Mô hình tố tụng hình sự tranh tụng là một trong số các mô hình tố tụng hình sự phổ biến trên thế giới. Những quốc gia nổi bật theo mô hình này là Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Singapore, Úc… Mô hình này cũng được đánh giá có nhiều ưu điểm riêng trong việc giải quyết các vụ án hình sự, đặc biệt là bảo đảm sự công bằng, minh bạch trong các hoạt động tố tụng hình sự.
Ở nước ta, Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp[1] đã đặt ra yêu cầu học hỏi kinh nghiệm, đưa những yếu tố tích cực của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng vào áp dụng nhằm nâng cao chất lượng xét xử nói riêng và chất lượng tố tụng hình sự nói chung. Để thực hiện được điều đó, trước tiên, chúng ta cần hiểu rõ và chi tiết về lịch sử, nội dung, cách thức vận hành, ưu điểm, nhược điểm của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng.
Từ khóa: mô hình tố tụng hình sự, tố tụng hình sự, tranh tụng, mô hình tranh tụng, mô hình tố tụng tranh tụng, mô hình thẩm cứu, mô hình thẩm vấn, cải cách tư pháp.
Abstract: Model of adversarial procedure is one of the most common criminal procedure models in the world. The United Kingdom, the United States, Singapore, Australia, etc. are the prominent countries pursuing this model. This model is also considered to have several particular advantages in dealing with the criminal cases, especially the assuarance of equality, transparency in criminal proceedings. In our country, the Resolution No. 49 of the Politburo on Strategy on Judicial Reform has set out the requirements of lessons learnt, taking the advantages of the criminal litigation model into application to improve the quality of the trial in particular and the quality of the criminal proceedings in general. For this purpose, it is firstly requested to fully understand the history, contents, operation method, advantages and disadvantages of the adversarial procedure model.
Keywords: Model of criminal procedure; criminal procedures; litigation; model of adversarial procedure; adversarial model; inquisitorial model, inquisitorial model, judicial reform.
Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đã đặt ra mục tiêu “hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Để đạt được mục tiêu này, nhiều nhiệm vụ đã được đặt ra đối với công tác cải cách tư pháp, trong đó có nhiệm vụ đổi mới phiên tòa xét xử và nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử. Đây được coi là khâu đột phá của hoạt động tư pháp[2]. Với chủ trương như vậy, có thể hiểu rằng, việc đưa các yếu tố tranh tụng vào mô hình tố tụng hình sự (TTHS) cũng sẽ là khâu đột phá nhằm nâng cao chất lượng của TTHS Việt Nam.
Khái niệm “Mô hình TTHS” được hiểu là quá trình diễn ra các hoạt động TTHS được xem xét theo hai khía cạnh: khía cạnh thứ nhất liên quan đến việc phân chia quá trình đó theo các giai đoạn như thế nào và mối quan hệ giữa các giai đoạn đó; khía cạnh thứ hai liên quan đến việc xác định những chủ thể nào tham gia vào từng giai đoạn tố tụng, nhiệm vụ quyền hạn, vai trò của từng chủ thể và mối quan hệ giữa chúng trong từng giai đoạn. Dựa vào sự khác biệt ở từng khía cạnh, người ta phân chia các mô hình TTHS thành các loại khác nhau. Hiện tại trên thế giới có ba mô hình TTHS phổ biến là mô hình tố tụng “tranh tụng” (adversarial procedure), mô hình “thẩm vấn” (inquisitorial model), hay còn gọi là mô hình “thẩm cứu”, và mô hình “pha trộn” (mixed model)[3]. Trong đó, các ưu điểm và yếu tố tích cực của mô hình TTHS tranh tụng đã được giới học giả pháp lý nghiên cứu nhiều và là nguồn cảm hứng cho quá trình cải cách, nâng cao chất lượng TTHS của nhiều quốc gia không có truyền thống tố tụng tranh tụng trên thế giới.
1. Lịch sử hình thành, mục đích và đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng
1.1 Lịch sử hình thành của mô hình tố tụng tranh tụng
Về mặt lịch sử, nếu như mô hình tố tụng thẩm vấn đã tồn tại được hơn tám thế kỷ[4] thì mô hình tố tụng tranh tụng là mô hình khá mới. Theo các nghiên cứu khoa học pháp lý, sự kiện đem lại sự ra đời của yếu tố tranh tụng đầu tiên trong mô hình TTHS là sự ra đời của Đạo luật về phiên tòa xét xử tội phản nghịch (Treason Trials Act) của Vương quốc Anh năm 1696. Đạo luật này lần đầu tiên trao một số quyền tố tụng, trong đó quan trọng nhất là quyền được có luật sư bào chữa cho bị cáo là các chính trị gia cao cấp. Có thể nói, đây là kết quả của quá trình đấu tranh giữa giai cấp tư sản đang lên và Vương triều phong kiến Anh lúc bấy giờ. Đến năm 1730, các quyền tố tụng này được mở rộng ra tới đối tượng thứ dân trong xã hội. Đặc trưng của các phiên xử lúc này là có sự tham gia của các luật sư bào chữa cho bị cáo (tuy còn ở mức độ khiêm tốn). Đến cuối thế kỷ 18, dựa trên học thuyết của John Locke, các luật sư đại diện cho tầng lớp thứ dân của Anh lúc đó đã phát triển việc luật sư tham gia phiên tòa xét xử và tranh luận để tìm công lý thành một quan điểm lý luận chính trị trong số những quan điểm mang tính cách mạng thời kỳ bấy giờ[5]. Kể từ đó, quyền được có luật sư bào chữa của bị cáo ngày càng được tôn trọng, vai trò của luật sư trong các phiên tòa xét xử ngày càng cao với tư cách là người bảo vệ một cách tích cực quyền lợi cho bị cáo. Đến khoảng giữa thế kỷ 19, mô hình phiên tòa xét xử tranh tụng đã bắt đầu được hình thành[6].
Trong nửa cuối thế kỷ 19, một loạt các quyền tố tụng khác của bị cáo và luật sư bào chữa tiếp tục được bổ sung vào mô hình TTHS của Anh và các nước thuộc địa. Năm 1848, pháp luật Vương quốc Anh quy định người bị bắt hay tạm giữ có quyền im lặng. Năm 1865, Đạo luật TTHS (Criminal Procedure Act) được ban hành và trao cho luật sư bào chữa quyền có lời tranh luận cuối cùng tại phiên tòa xét xử mà trước đó không cần phải trình bằng chứng bào chữa. Đến cuối thế kỷ 19, Đạo luật về chứng cứ của người bị tạm giam, tạm giữ (Prisoners’ Evidence Act) được ban hành và lần đầu tiên trao cho bị cáo quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, khai trong các phiên tòa xử mình. Đến lúc này, mô hình TTHS tranh tụng đã được định hình ở các quốc gia thuộc khối thông luật (common law), song mới tập trung vào giai đoạn xét xử tại tòa án. Giai đoạn tiền xét xử khi đó vẫn mang nặng tính điều tra, xét hỏi của mô hình thẩm vấn[7].
Thập kỷ 60 của thế kỷ 20 là giai đoạn chứng kiến sự phát triển mới trong mô hình tranh tụng, cụ thể là tại Hoa Kỳ, lần này với sự bùng nổ các quyền tố tụng của luật sư trong giai đoạn tiền xét xử. Với hàng loạt án lệ, Tòa án tối cao liên bang Hoa Kỳ đã trao cho luật sư những quyền tố tụng quan trọng ở cả cấp bang và liên bang như: quyền được tiếp cận luật sư trong giai đoạn tiền xét xử (vụ Powell v.Alabama năm 1932, vụ Brown v. Mississippi năm 1936 và được mở rộng phạm vi áp dụng tới cấp bang trong giai đoạn giữa thế kỷ 20); quyền tiếp cận luật sư của bị can, bị cáo nghèo (vụ Gideon v. Wainwright năm 1963); quyền tiếp cận luật sư của bị can, bị cáo nghèo trong giai đoạn tiền truy tố (vụ Escobedo v. Illinois năm 1964); việc mở rộng áp dụng tới cấp bang quy định không sử dụng một số bằng chứng vi phạm thủ tục tố tụng (vụ Mapp v. Ohio năm 1961); và nghĩa vụ của cảnh sát phải thông báo cho bị can đầy đủ các quyền tố tụng khi bắt họ (vụ Miranda v Arizona năm 1966). Cho đến thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ 20, các quyền này được du nhập ngược trở lại để áp dụng cho giai đoạn tiền xét xử ở Vương quốc Anh. Có thể nói, kể từ đó, mô hình tố tụng tranh tụng đã được hình thành đầy đủ ở các nước thuộc hệ thống thông luật với đầy đủ các đặc điểm như hiện nay[8].
1.2 Mục đích và những đặc điểm cơ bản của mô hình tố tụng tranh tụng
Bất kỳ một mô hình TTHS nào cũng đều có mục đích là tìm ra được sự thật khách quan của các vụ án hình sự. Mục đích này không đồng nghĩa với việc phải tìm ra tội phạm mà là tìm xem thực chất trong vụ án hình sự đó sự việc xảy ra như thế nào. Có thể sự thật là không có hành vi phạm tội nào đã được thực hiện hoặc cũng có thể đã có hành vi phạm tội. Đối với một vụ án hình sự cụ thể thì mục đích của mô hình tố tụng hay nói cách khác là mục đích của các chủ thể tham gia là tìm xem sự thật có phải là bị cáo trong vụ án đó đã phạm tội hay không.
Các học giả pháp lý từ các nước thuộc hệ thống thông luật (common law) cho rằng, đối với mô hình tố tụng tranh tụng, ngoài mục đích tìm ra sự thật khách quan còn một mục đích khác nữa đó là bảo đảm sự công bằng (fairness) trong thủ tục tố tụng. Thực chất, “công bằng” vừa có thể được coi là một mục đích của mô hình tố tụng tranh tụng vừa có thể được coi là cách thức mà mô hình tố tụng này sử dụng để đạt được mục đích cuối cùng là tìm ra sự thật khách quan. Để so sánh, có thể thấy rằng, mô hình tố tụng thẩm vấn cũng có mục đích tìm ra sự thật khách quan của vụ án hình sự và cách thức mà họ áp dụng để đạt được mục đích đó là huy động các cơ quan tố tụng của nhà nước đi tìm tất cả các bằng chứng có thể để xác định sự thật khách quan; trong khi đó, mô hình tranh tụng chủ trương tìm ra sự thật khách quan bằng cách tạo ra quy trình thủ tục thật công bằng để các chủ thể đi tìm sự thật theo cách của mình, từ đó, một người xét xử độc lập, tức là tòa án mà trực tiếp là bồi thẩm đoàn, xác định ra sự thật chân chính của vụ án. Chính vì vậy, mô hình tranh tụng thường được coi là dựa trên thuyết “đối kháng” (fight theory), còn mô hình tố tụng thẩm vấn được coi là dựa trên thuyết “sự thật” (truth theory). Nếu mô hình tranh tụng dựa vào sự va chạm của hai phiên bản sự thật (của luật sư và của công tố viên) để tìm sự thật đích thực thì mô hình thẩm vấn dựa vào trí tuệ của những người chuyên nghiệp, gồm điều tra viên, công tố viên và thẩm phán để tìm ra sự thật khách quan của vụ án[9].
Chính quan niệm về mục đích và cách thức đi đến mục đích của mô hình tố tụng tranh tụng đã làm cho mô hình này có một số đặc điểm cơ bản khác như sau:
Thứ nhất, tinh thần cốt lõi của mô hình tố tụng tranh tụng luôn luôn là thủ tục công bằng (fair procedures), trong đó bắt buộc có các yếu tố như: xét xử bằng lời nói (oral hearing), thẩm tra chéo nhân chứng (cross-examination) và nguyên tắc đối tụng công bằng (equality of arms).
Thứ hai, vì quá đề cao yếu tố công bằng trong thủ tục tố tụng nên mô hình tranh tụng dường như thiên về bảo vệ các lợi ích cá nhân trong các vụ án hình sự. Trong mô hình này, một hành vi phạm tội được xem là xâm hại lợi ích cá nhân của các bên trong vụ án hình sự và việc trừng trị tội phạm là để bảo vệ lợi ích cá nhân của bên bị thiệt hại. Trong khi đó, mô hình tố tụng thẩm vấn luôn coi một tội phạm hình sự ngoài việc xâm hại tới lợi ích cá nhân còn xâm hại tới lợi ích của cộng đồng, vì thế trừng trị tội phạm ngoài việc bảo vệ lợi ích cá nhân của đương sự trong vụ việc còn nhằm bảo vệ lợi ích cộng đồng[10]. Chính vì quan điểm “lợi ích cá nhân” mà mô hình tố tụng tranh tụng luôn coi việc nhận tội của bị can, bị cáo là lý do để chấm dứt giải quyết vụ việc. Việc cho phép đàm phán nhận tội (plea bargaining) có thể được coi là một ví dụ minh họa điển hình.
Thứ ba, trong mô hình tố tụng tranh tụng không tồn tại một “hồ sơ hình sự” theo nghĩa sử dụng trong mô hình tố tụng thẩm vấn. Trong giai đoạn tố tụng trước xét xử, bên buộc tội và bên bào chữa đều có quyền lập hồ sơ bao gồm các chứng cứ bản thân họ thu thập được về vụ việc. Với lợi thế tự nhiên trong hoạt động điều tra của mình, hồ sơ do bên buộc tội lập thường là hồ sơ chính và có nhiều chứng cứ nhất. Mặc dù vậy, tất cả các bộ hồ sơ này đều chỉ phục vụ mục đích sử dụng cá nhân. Khi ra phiên tòa xét xử, cả hai bộ hồ sơ đều không đương nhiên có giá trị chứng cứ bởi vì chỉ có chứng cứ nào được trình bày và thẩm tra tại tòa bằng lời nói mới được sử dụng để định tội[11].
Thứ tư, trong mô hình tố tụng tranh tụng, quyền được im lặng của bị cáo được tuyệt đối tôn trọng. Đối với mô hình này, bên buộc tội là bên có trách nhiệm chứng minh bị cáo có tội, còn bản thân bị cáo không có trách nhiệm phải chứng minh mình vô tội. Chính vì thế, lẽ đương nhiên là bị cáo không phải trình bày hay thanh minh trước tòa. Việc bị cáo không thanh minh cho bản thân không phải là dấu hiệu của việc bị cáo có thể đã phạm tội.
Thứ năm, mô hình tố tụng tranh tụng có các quy định rất phức tạp và chặt chẽ về các chứng cứ có thể được sử dụng tại phiên tòa xét xử. Trong đó có các quy định như không được sử dụng các chứng cứ gián tiếp (hearsay), chứng cứ nhằm kích động bôi xấu bị cáo, đương sự hay người làm chứng (inflamatory), hoặc chứng cứ nhằm đánh vào tình cảm của bồi thẩm đoàn (gruesome). Các chứng cứ được thu thập mà vi phạm thủ tục tố tụng, ví dụ khám nhà khi chưa có lệnh, xét hỏi khi chưa thông báo quyền v.v.. cũng không được sử dụng theo thuyết “cây của quả độc” (fruit of poison tree)[12]. Sở dĩ mô hình tranh tụng có quy định chặt chẽ về chứng cứ như vậy là bởi vì người thực tế đưa ra phán quyết định tội, tức là đoàn bồi thẩm, là những người không có kiến thức pháp luật và cũng không có nghiệp vụ xét xử, trong khi đó luật sư bào chữa và công tố viên là những người chuyên nghiệp luôn tìm cách chi phối đoàn bồi thẩm. Các quy định chặt chẽ về chứng cứ sẽ giúp cung cấp cho thành viên đoàn bồi thẩm những chứng cứ “sạch” để có thể căn cứ vào đó đưa ra phán quyết định tội một cách chính xác.
2. Quy trình tố tụng trong mô hình tố tụng tranh tụng
Thông thường, các nghiên cứu chia quy trình tố tụng trong mô hình tố tụng tranh tụng thành hai giai đoạn: giai đoạn tiền xét xử và giai đoạn xét xử. Khác với mô hình thẩm vấn, hai giai đoạn này của mô hình tranh tụng khá tách biệt với nhau do không có sự hiện diện của một hồ sơ hình sự thống nhất làm cầu nối giữa hai giai đoạn.
2.1. Giai đoạn tiền xét xử
Giai đoạn tiền xét xử trong mô hình tố tụng tranh tụng thường bắt đầu ngay sau khi khởi tố bị can hay bắt tạm giam, tạm giữ cho đến trước khi vụ việc được đưa ra xét xử tại tòa án. Các chủ thể tham gia giai đoạn này bao gồm: tòa án, cơ quan điều tra, cơ quan công tố và luật sư bào chữa[13].
Cơ quan điều tra thường là cơ quan đầu tiên biết về việc phạm tội, tiến hành điều tra ban đầu và ra quyết định khởi tố. Một khi bị khởi tố thì bị can đã có quyền mời luật sư và luật sư đã có thể tham gia ngay vào quá trình tố tụng. Khi bắt bị can, cơ quan điều tra cũng phải thông báo cho bị can toàn bộ các quyền tố tụng của họ. Việc thẩm tra bởi cơ quan điều tra cũng không thể tiến hành đối với bị can nếu như không có sự hiện diện của luật sư[14]. Như vậy là sự tham gia của luật sư vào quá trình tố tụng trong mô hình tranh tụng là khá sớm, có thể nói muộn nhất là cùng lúc với công tố viên[15].
Điểm đặc trưng nhất của giai đoạn tiền xét xử là cả bên bào chữa và bên công tố đều có quyền điều tra như nhau. Cả hai bên đều tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ, phỏng vấn nhân chứng và tự lập hồ sơ hình sự riêng phục vụ mục đích của mình và theo cách mình lựa chọn. Ngoại trừ các quy định liên quan tới việc bảo vệ quyền công dân, pháp luật về quy trình điều tra trong mô hình tố tụng tranh tụng khá lỏng lẻo. Các bên đều có thể tiến hành thu thập chứng cứ theo cách thức riêng của mình[16].
Trong quá trình điều tra và cũng là trong suốt quá trình tố tụng nói chung, luật sư bào chữa và công tố viên đại diện cho những lợi ích khác nhau và có mục tiêu khác nhau. Bên bào chữa bảo vệ lợi ích của bị can và chỉ chuyên tìm những chứng cứ nhằm gỡ tội cho bị can; bên công tố có nhiệm vụ buộc tội nên chỉ chú trọng tới các bằng chứng buộc tội. Bên công tố không có nghĩa vụ phải xem xét các bằng chứng gỡ tội; cũng như bên luật sư có quyền lờ đi các bằng chứng buộc tội thân chủ của mình. Nhưng trong mô hình tranh tụng, công tố và luật sư cũng thường có nghĩa vụ trao đổi thông tin về chứng cứ của mình cho nhau. Đặc biệt là do có lợi thế nghề nghiệp hơn trong việc thu thập chứng cứ, công tố viên có nghĩa vụ phải trao đổi thông tin và hồ sơ hình sự của mình cho luật sư bào chữa[17].
Trong quá trình tiền xét xử, bên bào chữa và bên công tố cũng có thể đàm phán nhận tội. Đây là thủ tục cho phép công tố viên đàm phán với bên bào chữa để bị can nhận một tội nào đó và qua đó đình chỉ thủ tục tố tụng đối với vụ án hình sự đang diễn ra. Thủ tục này được coi là có lợi cho cả hai bên trong quá trình tố tụng. Bên bào chữa thường sẽ nhận một tội nhẹ hơn tội đang bị cáo buộc và do đó không phải chịu rủi ro bị kết án tội đó; còn bên công tố thì có thể đóng lại một vụ việc phức tạp mà chưa chắc mình có thể thắng tại tòa án. Sau khi đàm phán, các bên sẽ cùng nhau tới tòa án để công nhận kết quả đàm phán.
Có thể thấy, nhân vật chính trong quá trình tố tụng tiền xét xử của mô hình tố tụng tranh tụng là công tố viên và luật sư bào chữa, một người đại diện cho nhà nước với mục đích buộc tội và người kia đại diện cho lợi ích của bị can và có mục đích gỡ tội.
Sự tham gia của thẩm phán, hay chính xác hơn là tòa án, trong quá trình tố tụng tiền xét xử là không nổi bật; mỗi khi tham gia, vai trò của tòa án thường là bảo vệ quyền cơ bản của công dân hoặc là để bảo đảm quy trình tố tụng diễn ra công bằng và trôi chảy. Ví dụ, trong vòng 48 tiếng kể từ khi bị bắt, bị cáo phải được đưa ra trước tòa án để xác nhận lại lệnh bắt; nếu luật sư không được công tố viên chia sẻ hồ sơ hình sự thì luật sư có quyền kiện ra tòa án; trong trường hợp có những nhân chứng quan trọng không chịu hợp tác thì các bên cũng có thể yêu cầu tòa án triệu tập nhân chứng đó tới để lấy lời khai trước một Đại bồi thẩm đoàn (Grand jury).
2.2. Giai đoạn xét xử
Trong giai đoạn xét xử, tòa án không đọc hay nghiên cứu trước hồ sơ của vụ án do các bên lập. Trước khi diễn ra phiên tòa xét xử, tất cả những người ngồi xét xử, bao gồm cả thẩm phán và bồi thẩm đoàn, đều chưa biết về nội dung vụ án. Các bên sẽ phải trình bày bằng lời nói chứng cứ của mình và trực tiếp kiểm chứng chúng trước tòa[18]. Như vậy, trong mô hình tố tụng tranh tụng, giai đoạn xét xử gần như tách biệt hoàn toàn khỏi giai đoạn tiền xét xử.
Các chủ thể chính tham gia vào giai đoạn xét xử gồm có tòa án (bao gồm thẩm phán và/hoặc đoàn bồi thẩm), cơ quan công tố và luật sư. Cơ quan điều tra có thể tham dự vào phiên tòa xét xử; song khi đó họ sẽ tham gia với tư cách là nhân chứng và phải tuyên thệ trước lời khai của mình.
Trong mô hình tranh tụng điển hình, thẩm phán cũng không phải là người quyết định về sự thật khách quan của vụ việc, tức là quyết định có tội hay không có tội, mà chỉ quyết định về hình phạt sau khi bị cáo đã bị kết tội. Vì vậy, trong phiên tòa xét xử, thẩm phán im lặng và hầu như không hỏi những câu hỏi liên quan tới nội dung vụ án hay xét hỏi nhân chứng. Thẩm phán chỉ can thiệp vào việc xử án trong các trường hợp sau:
– Khi thẩm phán cần phải hướng dẫn đoàn bồi thẩm về một vấn đề thủ tục, ví dụ như bỏ qua một chứng cứ không hợp lệ hay yêu cầu đoàn bồi thẩm vào nghị án v.v..
– Khi phải quyết định về một vấn đề liên quan tới tính hợp lệ của chứng cứ, ví dụ như nếu một bên phản đối lời xét hỏi đối với nhân chứng, cho rằng lời xét hỏi đó đã vi phạm các quy định về tính hợp lệ của bằng chứng (evidenciary rules).
– Quyết định cho phép hay không cho phép tố quyền của một bên nào đó, ví dụ một bên yêu cầu tòa án triệu tập một nhân chứng nào đó phát sinh tại tòa.
– Quyết định các vấn đề pháp lý khác.
Như vậy có thể thấy rằng, trong mô hình tranh tụng, thẩm phán là người nắm giữ luật lệ, bảo đảm môi trường công bằng cho cạnh tranh giữa bên buộc tội và bên bào chữa, bảo đảm cho “cuộc đấu” giữa hai bên được diễn ra một cách công bằng[19].
Trong mô hình tranh tụng, phiên tòa xét xử hình sự luôn có sự hiện diện của đoàn bồi thẩm bên cạnh thẩm phán chủ tọa. Đoàn bồi thẩm bao gồm mười hai thành viên là những người chọn trong cộng đồng và không bắt buộc phải hiểu biết về pháp luật. Thông thường, họ là những người không có kiến thức pháp luật. Tại phiên xét xử, chính đoàn bồi thẩm là người quyết định bị cáo có tội hay không, tức là quyết định về sự thật khách quan của vụ việc; còn thẩm phán là người quyết định về hình phạt nếu bị cáo bị tuyên có tội.
Các thành viên đoàn bồi thẩm cũng không nghiên cứu hồ sơ vụ án từ trước. Phiên tòa xét xử là lần đầu tiên họ được nghe về vụ án và những gì họ nghe là căn cứ duy nhất để họ ra quyết định về việc bị cáo có tội hay không[20]. Chính vì vậy, bồi thẩm đoàn thường được ví như những tờ giấy trắng mà nội dung viết trên đó thế nào hoàn toàn do bên buộc tội và bên gỡ tội quyết định.
Cho dù so với giai đoạn tiền xét xử, vai trò của tòa án, thông qua thẩm phán, đã trở nên tích cực hơn trong giai đoạn xét xử, song diễn viên chính của giai đoạn xét xử một lần nữa vẫn là các bên đối tụng của vụ án: công tố và bào chữa.
Một phiên tòa xét xử thường bắt đầu bằng thủ tục giới thiệu ngắn gọn do thư ký tòa thực hiện. Sau đó, hai bên đối tụng có lời mở đầu với nội dung là ý kiến của mình về vụ việc. Công tố viên mở đầu trước bằng việc trình bày ngắn gọn ý định của mình là sẽ chứng minh bị cáo phạm tội còn người bào chữa sẽ nói rằng thân chủ mình không phạm tội. Sau thủ tục này, các bên sẽ lần lượt gọi từng nhân chứng, bắt đầu bằng bên buộc tội và sau đó là bên bào chữa. Mỗi nhân chứng phải tuyên thệ mình chỉ nói sự thật và nếu nói sai sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Việc xét hỏi nhân chứng bắt đầu bởi người gọi nhân chứng, sau đó là thủ tục xét hỏi chéo (cross-examination), tức là phía đối tụng sẽ xét hỏi nhân chứng đó. Sau phần xét hỏi là phần tranh luận của các bên, bắt đầu từ bên công tố. Lúc này, các bên sẽ hướng về đoàn bồi thẩm và đưa ra lập luận cho quan điểm của mình.
Trong một phiên tòa, công tố viên và người bào chữa, mà thường là luật sư, là những người trình diễn chính và quyết định diễn biến tại phiên tòa. Chính công tố viên và người bào chữa chứ không phải thẩm phán là người quyết định những vấn đề như: nhân chứng cần triệu tập ra tòa, kể cả giám định viên; trình tự xét hỏi nhân chứng; vấn đề cần hỏi nhân chứng; xác định vấn đề cần làm rõ của vụ án với tòa án; đưa ra tranh luận của mình về vụ án[21].
Trong mô hình tranh tụng, vai trò của bị cáo là hết sức mờ nhạt. Quyền im lặng của bị cáo được tuyệt đối tôn trọng, vì vậy, bị cáo thường không phát biểu gì trong suốt phiên xử, kể cả nói lời cuối cùng trước khi đoàn bồi thẩm nghị án. Khả năng duy nhất để bị cáo trình bày tại phiên tòa là với tư cách nhân chứng tự nguyện, lúc đó bị cáo sẽ phải tuyên thệ là nói sự thật và có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu bị phát hiện nói dối[22].
3. Ưu điểm và nhược điểm của mô hình tố tụng tranh tụng
3.1 Ưu điểm của mô hình tố tụng tranh tụng
Mô hình tố tụng tranh tụng có hai ưu điểm lớn sau đây:
Thứ nhất, mô hình tranh tụng có một quy trình tố tụng, đặc biệt là trong giai đoạn xét xử, thể hiện tính công bằng cao. Điều này được thể hiện qua vai trò bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, giữa công tố viên và luật sư. Cả hai chủ thể này đều có quyền và nghĩa vụ như nhau trong suốt quá trình tố tụng. Thông qua đối tụng giữa công tố viên và luật sư mà tòa án, gồm đoàn bồi thẩm và thẩm phán chủ tọa, phán quyết về sự thật khách quan và định hình phạt.
Sự công bằng mà mô hình tranh tụng mang lại, ngoài tính ưu việt tự nhiên của nó, còn có thể đem lại những tác động tích cực tới chất lượng của quá trình tố tụng. Luật sư có thể tham gia đầy đủ vào quá trình tố tụng nên tòa án có thêm được một nguồn thông tin giá trị để khám phá sự thật khách quan của vụ án. Thay vì chỉ xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ hình sự của mô hình thẩm vấn thì đoàn bồi thẩm của mô hình tranh tụng được tiếp cận chứng cứ của cả bên buộc tội và bên gỡ tội. Sự va đập hai phiên bản sự thật, mặc dù qua lăng kính chủ quan của bên công tố và bên bào chữa cũng có thể giúp tìm ra sự thật khách quan một cách chính xác hơn. Chất lượng tố tụng vì thế cũng có thể được nâng cao hơn.
Trong một mô hình tố tụng tranh tụng có tính công bằng cao, người bào chữa và bị cáo cũng dễ cảm thấy rằng mình đã có một cơ hội tốt và công bằng để đi tìm công lý. Vì vậy, họ sẽ ít có xu hướng kháng cáo hơn.
Thứ hai, với sự công bằng của quy trình tố tụng, mô hình tranh tụng thể hiện ở mức độ cao hơn sự tôn trọng quyền cơ bản của công dân. Vai trò của luật sư giúp giảm đi sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này hết sức quan trọng bởi vì quá trình TTHS là một quá trình hết sức nhạy cảm mà ở trong đó quyền cơ bản của công dân rất dễ bị vi phạm. Cũng chính vì vậy, giới nghiên cứu thường có nhận định chung là ở trong mô hình tranh tụng, quyền được suy đoán vô tội của người dân được tôn trọng hơn so với các mô hình TTHS khác[23].
3.2 Nhược điểm của mô hình tố tụng tranh tụng
Bên cạnh những ưu điểm cơ bản trên, mô hình tố tụng tranh tụng cũng có một số nhược điểm lớn:
Thứ nhất, người có nhiệm vụ xét xử tham gia một cách thụ động vào phiên tòa và là người không chuyên nghiệp, đó chính là thành viên đoàn bồi thẩm. Điều này vô hình chung gây ra phản tác dụng đối với chính ưu điểm thứ nhất của mô hình này.
Thứ hai, việc quá đề cao sự đối tụng giữa các lợi ích cá nhân làm cho mô hình tranh tụng không phản ánh được hết tầm quan trọng của việc bảo vệ lợi ích công cộng trong các vụ án hình sự. Chính điều này dẫn đến việc áp dụng tràn lan hình thức đàm phán nhận tội dẫn tới khả năng bỏ lọt những tội phạm nghiêm trọng có tác động lớn tới trật tự xã hội hoặc việc xét xử chúng có tính giáo dục cao.
Thứ ba, trong mô hình này, năng lực của luật sư có vai trò quyết định tới phán quyết của đoàn bồi thẩm. Điều này dẫn đến tình trạng các luật sư giỏi sẽ được nhiều người muốn thuê và gây nên bất công cho những người nghèo không có điều kiện để thuê luật sư giỏi, vốn nổi tiếng là có chi phí cao, điều này gây nên sự bất công cho người nghèo so với người giàu[24].
Thứ tư, không kiểm soát được thời gian xét xử. Trong mô hình tranh tụng, thẩm phán và đoàn bồi thẩm không biết về vụ án từ trước và cũng không kiểm soát một cách toàn diện đối với thời gian xét xử. Người quyết định thời gian xét xử bao lâu lại chính là các bên đối tụng, những người thường tận dụng thời gian tối đa tại phiên xét xử để thuyết phục đoàn bồi thẩm nghe theo lập luận của mình.
Thứ năm, việc quy định một khung pháp lý chặt chẽ cho việc sử dụng chứng cứ tại tòa nhằm đưa đến cho đoàn bồi thẩm những chứng cứ “sạch” nhất để ra phán quyết đúng đắn nhất. Song, điều này cũng có thể gây nên phản tác dụng là những chứng cứ tuy có giá trị sử dụng cao cho việc xác định sự thật khách quan nhưng lại có thể bị loại bỏ do vi phạm thủ tục, ví dụ lời khai của các nhân chứng gián tiếp hay chứng cứ thu thập được nhưng có thủ tục vi phạm quyền cơ bản công dân. Việc không sử dụng những chứng cứ như vậy có thể dẫn tới khó khăn trong việc đấu tranh chống một số loại tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có tổ chức vốn có cách thức hoạt động tinh vi, phức tạp[25].
Kết luận
Những phân tích trên đây cho thấy, mô hình tố tụng tranh tụng có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Những ưu điểm của mô hình này là rất cơ bản và hữu ích để nâng cao chất lượng công tác tố tụng của các mô hình tố tụng không theo mô hình tranh tụng. Điều này đã được xác nhận bởi xu hướng đưa vào áp dụng một số yếu tố tranh tụng trong một số mô hình tố tụng thẩm vấn truyền thống từ châu Á, châu Âu và cả châu Mỹ Latinh trong những năm gần đây[26].
Tuy nhiên, các yếu tố tranh tụng khi được áp dụng ở các nước khác nhau thường có sự đa dạng lớn và đều được lựa chọn phù hợp với mô hình tố tụng truyền thống của những nước đó. Vì vậy, để có thể đưa ra những đề xuất phù hợp cho Việt Nam, điều cần thiết trước tiên là xác định rõ những nét đặc thù của mô hình TTHS hiện tại của Việt Nam, trên cơ sở đó xác định quan điểm hoàn thiện mô hình tố tụng này với các yếu tố tranh tụng thích hợp./.
Tài liệu tham khảo
- Bộ Chính trị, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 ban hành theo Nghị quyết số 49/NQ-TƯ ngày 2/6/2005.
- Robert Strang, “More adversarial, but not completely adversarial”: Reformasi of the Indonesian criminal procedure code (“Thêm tranh tụng, nhưng không hoàn toàn tranh tụng”: cải cách bộ luật TTHS Indonesia), 32 Fodham Int’l L.R. 188.
- Richard Vogler, A world view of criminal justice (Cái nhìn về tư pháp hình sự trên toàn thế giới), Ashgate 2005.
- James Diehm, The introduction of jury trials and adversarial elements into the former Soviet Union and other inquisitorial countries (Áp dụng các phiên tòa xét xử bằng bồi thẩm đoàn và các yếu tố tranh tụng ở Liên bang Xô viết trước đây và các nước có mô hình thẩm vấn khác), 11 J. Transnat’l L. & Pol’y 1 2001-2002.
- Reter Leask (rapporteur), The relative merits and present day suitability of the adversary (or accusatorial), inquisitorial, mediatorial and other systems of trial for breaches of the criminal law and for the resolution of disputes (Những ưu điểm tương đối và sự phù hợp của các hệ thống xét xử tranh tụng (hay buộc tội), thẩm vấn, hòa giải và các hệ thống khác áp dụng đối với vi phạm pháp luật hình sự và giải quyết tranh chấp), 5 Int’l B. J. 87 1974.
- Sharon Finegan, Pro se criminal trials and the merging of inquisitorial and adversarial systems of justice (Các phiên tòa xét xử có bị can tự bào chữa và sự gặp nhau giữa hệ thống tư pháp tranh tụng và thẩm vấn), 58 Cath. U. L. Rev. 445.
- Phil Fennell, Christopher Harding, Nico Jörg, Ber Swart, Criminal Justice in Europe: a comparative study (Tư pháp hình sự ở Châu Âu: nghiên cứu so sánh), Clarendon Press, 1995.
- Mirjan Damaska, Evidentiary barriers to conviction and two models of criminal procedure: a comparative study (Rào cản chứng cứ đối với việc kết tội và hai mô hình TTHS: nghiên cứu so sánh), 121 U. Pa. L. Rev. 506.
- Damaska, Chú dẫn 11, trang 513, 515; Ennio Amodio và Eugenio Selvaggi, An accusatorial system in a civil law country: the 1988 Italian code of criminal procedure (Hệ thống buộc tội ở các nước dân luật: Bộ luật TTHS 1988 của Ý), 62 Temp. L. Rev. 1211 1989.
- Nói chung trong các mô hình tố tụng tranh tụng, điển hình là mô hình của Anh và Mỹ, chỉ có luật sư đã được đăng ký hành nghề mới có quyền tham gia quá trình tố tụng và đại diện cho bị can trước tòa án.
- Leonard Cavise, Essay: the transition from the inquisitorial to the accusatorial system of trial procedure: why some Latin American lawyers hesitate (Tiểu luận: chuyển đổi thủ tục xét xử từ hệ thống thẩm vấn sang tranh tụng: tại sao luật sư một số nước Mỹ Latinh còn e ngại), 53 Wayne L. Rev. 785.
- Dean Doran và John Jackson, The judicial role in criminal proceedings (Vai trò của tòa án trong TTHS), Oxford-Portland Oregon, 2000, trang 177, 180.
- Carlos Rodringo de la Barra Cousino, Adversarial vs. inquisitorial systems: the rule of law and prospects for criminal procedure reform in Chile (Hệ thống thẩm vấn tương phản với hệ thống tranh tụng: nguyên tắc pháp quyền và triển vọng cải cách thủ tục TTHS ở Chi Lê), 5 Sw. J. L. & Trade Am. 323 1998.
- Ennio Amodio, The accusatorial system lost and regained: reforming criminal procedure in Italy (Hệ thống buộc tội suy tàn và khôi phục: cải cách thủ tục TTHS ở Ý), 5 Am. J. Comp. L. 189 2004.
- Michele Panzavolta, Reforms and counter-reforms in the Italian struggle for an accusatorial criminal law system (Cải cách và phản cải cách vì hệ thống pháp luật hình sự buộc tội ở Ý), 30 N.C.J. Int’l L. & Com. Reg. 577 2004-2005.
[1] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
[2]Mục 2.2, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
[3]Theo Robert Strang, “More adversarial, but not completely adversarial”: Reformasi of the Indonesian criminal procedure code (“Thêm tranh tụng, nhưng không hoàn toàn tranh tụng”: cải cách bộ luật TTHS Indonesia), 32 Fodham Int’l L.R. 188, trang 129.
[4] Richard Vogler, A world view of criminal justice (Cái nhìn về tư pháp hình sự trên toàn thế giới), Ashgate 2005, trang 19.
[5] Vogler, Chú dẫn 4, trang 131.
[6]Vogler, Chú dẫn 4, trang 146.
[7]Vogler, Chú dẫn 4, trang 147.
[8]Vogler, Chú dẫn 4, trang 152-154.
[9]James Diehm, The introduction of jury trials and adversarial elements into the former Soviet Union and other inquisitorial countries (Áp dụng các phiên tòa xét xử bằng bồi thẩm đoàn và các yếu tố tranh tụng ở Liên bang Xô viết trước đây và các nước có mô hình thẩm vấn khác), 11 J. Transnat’l L. & Pol’y 1 2001-2002, trang 6; Reter Leask (rapporteur), The relative merits and present day suitability of the adversary (or accusatorial), inquisitorial, mediatorial and other systems of trial for breaches of the criminal law and for the resolution of disputes (Những ưu điểm tương đối và sự phù hợp của các hệ thống xét xử tranh tụng (hay buộc tội), thẩm vấn, hòa giải và các hệ thống khác áp dụng đối với vi phạm pháp luật hình sự và giải quyết tranh chấp), 5 Int’l B. J. 87 1974, trang 89; Sharon Finegan, Pro se criminal trials and the merging of inquisitorial and adversarial systems of justice (Các phiên tòa xét xử có bị can tự bào chữa và sự gặp nhau giữa hệ thống tư pháp tranh tụng và thẩm vấn), 58 Cath. U. L. Rev. 445, trang 9.
[10]Phil Fennell, Christopher Harding, Nico Jörg, Ber Swart, Criminal Justice in Europe: a comparative study (Tư pháp hình sự ở Châu Âu: nghiên cứu so sánh), Clarendon Press, 1995, trang 52.
[11]Mirjan Damaska, Evidentiary barriers to conviction and two models of criminal procedure: a comparative study (Rào cản chứng cứ đối với việc kết tội và hai mô hình TTHS: nghiên cứu so sánh), 121 U. Pa. L. Rev. 506, trang 517.
[12] Damaska, Chú dẫn 11, trang 513, 515; Ennio Amodio và Eugenio Selvaggi, An accusatorial system in a civil law country: the 1988 Italian code of criminal procedure (Hệ thống buộc tội ở các nước dân luật: Bộ luật TTHS 1988 của Ý), 62 Temp. L. Rev. 1211 1989, trang 1223.
[13]Nói chung trong các mô hình tố tụng tranh tụng, điển hình là mô hình của Anh và Mỹ, chỉ có luật sư đã được đăng ký hành nghề mới có quyền tham gia quá trình tố tụng và đại diện cho bị can trước tòa án.
[14]Finegan, Chú dẫn 9, trang 10.
[15]Fennell, Chú dẫn 10, trang 243.
[16]Fennell, Chú dẫn 10, trang 47, 48.
[17]Fennell, Chú dẫn 10, trang 53.
[18] Fennell, Chú dẫn 10, trang 52; Leonard Cavise, Essay: the transition from the inquisitorial to the accusatorial system of trial procedure: why some Latin American lawyers hesitate (Tiểu luận: chuyển đổi thủ tục xét xử từ hệ thống thẩm vấn sang tranh tụng: Tại sao luật sư một số nước Mỹ Latinh còn e ngại), 53 Wayne L. Rev. 785, trang 5.
[19] Diehm, Chú dẫn 9, trang 6; Fennell, Chú dẫn 10, trang 51, 52; Finegan, Chú dẫn 9, trang 11.
[20]Finegan, Chú dẫn 9, trang 10, 11; Damaska, Chú dẫn 11, trang 536.
[21]Strang, Chú dẫn 3, trang 15; Finegan, Chú dẫn 9, trang 11, 13; Diehm, Chú dẫn 9, trang 6.
[22]Finegan, Chú dẫn 9, trang 12; Damaska, Chú dẫn 11, trang 527, 528.
[23]Finegan, Chú dẫn 9, trang 12.
[24]Xem Doran và Jackson, Chú dẫn 26, trang 175.
[25]Diehm, Chú dẫn 9, trang 10.
[26]Xem Strang, Chú dẫn 3; Vogler, Chú dẫn 4 về việc áp dụng một số yếu tố tranh tụng vào mô hình tố tụng Indonesia và Trung Quốc; Diehm, Chú dẫn 9; Carlos Rodringo de la Barra Cousino, Adversarial vs. inquisitorial systems: the rule of law and prospects for criminal procedure reform in Chile (Hệ thống thẩm vấn tương phản với hệ thống tranh tụng: nguyên tắc pháp quyền và triển vọng cải cách thủ tục TTHS ở Chi lê), 5 Sw. J. L. & Trade Am. 323 1998, Ennio Amodio, The accusatorial system lost and regained: reforming criminal procedure in Italy (Hệ thống buộc tội suy tàn và khôi phục: cải cách thủ tục TTHS ở Ý), 5 Am. J. Comp. L. 189 2004, Michele Panzavolta, Reforms and counter-reforms in the Italian struggle for an accusatorial criminal law system (Cải cách và phản cải cách vì hệ thống pháp luật hình sự buộc tội ở Ý), 30 N.C.J. Int’l L. & Com. Reg. 577 2004-2005, Amodio và Selvaggi, Chú dẫn 12, về việc áp dụng ở Italy, Nga và các nước XHCN ở Đông Âu cũ; Cavise, Chú dẫn 18 về việc áp dụng ở các nước Mỹ Latinh.
Tô Văn Hoà, PGS. TS. Trường Đại học Luật Hà Nội; Vũ Thị Linh, ThS. Trường Đại học Luật Hà Nội
Để lại một phản hồi