9.9 khi luật sư lợi dụng nghề nghiệp để quan hệ tình cảm nam nữ bất chính với khách hàng. Cần nhận thức, quan hệ tình cảm nam nữ bất chính giữa luật sư và khách hàng là trường hợp quan hệ giữa một bên là luật sư – là người cung cấp dịch vụ pháp lý với một bên là người có nhu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý. Trong quan hệ này, luật sư là chủ thể tư pháp, có địa vị pháp lý, vai trò, quyền và nghĩa vụ đã được ghi nhận trong quy định của pháp luật, có ưu thế hơn so với khách hàng là các chủ thể xã hội, cá nhân khác. Khách hàng mặc dù tự nguyện, bình đẳng, được giải thích và có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng dịch vụ pháp lý, nhưng xét cho đến cùng, khách hàng thường là người có hiểu biết hạn chế về pháp luật và giao tiếp trong cuộc sống, là một bên yếu thế, phụ thuộc vào sự chỉ dẫn, có niềm tin rất lớn vào phẩm giá, năng lực chuyên môn của luật sư. Khi lợi dụng hoàn cảnh khó khăn hay lợi dụng vị thế nghề nghiệp của luật sư nhằm quan hệ bất chính với khách hàng, hành vi này của luật sư bị coi là vi phạm quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp.

Vậy thế nào là quan hệ tình cảm nam nữ “bất chính”? Là luật sư, người có kiến thức về pháp luật chuyên sâu, đương nhiên phải nhận thức thế nào là quan hệ tình cảm nam nữ bất chính. Khái niệm “bất chính” ở đây được hiểu trước hết là hành vi quan hệ tình cảm nam nữ trái với pháp luật. Khoản 1 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình là “hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”. Điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nghiêm cấm hành vi “người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”. Như vậy, luật sư đã kết hôn, lại quan hệ, chung sống như vợ chồng với người khác (trong trường hợp này là khách hàng), hoặc chưa kết hôn mà kết hôn, chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ (đồng thời là khách hàng) bị coi là vi phạm pháp luật.

Về mặt đạo lý, nội hàm khái niệm “bất chính” còn được hiểu là trái luân thường đạo lý, luật sư lợi dụng vị thế nghề nghiệp để quan hệ tình cảm nam nữ với khách hàng, một dạng hưởng lợi không chính đáng “lợi ích vật chất” vô hình. Do đó, để thực hiện đúng quy tắc này đòi hỏi mỗi luật sư đề cao sứ mệnh và danh dự, uy tín của nghề nghiệp, biết tiết chế cảm xúc để phân biệt rạch ròi đâu là giới hạn đúng đắn trong quan hệ tình cảm nam nữ với khách hàng.

* Quy tắc 9.10: Lạm dụng các chức danh khác ngoài danh xưng luật sư trong hoạt động hành nghề để mưu cầu lợi ích trái pháp luật.

Thật ra, xây dựng quy tắc này trong Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư trong quan hệ với khách hàng là nhằm nhấn mạnh trong nhận thức và hoạt động nghề nghiệp của luật sư phải đặt tư cách, danh xưng luật sư lên hàng đầu, thể hiện bản chất mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng. Mặc dù các chức danh khác không được định nghĩa cụ thể trong quy tắc này, nhưng đó có thể là các chức danh tư pháp khác hoặc bịa đặt, mạo nhận mình là người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước hoặc cơ quan tiến hành tố tụng để ép buộc khách hàng ký hợp đồng, thực hiện các hành vi sai trái nhằm mưu cầu lợi ích cá nhân.

Xuất phát từ thực tế đã xảy ra, việc lạm dụng các chức danh khác ngoài danh xưng luật sư còn có thể hiểu là hành nghề luật sư không đúng hình thức hành nghề và ký hợp đồng dịch vụ pháp lý không thông qua Tổ chức hành nghề luật sư, mà bằng các chức danh khác. Chính vì thế, tại các điểm d và g khoản 3 Điều 6 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP đã quy định xử phạt từ 07 đến 10 triệu đồng đối với một trong các hành vi “hành nghề luật sư không đúng hình thức hành nghề theo quy định” và “ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng không thông qua Tổ chức hành nghề luật sư hoặc không có văn bản ủy quyền của Tổ chức hành nghề luật sư”.

4.9/5 - (41907 bình chọn)

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Nếu cần BQT hỗ trợ gấp, vui lòng liên hệ hotline 1900.0164 bấm phím 0.