Một số bất cập của pháp luật về giá và đề xuất hoàn thiện

Luật Giá

Từ khi Luật Giá có hiệu lực vào ngày 01/01/2013, Chính phủ, Bộ Tài chính và các Bộ có liên quan đã ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này. Các văn bản luật tạo thành hệ thống pháp luật về giá tương đối đa dạng, phức tạp. Mặc dù các cơ quan thẩm quyền đã có nhiều cố gắng hoàn thiện, tuy nhiên, hệ thống pháp luật về giá vẫn còn nhiều bất cập cần được nhận diện và tìm giải pháp hoàn thiện để tăng cường hiệu quả điều chỉnh pháp luật.

 

Abstract: Since the Law on Price entered into enforcement on 01 January 2013, the Government, the Ministry of Finance and other relevant ministries have issued a series of documents for detailed regulations and guideliens for the enforcement of this law. The legal documents have established a legal system of prices, which is relatively diverse, complex. Although the competent entities have made great efforts to improve, however, the legal system on prices still has several inadequacies that need to be identified and to find a proper solution to enhance the effectiveness of the regulations.

 

1. Tổng quan pháp luật về giá

Quản lý của nhà nước đối với giá đã được ghi nhận qua quá trình lịch sử hàng ngàn năm, với những bằng chứng tại Ai Cập cổ đại và thời hoàng đế Diocletian ở La Mã ở thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên[1]. Sự can thiệp vào lĩnh vực giá của Nhà nước được cho là khá phổ biến trong lịch sử các nước phương Tây, điều này thường được lý giải bởi những lý do chính trị, khi mà Chính phủ được lợi từ việc điều chỉnh giá theo xu hướng giảm (sự ủng hộ từ cử tri và dân chúng) và ngay cả khi tăng giá (sự ủng hộ từ các nhà vận động hành lang và các công ty)[2]. Sự can thiệp vào giá, thông qua ban hành và thực thi các quy định điều chỉnh giá cũng được ghi nhận từ khá sớm tại nhiều quốc gia trên thế giới nhằm mục đích điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định thị trường và nền chính trị. Ví dụ tại Anh, Nhà nước đã can thiệp vào việc điều chỉnh giá bán buôn và bán lẻ mặt hàng rượu, bánh mỳ và một số loại lương thực thiết yếu[3]. Tại Pháp, sự điều chỉnh đầu tiên về giá được ghi nhận đối với mặt hàng thực phẩm khi giá mặt hàng này có sự gia tăng không kiểm soát, hay tại Mỹ, việc kiểm soát giá năng lượng được thực hiện trong suốt giai đoạn Chiến tranh thế giới lần thứ II[4].

Theo quan điểm phổ biến hiện nay, một trong những lý do để Nhà nước quản lý giá hàng hóa và dịch vụ trên thị trường là nhằm duy trì khả năng chi trả cho các mặt hàng thực phẩm và hàng hóa thiết yếu và để hạn chế gánh nặng chi phí trong những thời điểm khó khăn[5]. Quy định do cơ quan quản lý ban hành và điều chỉnh về giá trong giai đoạn đầu thường nhắm đến một số mặt hàng thiết yếu và/hoặc mục tiêu điều tiết tạm thời. Tại Việt Nam, ngay từ thời kỳ đầu đổi mới, trong “Chiến lược ổn định phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000” được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã xác định mục đích quản lý giá cũng rất phù hợp với quan niệm quốc tế: “Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước… Giá cả, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng hình thành theo cơ chế thị trường. Nhà nước dùng các biện pháp kinh tế là chủ yếu để tác động đến cung cầu trên thị trường, ổn định giá cả, chỉ định giá một số rất ít sản phẩm thuộc diện độc quyền và thiết yếu, có chính sách bảo hiểm giá cho một số nông sản và hàng xuất khẩu… Khi giá cả biến động lớn, Nhà nước bù đắp kịp thời và thoả đáng cho những người hưởng lương và trợ cấp cố định”[6].

Đến nay, đã có nhiều quốc gia ban hành luật điều chỉnh trong lĩnh vực giá, ví dụ như Luật Giá của Phillipines năm 1994, Luật Quản lý giá của Trung Quốc năm 1998, Luật Quản lý giá của Malaysia năm 1946, Luật Định giá và chống độc quyền của Thái Lan năm 1979, Luật Quản lý giá của Singapore năm 1985, Luật Quản lý giá của Slovenia năm 1999, Luật Kiểm soát giá năng lượng năm 1942 của Hoa Kỳ v.v.. Một số đạo luật về giá chỉ thực hiện trong những thời điểm nhất định, tuy nhiên, đa số các đạo luật vẫn đang được thi hành cùng với những sửa đổi, bổ sung phù hợp trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Có thể khẳng định, trong nền kinh tế thị trường, nhất là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng trong lĩnh vực giá nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa, hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình tự do cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh.

Trong gần 30 năm đổi mới, Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN dẫn đến cơ chế quản lý thị trường nói chung và quản lý giá nói riêng có những đổi thay căn bản,  từ chỗ Nhà nước là chủ thể quyết định hầu hết các mức giá phân phối chính thức đến chỗ thị trường là nơi hình thành giá cả thông qua các giao dịch dân sự, ngoại trừ một số ít hàng hòa, dịch vụ nhất định do Nhà nước định giá. Điều đó có nghĩa, thay vì Nhà nước “quyết định giá” thì trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, Nhà nước chỉ “quản lý giá” nhằm đảm bảo giá cả vận hành theo cơ chế thị trường, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể tham gia, bảo vệ lợi ích của toàn dân và của Nhà nước.

Từ khi Luật Giá có hiệu lực vào ngày 01/01/2013 để thay thế Pháp lệnh Giá, Chính phủ, Bộ Tài chính và các Bộ có liên quan đã ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 177/2013/NĐ-CP của Chính phủ, Nghị định số 149/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giá, Nghị định số 89/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật Giá về thẩm định giá, Nghị định số 109/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, lệ phí, hóa đơn; Nghị định số 44/2014/NĐ-CP quy định về giá đất; Nghị định số 01/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai, Thông tư số 56/2014/TT-BTC, Thông tư số 233/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 177/2013/NĐ-CP, Thông tư số 38/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 89/2013/NĐ-CP, Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất cùng nhiều văn bản khác.

Ngoài Luật Giá và các văn bản hướng dẫn thi hành, pháp luật về giá còn được đề cập đến ở nhiều luật, pháp lệnh, nghị định và thông tư của các lĩnh vực khác, đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật kinh tế như pháp luật về doanh nghiệp, thương mại, tài chính, đất đai, tài nguyên, môi trường, cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng… Như vậy, có thể khẳng định, pháp luật về giá là tổng thể các quy định pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực giá, với nguồn là Luật Giá và các văn bản pháp luật có liên quan, bao gồm cả các văn bản pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể.

Với một hệ thống các quy định tương đối đa dạng, phức tạp, nên mặc dù đã có gắng hoàn thiện, hệ thống pháp luật về giá vẫn còn nhiều bất cập cần được nhận diện và tìm giải pháp hoàn thiện để tăng cường hiệu quả điều chỉnh pháp luật.

2. Một số bất cập của pháp luật hiện hành về giá

Thứ nhất, hiện nay còn có nhiều văn bản luật cùng điều chỉnh về giá, dẫn đến việc xác định rõ ràng về trật tự ưu tiên áp dụng không dễ dàng.

Như đã nêu, ngoài các văn bản chuyên biệt như Luật Giá thì pháp luật về giá còn bao gồm nhiều quy định về giá trong các văn bản thuộc những lĩnh vực khác. Ví dụ, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản và nhiều văn bản luật khác quy định rằng, các luật này mới điều chỉnh về giá trong những lĩnh vực thuộc đối tượng điều chỉnh mà không quy định được áp dụng pháp luật khác (trong đó có Luật Giá). Một trường hợp khác, Luật Giá và Nghị định số 89/2013/NĐ-CP yêu cầu thẩm định viên về giá phải ban hành chứng thư thẩm định giá khi thẩm định giá bất động sản, còn Nghị định số 44/2014/NĐ-CP lại yêu cầu thẩm định viên khi tư vấn xác định giá đất phải ban hành chứng thư định giá đất, trong khi về bản chất hai loại hình dịch vụ này là một. Để cụ thể hóa quy định tại Nghị định số 44/2014/NĐ-CP, Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành mẫu chứng thư định giá đất[7] không đồng nhất với mẫu chứng thư thẩm định giá bất động sản[8] do Bộ Tài chính quy định. Chẳng hạn, yêu cầu của chứng thư thẩm định giá thì thẩm định viên phải ghi mã số thẻ thẩm định viên, nhưng trong mẫu chứng thư định giá đất thì không bắt buộc phải ghi, dẫn đến nếu không ghi thì phù hợp với pháp luật về định giá đất nhưng trái với pháp luật về thẩm định giá.

Thứ hai, tồn tại tình trạng chồng chéo về thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá giữa địa phương và trung ương, giữa các Bộ, ngành ở trung ương với nhau.

Luật Giá quy định, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá trên phạm vi cả nước; Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá; các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá trong lĩnh vực được pháp luật quy định; Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá tại địa phương[9].

Tuy nhiên, trên thực tế, vì có nhiều văn bản cùng điều chỉnh nên việc xác định thẩm quyền quản lý là không dễ dàng. Ví dụ, trong việc quản lý giá khám bệnh, chữa bệnh. theo quy định của Luật Giá và Nghị định số 177/2013/NĐ-CP (được sửa đổi bởi Nghị định số 149/2016/NĐ-CP), việc quy định về giá khám bệnh, chữa bệnh thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Y tế theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh và bảo hiểm y tế[10]. Trong khi đó, Luật Khám bệnh, chữa bệnh lại quy định, Bộ trưởng Bộ Tài chính phối hợp với Bộ trưởng Bộ Y tế quy định khung giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh. Căn cứ vào khung giá, Bộ trưởng Bộ Y tế quy định giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thuộc Bộ Y tế và các Bộ khác; Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước thuộc phạm vi quản lý của địa phương theo đề nghị của UBND cùng cấp[11]. Như vậy, ở trung ương có sự chồng chéo thẩm quyền giữa Bộ Tài chính và Bộ Y tế trong quy định giá dịch vụ khám, chữa bệnh; ở địa phương có sự chồng chéo giữa Hội đồng nhân dân và UBND.

Thứ ba, tồn tại tình trạng cùng một sự kiện pháp lý nhưng lại được định nghĩa bởi các thuật ngữ khác nhau, dẫn đến sự phức tạp trong quản lý cũng như hướng dẫn thực hiện.

Hiện nay, hoạt động “thẩm định giá” theo quy định của Luật Giá và hoạt động “tư vấn xác định giá đất” theo quy định của Luật Đất đai được xem là hai hoạt động khác nhau. Tuy nhiên, thực chất hai hoạt động này có cùng bản chất. Theo định nghĩa của Luật Giá, thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá[12], trong khi đó, mặc dù Luật Đất đai không xác định rõ khái niệm “tư vấn xác định giá đất”, nhưng các nguyên tắc tư vấn, phương pháp xác định giá đất và điều kiện của định giá viên gần như hoàn toàn trùng với nguyên tắc, phương pháp thẩm định giá và điều kiện của thẩm định viên về giá[13].

Tương tự như vậy, BLDS và Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) cũng sử dụng thuật ngữ “định giá” nhưng bản chất lại là “thẩm định giá”. Điều 306 BLDS quy định “Bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận về giá tài sản bảo đảm hoặc định giá thông qua tổ chức định giá tài sản khi xử lý tài sản bảo đảm” và “Việc định giá tài sản bảo đảm phải bảo đảm khách quan, phù hợp với giá thị trường”. Như vậy, việc định giá của tổ chức thứ ba không phải người sở hữu tài sản và không thuộc diện Nhà nước định giá thì phải được hiểu đúng bản chất là hoạt động thẩm định giá. Điều 215 và Điều 69 Bộ luật TTHS quy định “Khi cần xác định giá của tài sản để giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá tài sản” và “Người định giá tài sản là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực giá, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng yêu cầu định giá tài sản theo quy định của pháp luật”. Sau một thời gian dài có nhiều vướng mắc do chưa có khung pháp lý cụ thể, hiện nay, việc định giá tài sản trong TTHS vừa được quy định rõ trong Nghị định số 38/2018/NĐ-CP[14]. Nếu coi việc định giá tài sản trong TTHS về bản chất là định giá do Nhà nước thực hiện thì không phù hợp với quy định tại Điều 19 Luật Giá về những hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá vì trong nhóm các loại hàng hóa, dịch vụ được quy định tại Điều 19 thì không có trường hợp định giá đối với tài sản trong TTHS.

Thứ tư, do các quy định của pháp luật về giá còn nhiều bất cập dẫn đến việc điều hành Quỹ bình ổn giá xăng dầu chưa hiệu quả.

Hiện nay, các doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu trong nước nắm giữ Quỹ bình ổn giá chứ không phải là cơ quan quản lý nhà nước, dẫn đến việc dư luận hoài nghi về tính minh bạch trong sử dụng và quản lý Quỹ của các doanh nghiệp trong thời gian qua. Theo ý kiến của một số chuyên gia, khi có hiện tượng muốn xả Quỹ bình ổn thì các doanh nghiệp kêu lỗ, đến hết năm tài chính lại công bố lãi lớn để tăng giá trị cổ phiếu[15]. Xét về mặt bản chất, việc trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu từ giá bán lẻ xăng dầu, rồi sau đó xả quỹ để giữ giá xăng không tăng là cách người tiêu dùng tự mình bình ổn giá xăng dầu, chứ không phát huy được vai trò của Nhà nước hoặc của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp đầu mối có thể được hưởng lợi từ nguồn quỹ bình ổn giá xăng dầu giống như vốn tín dụng mà không phải trả lãi, trong khi cơ chế quản lý quỹ và chi phí đầu vào của doanh nghiệp chưa thực sự minh bạch. Chính vì vậy, vai trò bình ổn giá của Quỹ trong thời gian gần đây tỏ ra khá mờ nhạt và đã có nhiều ý kiến đề xuất nên bỏ mô hình quỹ này[16]. Rút kinh nghiệm từ mô hình Quỹ bình ổn giá xăng dầu, Quỹ bình ổn giá điện bán lẻ do Bộ Công thương đề xuất thành lập vào năm 2016 đã không nhận được sự đồng tình từ Chính phủ[17].

Thứ năm, còn một số bất cập trong điều chỉnh hoạt động thẩm định giá của Nhà nước có thể dẫn đến việc lạm dụng công cụ này, ảnh hưởng đến thị trường thẩm định giá.

Theo quy định của Luật Giá, thẩm định giá của Nhà nước có thể được thực hiện trong 4 trường hợp gồm: 1) Mua, bán, thanh lý, cho thuê tài sản nhà nước hoặc đi thuê tài sản phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; 2) Không thuê được doanh nghiệp thẩm định giá; 3) Mua, bán tài sản thuộc bí mật nhà nước; 4) Mua, bán tài sản nhà nước có giá trị lớn mà sau khi đã thuê doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan hoặc người có thẩm quyền phê duyệt thấy cần thiết phải có ý kiến thẩm định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền[18]. Khi xây dựng chế định thẩm định giá của Nhà nước, Ban soạn thảo Luật Giá đã giải thích, sở dĩ cần đến thẩm định giá của Nhà nước là để đáp ứng hai mục tiêu chính: một là, những trường hợp không nên để thẩm định giá cho doanh nghiệp thực hiện do yếu tố bí mật hoặc tầm quan trọng của tài sản cần thẩm định; hai là, khi doanh nghiệp thẩm định giá không có nhu cầu thực hiện (ví dụ những tài sản giá trị nhỏ, nhưng chi phí thẩm định lớn) thì cần Nhà nước phải đứng ra là người thực hiện[19].

Tuy nhiên, với quy định như trên, phạm vi có thể sử dụng thẩm định giá của Nhà nước là rất rộng với tài sản nhà nước, hầu như bao trùm toàn bộ các loại tài sản công thuộc diện Nhà nước quản lý, đồng thời thẩm định giá của Nhà nước cũng có thể thẩm định đối với tài sản đang thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức khác nếu Nhà nước đi thuê hoặc mua, điều hoàn toàn ngược lại với thẩm định giá thông thường khi chủ thể có nhu cầu thẩm định giá bắt buộc phải là chủ sở hữu của tài sản thẩm định giá. Tuy nhiên, trong Nghị định số 89/2013/NĐ-CP, trường hợp “không thuê được doanh nghiệp thẩm định giá” cần được hiểu là chỉ áp dụng đối với tài sản nhà nước, chứ không phải với tài sản của các chủ sở hữu khác như lý do mà Ban soạn thảo dùng để thuyết phục khi xây dựng chế định thẩm định giá của Nhà nước[20].

Ngoài ra, một số nội dung quy định đối với Hội đồng thẩm định giá của Nhà nước (sau đây gọi tắt là Hội đồng) cũng còn nhiều hạn chế cả về chất lượng lẫn phương thức thực hiện.

Về chất lượng, yêu cầu của pháp luật là Hội đồng cần có tối thiểu một thành viên đã qua đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá theo quy định của Bộ Tài chính hoặc đã có bằng tốt nghiệp cao đẳng, đại học, sau đại học chuyên ngành vật giá, thẩm định giá[21], nhưng lại có thể thẩm định tài sản có giá trị lớn mà đã được doanh nghiệp thẩm định giá thẩm định[22] (trong khi người thẩm định tại doanh nghiệp bắt buộc phải là 02 thẩm định viên về giá đã được cấp chứng chỉ thông qua kỳ thi thẻ thẩm định viên được xem là rất khó hiện nay). Trong khi đó, Hội đồng lại làm việc tập thể và quyết định theo đa số, không phụ thuộc vào trách nhiệm và kiến thức chuyên môn của từng thành viên[23]. Sẽ là một dấu hỏi lớn nếu Hội đồng chỉ có một thành viên duy nhất được đào tạo nhưng lại thuộc về nhóm thiểu số khi quyết nghị, mặc dù pháp luật cho phép thành viên không đồng ý vẫn có quyền bảo lưu ý kiến trong biên bản, nhưng không tác động gì đến quyết định của Hội đồng. Mặt khác, Hội đồng cũng có quyền thuê thẩm định giá đối với chính tài sản mà mình đang thẩm định giá để có thêm thông tin[24], điều đó cho thấy việc thành lập Hội đồng thẩm định giá trong trường hợp này là không cần thiết.

3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giá

Để hoàn thiện pháp luật về giá, chúng tôi cho rằng:

Một là, cần thống nhất nguyên tắc áp dụng pháp luật về giá trong đó Luật Giá được xem là văn bản pháp luật chuyên ngành về lĩnh vực giá. Các loại giá cụ thể cần được quy định dựa trên (và phù hợp với) Luật Giá. Việc tồn tại cùng một lúc nhiều văn bản luật điều chỉnh các loại giá cụ thể là nhu cầu thực tế, do đó cần thống nhất nguyên tắc áp dụng để có thể ban hành các văn bản pháp luật cũng như phối hợp quản lý sao cho có hiệu quả nhất.

Hai là, cần phân định cụ thể về thẩm quyền quản lý giá theo hướng hạn chế việc “chia cắt” một cách cơ học như hiện nay.

Việc phân định thẩm quyền cần xác định rõ đối với từng hoạt động trong lĩnh vực giá, theo đó, ở Trung ương thì cơ quan chủ trì là Bộ Tài chính (trừ một số lĩnh vực đặc biệt), còn địa phương, UBND cấp tỉnh chỉ thực hiện những quyền hạn cụ thể theo luật (chứ không phải văn bản dưới luật), đồng thời đảm bảo không can thiệp vào giá cả hàng hóa, dịch vụ (trừ giá dịch vụ công, bảng giá đất và giá đất cụ thể theo quy định của pháp luật và nằm trong khung giá do cơ quan có thẩm quyền quy định). Việc hạn chế quyền hạn của địa phương trong điều hành giá sẽ góp phần đảm bảo mặt bằng giá cả của cả nước, hạn chế tình trạng khác biệt về giá giữa các địa phương dẫn đến sai lệch về hoạt động đầu tư cũng như tiêu dùng.

Ba là, cần thống nhất về cách tiếp cận hoạt động thẩm định giá trong các lĩnh vực cụ thể, thay vì gọi là “định giá” hoặc “tư vấn xác định giá” như hiện nay.

Như đã phân tích, tư vấn xác định giá đất chính là thẩm định giá đối với quyền sử dụng đất. Việc xác định đúng nội hàm của hình thức dịch vụ này mới đảm bảo cho việc áp dụng các chuẩn mực (tiêu chuẩn) thẩm định giá vào hoạt động thẩm định giá quyền sử dụng đất một cách khoa học, tránh việc có nhiều văn bản pháp luật cùng điều chỉnh một loại hình dịch vụ này dẫn đến khó áp dụng. Đối với Bộ luật Dân sự (Điều 306) và Bộ luật Tố tụng hình sự (Điều 215 và 69), trong quá trình hướng dẫn hoặc giải thích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì nên xác định khái niệm “định giá” trong nhiều trường hợp cần được hiểu là “thẩm định giá”, đồng thời về lâu dài khi sửa đổi, bổ sung các văn bản này thì cần định danh đúng là “thẩm định giá”.

Bốn là, cần nghiên cứu thay đổi cơ chế thành lập, quản lý và điều hành đối với Quỹ bình ổn giá xăng dầu theo định hướng sau: i) Quỹ Bình ổn giá xăng dầu cần được thành lập tập trung, hoặc có tư cách pháp nhân và bộ máy quản lý riêng, hoặc giao cho Bộ Tài chính quản lý; ii) Việc trích lập Quỹ bình ổn phải theo nguyên tắc nhiều bên cùng tham gia, trong đó doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu, doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu và người tiêu dùng cùng đóng góp theo tỷ lệ nhất định; iii) Việc điều hành Quỹ bình ổn phải có sự tham gia của cơ quan đại diện bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng; iv) Nguồn thu nhàn rỗi của Quỹ sẽ được đầu tư an toàn như gửi tổ chức tín dụng, mua trái phiếu và có thể cho doanh nghiệp xăng dầu vay theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.

Năm là, cần sửa đổi, bổ sung các quy định về thẩm định giá của Nhà nước nhằm đảm bảo hoạt động hiệu quả hơn. Trước hết, cần sửa đổi khoản 1 Điều 44 của Luật Giá để đảm bảo việc thẩm định giá trước tiên là dành cho các doanh nghiệp thẩm định giá, tổ chức thẩm định giá nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. Chỉ trong trường hợp không thuê được doanh nghiệp thẩm định giá thì mới sử dụng đến thẩm định giá của Nhà nước. Đồng thời, hướng dẫn đúng phạm vi của khoản 2 Điều 44, tức là trong trường hợp tài sản của tổ chức, cá nhân có nhu cầu thẩm định nhưng không thể thuê được doanh nghiệp thẩm định giá thì cơ quan có thẩm quyền phải có trách nhiệm tiến hành thẩm định giá nếu tổ chức, cá nhân có yêu cầu và được xem như là dịch vụ công. Đối với Hội đồng thẩm định giá của Nhà nước, cần xác định cụ thể những trường hợp được thành lập Hội đồng, cũng như quy định tiêu chuẩn cao hơn đối với các thành viên Hội đồng. Trong trường hợp chỉ có một thành viên duy nhất được đào tạo về kiến thức thẩm định giá nhưng lại không thuộc nhóm đa số, thì kết quả thẩm định giá không được thông qua và Chủ tịch Hội đồng phải báo cáo với cơ quan có thẩm quyền thành lập Hội đồng để xử lý./.

Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 15/2018.

TS. Trần Vũ Hải – ThS. Đào Ánh Tuyết

 


[1]Indrani Thuraisingham, “Price Control and Monitoring in Developing Countries”,www.consumersinternational.org, 2010, truy cập ngày 15/4/2018.

[2]Fiona M.Scott Morton, “The Problems of Price Controls”,   https://www.cato.org/publications/commentary/problems-price-controls, truy cập ngày 8/8/2017

[3] Robert L.Schuettinger and Eamonn F. Butler, “Forty Centuries of Wage and Price Controls, How not to fight inflation”,1979, trang 29.

[4]Fiona M.Scott Morton, đã dẫn.

[5] Indrani Thuraisingham, đã dẫn

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.148.

[7] Ban hành kèm theo Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 đã dẫn.

[8] Ban hành kèm theo Thông tư số 28/2015/TT-BTC ngày 06/3/2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành tiêu chuẩn thẩm định giá số 05, 06 và 07.

[9] Luật Giá, Điều 8.

[10] Nghị định số 177/2013/NĐ-CP đã dẫn, Điều 8 khoản 2 điểm đ.

[11] Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, Điều 8 khoản 3 và 4.

[12] Luật Giá, Điều 4 khoản 15.

[13] Cụ thể tại Nghị định số 44/2014/NĐ-CP và Thông tư số 36/2016/TT-BTNMT đã dẫn.

[14]Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong TTHS.

[15] http://www.antv.gov.vn/tin-tuc/kinh-te/bat-cap-trong-quan-ly-kinh-doanh-xang-dau-210022.html

[16] http://cafef.vn/nen-bo-quy-binh-on-gia-xang-dau-20161122141843218.chn

[17]http://www.thesaigontimes.vn/147589/Chinh-phu-khong-cho-phep-lap-Quy-binh-on-gia-dien.html

[18] Luật Giá, Điều 44.

[19] Tờ trình dự thảo Luật Giá, Nguồn: duthaoonline.quochoi.gov.vn

[20] Nghị định 89/2013/NĐ-CP, Điều 23 khoản 1 điểm b.

[21] Nghị định 89/2013/NĐ-CP, Điều 28 khoản 2.

[22] Nghị định 89/2013/NĐ-CP, Điều 23 khoản 1 điểm d.

[23] Nghị định số 89/2013/NĐ-CP, Điều 28 khoản 4.

[24] Nghị định số 89/2013/NĐ-CP, Điều 29 khoản 1 điểm b.

đánh giá bài viết

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Nếu cần BQT hỗ trợ gấp, vui lòng liên hệ hotline 1900.0164 bấm phím 0.