Lý lịch dân sự của cá nhân

Lý lịch dân sự của cá nhân

Lý lịch dân sự của cá nhân hình thành từ ba yếu tố: họ và tên, hộ tịch, và nơi cư trú.

I. Họ và tên

Khái niệm. Họ và tên là danh xưng bắt buộc mà một cá nhân phải có để phân biệt với những những cá nhân khác, nhất là khi được xướng lên ở nơi công cộng. Họ và tên bao gồm hai phần: họ, để chỉ định nguồn gốc gia đình; tên (đúng ra là tên và chữ lót hoặc tên đệm), để chỉ định một người không phải là một người khác. Tất nhiên, chỉ họ và tên thôi chưa đủ để phân biệt các cá nhân trong tất cả mọi trường hợp; nhưng rõ ràng, trong hầu hết các quá trình giao tiếp phổ thông, họ và tên là công cụ phân biệt hữu hiệu nhất.

Họ và tên khác với bí danh, bút danh. Bất kỳ người nào cũng phải có họ và tên, trong khi không phải ai cũng có bí danh, bút danh. Hơn nữa việc đặt họ và tên chịu sự chi phối của các quy tắc được ghi nhận cả trong luật và trong tục lệ, và được đăng ký bắt buộc trong các chứng thư hộ tịch; trong khi việc đặt bí danh, bút danh thường chỉ cần tuân theo các tập quán vùng hoặc nghề nghiệp, không được ghi trong chứng thư khai sinh, và không bắt buộc ghi trong các chứng thư hộ tịch khác. Bí danh, bút danh trong luật Việt Nam cũng có thể được bảo vệ, trong trường hợp người có bí danh, bút danh bị thiệt hại do việc sử dụng bí danh, bút danh của người khác gây ra (BLDS Điều 28 khoản 3).

Ta xem xét hai vấn đề chính: đặt họ và tên; thay đổi họ và tên.

A. Đặt họ và tên

Đặt họ và tên là một quyền đồng thời là một nghĩa vụ đối với mỗi cá nhân. Việc đặt tên chịu sự chi phối của những nguyên tắc riêng so với việc đặt họ.

1. Quyền được đặt họ và tên

Mỗi người có quyền có họ và tên. Nguyên tắc này được chính thức thừa nhận trong luật viết (BLDS Ðiều 28 khoản 1). Quyền có họ và tên được hiểu như quyền được gọi, được xưng hô, quyền tự xưng bằng họ và tên, trong quan hệ với người khác. Tương ứng với quyền có họ và tên, mỗi người có nghĩa vụ có họ và tên: Nghĩa vụ có họ và tên được xác lập trong mối quan hệ giữa cá nhân và Nhà nước: cá nhân phải có họ và tên, vì điều đó cần thiết cho việc quản lý dân cư, cho việc quản lý hộ tịch và lý lịch tư pháp của cá nhân.

Không chỉ có quyền có họ và tên, mỗi người còn có quyền đối với họ và tên của mình. Trong chừng mực nào đó, quyền đối với họ và tên có những đặc điểm của quyền sở hữu[1]: người có một họ và tên  có thể yêu cầu được bảo vệ, trong trường hợp họ và tên của mình bị một người khác sử dụng. Họ và tên còn được bảo vệ như những giá trị tinh thần: người có một họ và tên có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp họ và tên của mình bị bôi nhọ.

Sử dụng họ và tên. Theo BLDS Ðiều 28 khoản 2, cá nhân xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận. Thực ra, cá nhân có nghĩa vụ sử dụng họ và tên thật của mình không chỉ trong việc xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự. Cá nhân chỉ được phép sử dụng họ và tên khác, không phải là họ và tên được ghi trong chứng thư khai sinh, trong những trường hợp mà luật không cấm. Ðặc biệt, họ và tên thật phải được sử dụng trong các giấy tờ giao dịch với cơ quan Nhà nước.

Song, nguyên tắc sử dụng họ và tên thật, được thiết lập như trên, không cứng nhắc. Tục lệ Việt Nam thừa nhận rằng người phụ nữ có chồng sẽ mang họ và tên chồng trong quan hệ với người ngoài gia đình. Tục lệ này có nguồn gốc trong chế độ phụ quyền áp dụng đối với gia đình Việt Nam cổ xưa: người cha trong gia đình là người duy nhất có quyền đại diện cho gia đình trước người thứ ba. Tục lệ hiện đại không còn coi việc người vợ mang tên chồng như là một nghĩa vụ, nhưng tiếp tục thừa nhận quyền của người vợ sử dụng tên chồng trong các giao dịch xác lập với người ngoài gia đình. Có trường hợp người vợ mang tên chồng cả khi tham gia vào các hoạt động chính trị hoặc các hoạt động của bộ máy Nhà nước, chứ không chỉ khi xác lập các giao dịch dân sự hoặc thương mại.

Mặt khác, có những nhân vật được xã hội nhận biết nhờ bí danh, bút danh, biệt danh  nhiều hơn nhờ họ và tên thật. Trong trường hợp này, luật cho phép cá nhân sử dụng bí danh, bút danh, biệt danh khi thực hiện các hoạt động trong những lĩnh vực mà do những hoạt động trong lĩnh vực đó, đương sự trở nên nổi tiếng dưới bí danh, bút danh, biệt danh của mình. Ví dụ: nhà hoạt động chính trị, khi giữ một chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước, có thể ký bí danh, bút danh, biệt danh của mình trong văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính.         

2. Ðặt họ

Nguyên tắc lấy họ cha. Cá nhân, khi sinh ra, được mang họ cha. Trong một số cộng đồng dân tộc ít người ở Việt Nam có thể tồn tại tục lệ cho con lấy họ mẹ. Bởi vậy, BLDS Ðiều 55 khoản 1 quy định rằng “họ của trẻ sơ sinh là họ của người cha hoặc họ của người mẹ theo tập quán…”. Dẫu sao, tục lệ lấy họ mẹ không phổ biến; điều đó có nghĩa rằng tục lệ lấy họ cha mang tính nguyên tắc.

Nguyên tắc lấy họ cha không được xếp vào nhóm các quy phạm của luật mệnh lệnh trong luật thực định. Cha và mẹ có thể thỏa thuận cho con mang họ mẹ (Ðiều 55 khoản 1). Từ câu chữ của luật viết, có thể tin rằng, một khi có cha hoặc mẹ, thì con chỉ có thể mang họ của một trong hai người: cha, mẹ không thể cho con mang một họ thứ ba nào khác.

Do nguyên tắc lấy họ cha mà: 1 – Tất cả các con cùng cha đều có cùng một họ; 2- Họ được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác bởi những người có giới tính nam: con gái cũng mang họ cha, nhưng không thể chuyển giao họ đó cho con trai của mình, nếu không có thỏa thuận khác giữa cha và mẹ.

Ðặt họ cho trẻ bị bỏ rơi. Luật viết hiện hành không có quy định về việc đặt họ cho trẻ bị bỏ rơi. Trong trường hợp có người nhận nuôi trẻ bị bỏ rơi, thì theo quy định của luật, họ và tên của người nhận nuôi được ghi vào các ô dành cho cha, mẹ trong giấy khai sinh (Nghị định số ngày Ðiều 21 đoạn chót). Ðiều đó cho phép nghĩ rằng trẻ bị bỏ rơi trong trường hợp này sẽ mang họ của người cha nuôi (nếu có đủ cha, mẹ nuôi hoặc chỉ có cha nuôi) hoặc họ của mẹ nuôi (nếu chỉ có mẹ). Nhưng trong trường hợp không có ai nhận nuôi trẻ bị bỏ rơi, thì cơ quan hộ tịch vẫn phải đăng ký khai sinh: hẳn khi đó chính cá nhân, tổ chức nhận nuôi dưỡng cùng với cơ quan hộ tịch phải chọn cho trẻ bị bỏ rơi một họ, theo tập quán của nơi đăng ký khai sinh[2]. Thông thường, họ được lựa chọn trong trường hợp này là họ được mang bởi đa số hoặc nhiều cư dân trong vùng nơi phát hiện đứa trẻ hoặc bơi đăng ký khai sinh cho đứa trẻ.

3. Ðặt tên

Tên ở Việt Nam đi sau họ và được sử dụng để xưng hô, cả trong quan hệ xã giao hoặc gia đình, bè bạn, và cả theo nghĩa nghiêm trang lẫn theo nghĩa thân mật[3].

Nguyên tắc tự do đặt tên. Khác với họ (được đặt theo họ cha, họ mẹ hoặc theo quyết định của cơ quan hộ tịch, trong trường hợp khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi và không có người nhận nuôi), tên của cá nhân do người khai sinh cho cá nhân lựa chọn theo ý mình. Tục lệ có can thiệp vào việc đặt tên, còn luật viết chưa có quy định cụ thể ở điểm này. Thông thường, cá nhân được đặt tên lựa chọn giữa các tên thông dụng (Hùng, Dũng, Minh, Hồng, Tuyết,…). Những tên lạ cũng có thể được chấp nhận. Có những tên rất buồn cười cũng được ghi nhận; nhưng, dù luật không chính thức cấm, có vẻ như không thể đặt tên cho cá nhân bằng những từ dùng để chưởi rủa hoặc bằng những từ thuộc nhóm ngôn ngữ hạ cấp[4].

Trên nguyên tắc, tên được đặt, trong khung cảnh của thực tiễn và tập quán hộ tịch, phải là tên bằng tiếng Việt, đối với người được khai sinh mang quốc tịch Việt Nam và thuộc dân tộc kinh. Người thuộc dân tộc thiểu số hoặc người nước ngoài có thể mang tên phù hợp với ngôn ngữ của dân tộc mình, của nước mình; nhưng nếu chữ viết của ngôn ngữ đó không phải là chữ Latinh, thì tên đó phải được phiên âm bằng chữ Latinh[5]. Dẫu sao, không thể coi là trái pháp luật hoặc trái đạo đức một nguyện vọng đặt tên bằng tiếng nước ngoài cho người có quốc tịch Việt Nam, nhất là trong điều kiện người được khai sinh có mang dòng máu của dân tộc sử dụng ngôn ngữ có tên đó. Cá biệt, có trường hợp tên đọc được theo tiếng Việt, nhưng lại không tuân theo các quy luật cấu tạo từ ngữ tiếng Việt, không được ghi nhận trong từ điển tiếng Việt, cũng không phải là tên có nguồn gốc từ ngôn ngữ của dân tộc ít người hoặc từ tiếng nước ngoài[6]; những tên như vậy cũng có thể được chấp nhận.

B. Thay đổi họ và tên

Thay đổi họ. Theo khoản 1 Ðiều 29 BLDS, việc thay đổi họ được cho phép trong những trường hợp sau đây: 1 – Theo yêu cầu của đương sự, mà việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của mình; 2 – Theo yêu cầu của cha, mẹ nuôi về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi không làm con nuôi và người này hoặc cha, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ tên mà cha, mẹ đẻ đã đặt; 3 – Theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con; 4 – Thay đổi họ cho con từ họ của cha sang họ của mẹ hoặc ngược lại; 5 – Thay đổi họ, tên của người bị lưu lạc từ nhỏ mà tìm ra nguồn gốc truyền thống của mình; 5 – Các trường hợp khác do pháp luật quy định. Luật nói thêm rằng việc thay đổi họ, tên cho người có đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó. Ta có nhận xét:

– Việc thay đổi họ, trong luật Việt Nam, chỉ được thực hiện trên cơ  sở có yêu cầu của những người có liên quan chứ không bao giờ là hệ quả đương nhiên của một giao dịch hoặc một sự kiện pháp lý (ví dụ, nhận con nuôi).

– Trường hợp thứ nhất ghi trên, theo tập quán, chỉ được áp dụng đối với việc thay đổi tên: “họ” trước hết là một giá trị tinh thần, giá trị đạo đức; thay đổi họ với lý do rằng mang một họ nào đó, thì sẽ bị mất danh dự… là một thái độ phủ nhận nguồn gốc và bị coi như phi đạo đức.

– Việc thay đổi họ của người dưới 18 tuổi được thực hiện theo đơn yêu cầu của cha, mẹ (Nghị định số 83-CP ngày 10/10/1998 Điều 53 khoản 2). Đối với người từ đủ 9 tuổi trở lên, thì phải có sự đồng ý của người đó (cùng điều luật).

Thay đổi tên. Việc thay đổi tên được cho phép trong những trường hợp  tương tự như đối với việc thay đổi họ. Việc thay đổi tên thường được yêu cầu trong trường hợp thứ nhất của khoản 1 Ðiều 29 BLDS; trong các trường hợp còn lại, các yêu cầu thường chỉ dừng lại ở việc thay đổi họ.

Thủ tục. Trong luật Việt Nam hiện hành, việc thay đổi họ, tên được thực hiện trong khuôn khổ thủ tục điều chỉnh chứng thư khai sinh về phần họ tên. Điều đó có nghĩa rằng cơ quan có quyền cho phép thay đổi họ tên là UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền (đúng hơn là UBND tỉnh nơi đăng ký khai sinh)[7].

Người muốn xin thay đổi họ, tên phải lập một bộ hồ sơ xin thay đổi nội dung chứng thư hộ tịch (đúng hơn là chứng thư khai sinh), bao gồm: đơn xin thay đổi họ, tên, bản chính giấy khai sinh, sổ hộ khẩu gia đình của người có đơn yêu cầu, chứng minh nhân dân và các giấy tờ cần thiết khác theo quy định tại Điều 29 BLDS. Trong trường hợp không có các giấy tờ này thì phải có giấy tờ hợp lệ khác thay thế. Đơn xin thay đổi họ, tên phải nêu rõ lý do và có xác nhận của UBND xã nơi cư trú, cũng như UBND xã nơi đăng ký khai sinh.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, UBND tỉnh phải ra quyết định của mình. Nếu xét thấy việc thay đổi họ, tên là có lý do chính đáng, thì UBND quyết định cho phép thay đổi họ, tên. Quyết định cho phép thay đổi họ, tên được Sở tư pháp ghi vào sổ đăng ký thay đổi họ, tên và được ghi nhận trên bản chính giấy khai sinh của đương sự.

II. Hộ tịch

Tình trạng nhân thân và chứng thư hộ tịch. Cá nhân được phân biệt với cá nhân khác bằng việc xác định những yếu tố tạo thành tình trạng nhân thân. Quan niệm cổ điển chỉ coi như chất liệu của tình trạng nhân thân những yếu tố gắn liền cá nhân với Nhà nước và gia đình: quốc tịch, quan hệ cha-con, mẹ-con và quan hệ vợ chồng. Trong quan niệm hiện đại, các yếu tố cấu thành tình trạng nhân thân rất đa dạng: tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tôn giáo, tình trạng hôn nhân và gia đình, dân tộc, quốc tịch,… Một số yếu tố cơ bản của tình trạng nhân thân được chính thức ghi nhận trong những giấy tờ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền lập, gọi là chứng thư hộ tịch.

Khái niệm chứng thư hộ tịch. Ðó là văn bản do cơ quan Nhà nước lập nhằm ghi nhận những sự kiện đáng chú ý nhất trong đời sống dân sự của cá nhân. Ba loại chứng thư hộ tịch quan trọng nhất là giấy khai sinh, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn và giấy chứng tử.

Ta lần lượt tìm hiểu tổ chức hệ thống hộ tịch, lập chứng thư hộ tịch, hiệu lực của chứng thư hộ tịch và cải chính hộ tịch.

A . Tổ chức hệ thống hộ tịch

Cơ quan hộ tịch. Theo Nghị định số 83-CP ngày 10/10/1998, cơ quan hộ tịch trong luật Việt Nam hiện hành được phân thành ba nhóm: cơ quan quản lý, cơ quan quản lý và đăng ký và cơ quan giúp việc. Bộ Tư pháp và Bộ Ngoại giao là các cơ quan quản lý hộ tịch. UBND cấp tỉnh là cơ quan quản lý hộ tịch trong phạm vi tỉnh và có trách nhiệm tiến hành việc đăng ký hộ tịch cho người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về hộ tịch. UBND cấp huyện là cơ quan quản lý hộ tịch trong phạm vi huyện. Sở Tư pháp và phòng Tư pháp là cơ quan giúp việc cho UBND cấp mình trong công tác hộ tịch[8]. UBND cấp xã là cơ quan quản lý hộ tịch trong phạm vi xã và có trách nhiệm đăng ký hộ tịch cho người Việt Nam thường trú tại Việt nam theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Cơ quan lãnh sự là cơ quan quản lý hộ tịch trong phạm vi quản hạt lãnh sự và trách nhiệm đăng ký hộ tịch cho cho công dân Việt Nam ở nước ngoài.

Biểu mẫu, sổ sách, hồ sơ hộ tịch. Biểu mẫu, sổ đăng ký hộ tịch được lập theo mẫu thống nhất do Bộ Tư pháp quy định. Sổ đăng ký hộ tịch ở cấp xã được lập thành hai bộ: một bộ lưu tại UBND xã nơi đăng ký; một bộ lưu tại UBND tỉnh cấp trên. Sổ đăng ký hộ tịch ở cấp tỉnh lập thành một bộ và lưu tại UBND tỉnh nơi đăng ký.

B – Lập chứng thư hộ tịch

1. Những người tham gia vào việc lập chứng thư hộ tịch

Người lập chứng thư hộ tịch. Người lập chứng thư hộ tịch là Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền đăng ký hộ tịch. Nghị định số 83-CP ngày 10/10/1998, khi quy định rằng Chủ tịch UBND có quyền ký và cấp các chứng thư hộ tịch, không dự liệu khả năng ủy quyền của Chủ tịch UBND cho một người khác để ký chứng thư hộ tịch. Tuy nhiên, trong thực tiễn, Chủ tịch UBND cấp tỉnh thường uỷ quyền cho Giám đốc Sở tư pháp ký các chứng thư hộ tịch chỉ liên quan đến công dân việt Nam.

Sở Tư pháp là cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo chứng thư hộ tịch do Chủ tịch UBND tỉnh ký và lập, lưu trữ sổ đăng ký hộ tịch. Cán bộ hộ tịch tư pháp là người soạn thảo chứng thư hộ tịch do Chủ tịch UBND xã ký và lập, lưu trữ sổ đăng ký hộ tịch.

Người khai. Người khai là người đến cơ quan đăng ký hộ tịch để xác nhận với người lập chứng thư hộ tịch về việc xảy ra sự kiện cần được ghi nhận bằng chứng thư hộ tịch. Trong việc đăng ký kết hôn, người khai là những người kết hôn. Trong việc khai sinh và khai tử, người khai là người thân tích của người có tên trong chứng thư hộ tịch hoặc một cơ quan, tổ chức có trách nhiệm theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

Người làm chứng. Vai trò của người làm chứng chỉ được ghi nhận trong thủ tục lập một vài loại chứng thư hộ tịch.

– Làm chứng việc đăng ký lại việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi – Ðăng ký lại việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi là một thủ tục đặc biệt được cho phép trong trường hợp việc đăng ký hộ tịch đã được thực hiện, như bản chính chứng thư hộ tịch và sổ gốc đã bị mất hoặc hư hỏng mà không sử dụng được (Nghị định số 83-CP ngày 10/10/1998 Ðiều 63). Người xin đăng ký lại phải làm đơn có xác nhận của hai người làm chứng.(Ðiều 65).

– Làm chứng việc khai tử cho người chết không rõ tung tích – Người phát hiện người chết không rõ tung tích phải báo ngay cho UBND cấp xã hoặc Công an cơ sở nơi có người chết để lập biên bản xác nhận tình trạng người chết không rõ tung tích (Nghị định đã dẫn Ðiều 31). Biên bản phải có chữ ký của người phát hiện ra người chết không rõ tung tích, đại diện Công an xã, đại diện ủy ban nhân dân và hai người làm chứng (cùng điều luật).

– Làm chứng cho việc nhận con – Trong trường hợp một người (chưa nộp đơn xin nhận con) mà tính mạng bị cái chết đe dọa do bịnh tật hoặc do các nguyên nhân khác, không thể đến ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu công nhận người khác là con mình, thì đơn được thay thế bằng văn bản có xác nhận của hai người làm chứng về nguyện vọng nhận con của người đó (Nghị định đã dẫn Ðiều 48).

Người làm chứng phải có đủ các điều kiện quy định tại khoản 3 Ðiều 19 Nghị định đã dẫn, tức là phải:  1 – Ðủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; 2 – Biết rõ sự việc liên quan đến việc làm chứng; 3 – Không có quyền và lợi ích liên quan đến việc làm chứng. Cần lưu ý rằng người làm chứng chỉ ký vào các giấy tờ có tác dụng thiết lập hồ sơ xin đăng ký hộ tịch, không ký vào chứng thư hộ tịch.

2. Các quy định riêng về việc lập giấy khai sinh

Khai việc sinh. Người khai việc sinh, trên nguyên tắc, là cha, mẹ hoặc người thân thích của người được khai sinh (BLDS Ðiều 55 khoản 2). Trường hợp trẻ bị bỏ rơi, thì người khai sinh là cá nhân, tổ chức nhận hoặc được chỉ định tiếp nhận nuôi dưỡng trẻ đó (BLDS Ðiều 56 khoản 2).

Việc khai sinh phải được thực hiện trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày sinh của trẻ; đối với các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, thì thời hạn này là 60 ngày. Trong trường hợp trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, thì việc khai sinh phải được cá nhân, tổ chức nhận nuôi dưỡng thực hiện sau 30 ngày, kể từ ngày phát hiện mà không tìm được cha, mẹ (Nghị định đã dẫn Điều 21).

Trong trường hợp khai sinh trễ hạn hoặc khai lại việc sinh, thì, mặc dù luật không quy định rõ, có thể tin rằng người phải khai vẫn là cha, mẹ, người thân thích, người đại diện theo pháp luật của người được khai sinh hoặc chính người được khai sinh, nếu người này có đủ năng lực hành vi.

Nơi khai sinh là nơi thường trú của người mẹ hoặc nơi sinh của trẻ (Nghị định đã dẫn Ðiều 17 khoản 1). Nếu người mẹ không có nơi thường trú, thì nơi này được thay bằng nơi người mẹ đăng ký tạm trú có thời hạn (Ðiều 17 khoản 2). Trường hợp cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam sinh sống tại Việt Nam còn người kia là người nước ngoài, thì nơi khai sinh cho con là nơi thường trú của cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam (Ðiều 68 khoản 2).

Nội dung giấy khai sinh. Giấy khai sinh được lập theo mẫu do Bộ Tư pháp thống nhất quản lý việc phát hành. Ta chỉ lưu ý một vài điểm:

–    Ngày sinh là ngày trẻ được sinh ra; trong trường hợp khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi và không rõ ngày sinh, thì ngày phát hiện trẻ được coi là ngày sinh (Nghị định đã dẫn Ðiều 21).

–   Nơi sinh của trẻ bị bỏ rơi, trong trường hợp không thể được xác định, thì được quy ước là nơi lập biên bản về việc phát hiện trẻ bị bỏ rơi (Nghị định đã dẫn Ðiều 21).

–    Phần khai về cha, mẹ của trẻ bị bỏ rơi được để trống (Ðiều 21). Trong trường hợp có người nhận trẻ làm con nuôi, thì tên của cha, mẹ nuôi được ghi vào phần khai về cha, mẹ; nhưng phần ghi chú trong sổ đăng ký hộ tịch phải ghi rõ “cha, mẹ nuôi”[9] (cùng điều luật).

3. Các quy định riêng về việc lập giấy chứng tử

Khai việc tử. Người khai việc tử là người thân thích, chủ nhà hoặc cơ quan, đơn vị, tổ chức nơi có người chết (BLDS Ðiều 60 khoản 1). Việc khai tử phải được thực hiện trong vòng 48 giờ kể từ khi người đó chết (Nghị định đã dẫn Ðiều 28). Ðối với khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, thì thời hạn trên không quá 15 ngày (cùng điều luật). Nếu việc khai tử được thực hiện trên cơ sở có quyết định của Toà án tuyên bố là đã chết, thì người khai tử cũng chính là người đã yêu cầu Toà án ra quyết định đó. Người khai tử phải xuất trình được giấy báo tử do cơ quan có thẩm quyền cấp theo quy định tại Ðiều 33 Nghị định đã dẫn.

Trong trường hợp người chết không rõ tung tích, thì, một khi được phát hiện, người phát hiện phải báo ngay cho UBND cấp xã hoặc Công an cơ sở nơi có người chết để lập biên bản xác nhận tình trạng người chết không rõ tung tích, như đã biết. Trong thời hạn 72 giờ, kể từ khi phát hiện người chết, nếu không tìm được người thân thích và được phép của Công an cấp có thẩm quyền, thì UBND nơi có người chết thực hiện việc khai và đăng ký khai tử cùng một lúc (cùng Ðiều 28).

Nội dung giấy chứng tử. Giấy chứng tử được lập theo mẫu do Bộ Tư pháp thống nhất quản lý việc phát hành. Ngày và nơi chết của người chết không rõ tung tích, nếu không xác định được, thì được quy ước là ngày và nơi lập biên bản (Ðiều 34). Ngày chết của người được Toà án ra quyết định tuyên bố là đã chết do Toà án xác định (BLDS Ðiều 91 khoản 2); nếu không xác định được, thì ngày chết được quy ước là ngày quyết định liên quan có hiệu lực pháp luật (cùng điều luật).

4. Các quy định riêng về việc lập giấy chứng nhận kết hôn

Khai đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam sống tại Việt Nam. Các bên kết hôn phải lập tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu do Bộ Tư pháp thống nhất quản lý việc phát hành. Tờ khai phải có xác nhận của cơ quan, đơn vị nơi công tác (đối với cán bộ, công chức, người lao động, lực lượng vũ trang nhân dân) hoặc của UBND xã nơi cư trú (đối với nhân dân) của mỗi bên (Nghị định đã dẫn Ðiều 23). Việc xác nhận tình trạng hôn nhân này có giá trị không quá ba mươi ngày (cùng điều luật). Trong trường hợp một trong hai bên hoặc cả hai bên đã có vợ hoặc chồng nhưng đã ly hôn hay người kia đã chết, thì phải nộp bản sao bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án về việc cho ly hôn hoặc bản sao giấy chứng tử (cùng điều luật).

Các bên kết hôn phải tự mình nộp tờ khai đăng ký kết hôn tại UBND xã nơi cư trú của một trong hai bên, trừ trường hợp vắng mặt có lý do chính đáng, có xác nhận của UBND xã nơi cư trú của người vắng mặt (Nghị định đã dẫn Ðiều 22 và 23).

Sau khi nhận đủ hồ sơ, UBND phải tiến hành xác minh và niêm yết công khai việc xin đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND trong vòng bảy ngày (Nghị định đã dẫn Ðiều 24). Việc xác minh nhằm bảo đảm rằng việc kết hôn không vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Nếu cần xác minh thêm, thì thời hạn kéo dài không quá 7 ngày (cùng điều luật). Việc đăng ký kết hôn chỉ được tiến hành, nếu quá thời hạn trên mà không có ai phản đối việc kết hôn của các đương sự.

Khai đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài. Gọi là kết hôn có yếu tố nước ngoài, việc kết hôn giữa công dân Việt nam vối công dân nước ngoài, giữa công dân Việt Nam với nhau mà có một bên đang định cư ở nước ngoài, và giữa công dân nước ngoài đang sống tại Việt Nam với nhau[10]. Theo đó:

– Cơ quan đăng ký kết hôn là UBND tỉnh;

– Không có thủ tục niêm yết; thay vào đó là thủ tục xác minh do Sở Tư pháp phối hợp với cơ quan Công an thực hiện. Nội dung xác minh tất nhiên cũng xoay quanh những điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp đặc thù, việc xác minh còn nhằm làm rõ những hậu quả có thể có của việc kết hôn đối với an ninh quốc gia.

Nội dung giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn được lập theo mẫu do Bộ Tư pháp thống nhất quản lý việc phát hành. Ngày kết hôn là ngày tiến hành lễ đăng ký kết hôn tại UBND xã (ngày UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài). Giấy chứng nhận kết hôn phải có chữ ký của các bên kết hôn.

C. Thay đổi, cải chính nội dung chứng thư hộ tịch

Khái niệm. Thay đội nội dung chứng thư hộ tịch là việc sửa đổi các ghi chép trong chứng thư đó, một khi có lý do chính đáng hoặc trong những trường hợp khác được pháp luật thừa nhận. Cải chính nội dung chứng thư hộ tịch là việc làm cho các chi tiết trong chứng thư phù hợp với sự thật hoặc hợp lý hơn.

Chứng thư hộ tịch được phép thay đổi, cải chính và nội dung thay đổi, cải chính được phép. Luật hiện hành chỉ dự liệu việc thay đổi, cải chính hộ tịch đối với chứng thư khai sinh. Tất nhiên, một khi nội dung chứng thư khai sinh thay đổi hoặc được cải chính, thì các giấy tờ hộ tịch khác cũng phải được điều chỉnh trên cơ sở áp dụng quy định tại Ðiều 55 Nghị định số 83-CP đã dẫn. Vấn đề là phải làm thế nào trong trường hợp Giấy khai sinh không thay đổi cũng không có cải chính, nhưng các chứng thư hộ tịch khác lại có những chi tiết không phù hợp với Giấy khai sinh (ví dụ: Giấy chứng nhận kết hôn ghi tên, họ hoặc ngày sinh, nơi sinh không đúng so với giấy khai sinh)? Có lẽ, trong trường hợp này, vẫn phải dựa vào Ðiều 55 Nghị định đã dẫn để điều chỉnh các chứng thư hộ tịch khác, trên cơ sở đối chiếu nội dung của các chứng thư đó với nội dung của giấy khai sinh[11]. Mặt khác, Ðiều 55 chỉ nói về việc điều chỉnh các giấy tờ liên quan của người có hộ tịch được thay đổi, cải chính; nhưng nếu các dữ kiện được thay đổi, cải chính được ghi nhận trong giấy tờ của người khác, thì các giấy tờ của người sau này cũng phải được điều chỉnh (ví dụ: nếu tên cha được thay đổi, thì tên cha ghi trên Giấy khai sinh của con phải được điều chỉnh).

Ðối tượng thay đổi bao gồm họ, tên, chữ đệm; đối tượng cải chính bao gồm họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh. Dân tộc của một người, nếu được xác định không đúng, có thể được xác định lại. Nơi sinh không được liệt kê trong các đối tượng được cải chính. Nói chung, các đối tượng có thể được cải chính rất giới hạn, trong khi bất kỳ ghi nhận nào trong chứng thự hộ tịch cũng có thể sai. Không thể nói rằng những chi tiết nào trong giấy khai sinh mà không thể được cải chính hoặc điều chỉnh, thì có thể được sửa chữa trong trường hợp có sai sót, theo thủ tục thông thường: làm thế nào lý giải những cách xử lý không giống nhau đối với các ghi chép khác nhau trên cùng một chứng thư hộ tịch ? Hẳn pháp luật về hộ tịch còn cần được hoàn thiện ở điểm này.

Người yêu cầu thay đổi, cải chính.  Người có tên trong Giấy khai sinh có quyền yêu cầu thay đổi cải chính hộ tịch cho mình. Trong trường hợp người này chưa đủ 18 tuổi hoặc đã thành niên mà không có năng lực hành vi, thì việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người này do cha, mẹ hoặc người giám hộ yêu cầu (Nghị định đã dẫn Ðiều 53 khoản 2). Ðối với người chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó (cùng điều luật).

Thẩm quyền và thủ tục thay đổi, cải chính. Cơ quan có thẩm quyền cho phép việc thay đổi, cải chính là UBND tỉnh nơi cư trú hoặc nơi đăng ký khai sinh của người có đơn yêu cầu (Nghị định đã dẫn Ðiều 52).

Người có yêu cầu thay đổi, cải chính hộ tịch phải nộp đơn kèm theo các giấy tờ cần thiết do luật quy định[12]. Ðơn phải nói rõ lý do và các nội dung xin thay đổi, cải chính, có xác nhận của UBND xã nơi người yêu cầu cư trú (Nghị định đã dẫn Ðiều 53 khoản 1). Trong trường hợp nơi nộp đơn không phải là nơi đăng ký khai sinh, thì đơn phải có xác nhận của UBND xã nơi đăng ký khai sinh (cùng điều luật).

Thời hạn giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch là 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sờ hợp lệ (Ðiều 53 khoản 2). Quyết định cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch được đăng ký vào sổ đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch do Sở tư pháp giữ và được ghi nhận trên bản chính giấy khai sinh của đương sự.

D. Giá trị chứng minh của chứng thư hộ tịch

Chưa có giải pháp chắc chắn. Luật viết hiện hành không có quy định rõ ràng về giá trị chứng minh của chứng thư hộ tịch. Thực tiễn, về phần mình, có xu hướng thừa nhận rằng chứng thư hộ tịch là bằng chứng về những việc đã được ghi nhận trong chứng thư đó: ngày sinh của một người được ghi trong giấy khai sinh là ngày sinh đích thực; việc một người được ghi tên trên giấy chứng tử cho phép tin rằng người có tên đó đã chết;… Luật không phân biệt giá trị chứng minh của chứng thư hộ tịch tuỳ theo ghi chép trên đó được hay không được viên chức hộ tịch đích thân và trực tiếp kiểm chứng.

Tuy nhiên, các bằng chứng được thiết lập bằng giấy khai sinh không phải là bằng chứng tuyệt đối, bởi, như ta đã biết, chứng thư hộ tịch có thể được cải chính hoặc thay đổi nội dung. Mặt khác, cần lưu ý rằng trong trường hợp có tranh cãi về tính xác thực của một ghi nhận nào đó trong giấy khai sinh, thì có vẻ như người bảo vệ giá trị của ghi nhận đó phải chứng minh về tính xác thực của nó, cũng như người bác bỏ ghi nhận đó phải tìm cách chứng minh về tính không xác thực của nó. Nói cách khác, cả hai bên trong một vụ tranh chấp về tính xác thực của một ghi nhận nào đó trong chứng thư hộ tịch đều có trách nhiệm chứng minh ngang nhau trong luật Việt Nam[13].

III. Nơi cư trú

Sự cần thiết của việc xác định nơi cư trú. Hộ tịch giúp phân biệt một cá nhân với một cá nhân khác. Nhưng để xác lập và thực hiện các giao dịch với người khác, cá nhân phải ở trong tình trạng có thể được liên lạc. Cá nhân không liên lạc được không thể được coi là chủ thể hiện thực của quyền và nghĩa vụ pháp lý: người ta sẽ không biết làm thế nào gọi người đó đến để tiếp nhận việc thực hiện một nghĩa vụ hoặc để đáp ứng quyền yêu cầu của một người khác.

Trong quan niệm truyền thống, đời sống pháp lý của cá nhân nhất thiết phải gắn với một nơi chốn nào đó. Luật gọi nơi chốn đó là nơi cư trú. Chế định nơi cư trú là biện pháp định vị cá nhân trong không gian, về phương diện pháp lý. Nơi cư trú phải là một điểm cố định trên lãnh thổ chứ không thể là một điểm di động. Điều đó cũng có nghĩa rằng mỗi người chỉ có một nơi cư trú: một người có nơi cư trú tại nhiều hơn một điểm cố định coi như luôn di động giữa các điểm cố định đó.

Ta lần lượt nghiên cứu chức năng của nơi cư trú và cách xác định nơi cư trú.

A. Chức năng của nơi cư trú

Ðịa chỉ liên lạc của cá nhân và nơi lưu trữ các dữ kiện cơ bản về hộ tịch. Nơi cư trú theo nghĩa pháp lý không nhất thiết là nơi cư trú theo nghĩa vật chất. Con người có thể liên tục thay đổi nơi cư trú vật chất mà vẫn giữ cố định nơi cư trú pháp lý của mình.

Về phương diện công pháp, nơi cư trú giữ vai trò địa chỉ liên lạc giữa cá nhân với Nhà nước, cụ thể hơn, với các cơ quan Nhà nước: nhà chức trách thuế vụ gửi giấy báo thuế đến nơi cư trú của người chịu thuế; hội đồng bầu cử gửi thẻ cử tri đến nơi cư trú của cử tri; hội đồng nghĩa vụ quân sự gửi giấy triệu tập để khám sức khoẻ và lệnh gọi nhập ngũ đến nơi cư trú của người phải thi hành nghĩa vụ quân sự;…

Ở góc độ tư pháp, chức năng của nơi cư trú khá đa dạng:

–   Thông thường, nơi cư trú đầu tiên của cá nhân, sau khi ra đời, cũng là nơi đăng ký khai sinh của cá nhân. Nơi đăng ký kết hôn là nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ; nới đăng ký khai tử là nơi cư trú cuối cùng của người chết; nơi cư trú của người xin thay đổi, cải chính hộ tịch là nơi đăng ký việc thay đổi, cải chính  hộ tịch;… Một cách tổng quát, nơi cư trú của cá nhân là nơi mà người ta có thể thu thập các thông tin về hộ tịch của cá nhân.

–   Trong trường hợp một nghĩa vụ tài sản có tính chất động sản được xác lập và các bên không có thoả thuận về nơi thực hiện nghĩa vụ, thì nơi này là nơi cư trú của người có quyền yêu cầu (BLDS Ðiều 289 khoản 2).

–   Trong các tranh chấp dân sự, Toà án có thẩm quyền giải quyết là Toà án nơi cư trú của bị đơn, trừ trường hợp việc tranh chấp có liên quan đến bất động sản hoặc các bên tranh chấp có thoả thuận yêu cầu Toà án nơi cư trú của nguyên đơn giải quyết (Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989 Ðiều 13).

B – Xác định nơi cư trú

Dựa vào các Ðiều từ 48 đến 53 BLDS, ta nói rằng có bốn cách xác định nơi cư trú: dựa vào quan hệ quản lý hành chính về trật tự xã hội, quan hệ gia đình, quan hệ nghề nghiệp và theo ý chí của đương sự.

1. Xác định nơi cư trú dựa vào quan hệ quản lý hành chính về trật tự xã hội

Nơi cư trú, trên nguyên tắc, là nơi đăng ký thường trú. Theo BLDS Ðiều 48 khoản 1, nơi cư trú của một cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống và có hộ khẩu thường trú. Quy  tắc này có lẽ được áp dụng chủ yếu đối với người có đầy đủ năng lực hành vi hoặc từ đủ mười lăm tuổi trở lên và được phép có nơi cư trú riêng trong những trường hợp dự liệu tại các Ðiều 49 khoản 2 và 50 khoản 2 BLDS: người chưa thành niên dưới 15 tuổi có thể đăng ký thường trú nơi một nơi khác với nơi đăng ký thường trú của cha, mẹ hoặc người giám hộ, nhưng luôn có nơi cư trú (theo luật) trùng với nơi cư trú của những người sau này.

Người có hộ khẩu thường trú ở một nơi nhưng lại thường xuyên sinh sống ở một nơi khác, thì có nơi cư trú ở đâu ? Chưa cò câu trả lời chính thức trong luật thực định. Tuy nhiên, một khi cá nhân có đăng ký thường trú ở một nơi, thì các giao dịch về hộ tịch được thực hiện tại nơi này. Trong Thông tư số 12 ngày 25/6/1999 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị định số 83-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch, thuật ngữ “nơi đăng ký thường trú” được dùng để chỉ “nơi cư trú”. Ðiều đó cho thấy xu hướng của người làm luật muốn khẳng định giải pháp nguyên tắc: nếu cá nhân có nơi đăng ký thường trú, thì, nơi cư trú là nơi đăng ký thường trú, dù cá nhân có thể thường xuyên sinh sống ở nơi khác. Nói cách khác, nơi đăng ký thường trú là tiêu chí thứ nhất để xác định nơi cư trú.

Trường hợp cá nhân không có nơi đăng ký thường trú. Nếu cá nhân không có đăng ký thường trú ở bất kỳ nơi nào nhưng lại thường xuyên sinh sống ở một nơi, thì hẳn nơi này phải được coi là nơi cư trú của đương sự. Nếu cá nhân không có hộ khẩu thường trú và không có nơi thường xuyên sinh sống, thì nơi cư trú của người đó là nơi tạm trú và có đăng ký tạm trú (BLDS Ðiều 48 khoản 1).

Trong trường hợp cá nhân không có hộ khẩu thường trú, không có nơi thường xuyên sinh sống và cũng không đăng ký tạm trú ở một nơi nào đó, thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống, làm việc hoặc nơi có tài sản hoặc nơi có phần lớn tài sản, nếu tài sản của người đó ở nhiều nơi (BLDS Ðiều 48 khoản 2).

2 – Xác định nơi cư trú dựa vào quan hệ gia đình

Nơi cư trú của người chưa thành niên. Theo BLDS Ðiều 49 khoản 1, nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau, thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống. Trong trường hợp người chưa thành niên không có cha và mẹ, thì nơi cư trú của người này được xác định dựa theo các quy định về nơi cư trú của người được giám hộ. Nếu không có người giám hộ, thì hẳn phải xác định nơi cư trú của người chưa thành niên theo luật chung, nghĩa là dựa vào quan hệ quản lý hành chính về trật tự xã hội, đã được phân tích ở trên.

Người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi trở lên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ, nếu được cha, mẹ đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Ðiều 49 khoản 2). Nơi cư trú khác của người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi trở lên sẽ được xác định theo luật chung, dựa vào quan hệ quản lý hành chính về trật tự xã hội.

Nơi cư trú của người được giám hộ. Theo BLDS Ðiều 50 khoản 1, nơi cư trú của người được giám hộ là nơi cư trú của người giám hộ. Và cũng như người chưa thành niên có cha hoặc mẹ, người được giám hộ từ đủ 15 tuổi trở lên có thể có nơi cư trú riêng so với người giám hộ, nếu được người sau này đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Ðiều 50 khoản 2). Dù luật không nói rõ, người được giám hộ đủ 15 tuổi ở đây phải là người chưa thành niên: người thành niên được giám hộ là người mất năng lực hành vi và do đó, không có năng lực bày tỏ ý chí một cách hữu hiệu.

Nơi cư trú của vợ, chồng. Vợ, chồng có thể có nơi cư trú khác nhau, nếu có thoả thuận (BLDS Ðiều 51 đoạn 2). Ðiều đó có nghĩa rằng nếu không có thoả thuận, thì vợ, chồng coi như có cùng nơi cư trú. Ðiều 61 đoạn 1 nói rằng nơi cư trú của vợ, chồng là nơi vợ, chồng sống chung và được xác định theo quy định tại Ðiều 48 BLDS. Tổng hợp các quy tắc vừa nêu, ta có thêm một quy tắc nữa: nếu vợ, chồng không có nơi sống chung mà cũng không có sự thoả thuận rành mạch về việc sống riêng, thì giữa hai người coi như có sự thoả thuận mặc nhiên về việc xác lập nơi cư trú riêng và nơi cư trú của mỗi người trong trường hợp này cũng được xác định theo Ðiều 48 BLDS. Quy tắc sau cùng này cần thiết trong trường hợp vợ và chồng sống trong tình trạng ly thân thực tế mà không cắt đứt quan hệ hôn nhân.

3. Xác định nơi cư trú dựa vào các quan hệ nghề nghiệp

Nơi cư trú của quân nhân, công nhân, viên chức quốc phòng. Ở góc độ nơi cư trú có hai loại quân nhân – quân nhân đang làm nghĩa vụ quân sự và sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp. Luật quy định rằng quân nhân đang làm nghĩa vụ quân sự có nơi cư trú tại nơi đóng quân (BLDS Ðiều 52 khoản 1); còn nơi cư trú của sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp là nơi người này đăng ký thường trú, thường xuyên sinh sống hoặc nơi đăng ký tạm trú (Ðiều 52 khoản 2); chỉ khi nào không thể xác định nơi cư trú theo cách đó, thì sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp mới được coi là có nơi cư trú tại nơi đóng quân (cùng điều luật). Nơi cư trú của công nhân, viên chức quốc phòng được xác định tương tự như đối với quân nhân chuyên nghiệp (cùng điều luật).

Nơi cư trú của người làm nghề lưu động. Những người làm nghề lưu động, theo định nghĩa của luật, là những người hoạt động nghề nghiệp trên tàu, thuyền hoặc phương tiện hành nghề lưu động khác (xe vận tải đường dài, chẳng hạn). Nơi cư trú của những người này được xác định là nơi đăng ký thường trú, nơi thường xuyên sinh sống hoặc nơi đăng ký tạm trú (Ðiều 53). Nếu không xác định được nơi cư trú theo cách đó, thì những người này coi như có nơi cư trú tại nơi đăng ký tàu, thuyền, phương tiện mà trên đó người này hành nghề lưu động (cùng điều luật).

4 – Xác định nơi cư trú theo ý chí của đương sự 

Nơi cư trú của chủ thể của một quan hệ đặc thù. Thông thường, quan hệ đặc thù đó hình thành trên cơ sở hợp đồng. Cứ hình dung: trong một hợp đồng có tác dụng xác lập các quyền và nghĩa vụ về tài sản, hai bên thống nhất lựa chọn một địa chỉ nào đó là nơi liên lạc của người có nghĩa vụ (hoặc của người có quyền yêu cầu), nhằm thực hiện hợp đồng đó. Việc lựa chọn nơi cư trú như thế được cho phép tại BLDS Ðiều 48 khoản 3. Thực ra, đây không phải là nơi cư trú theo đúng nghĩa: mỗi người chỉ có một nơi cư trú; và trong trường hợp nơi cư trú được lựa chọn để thực hiện một hợp đồng nào đó không phải là nơi cư trú được xác định như đã trình bày ở các phần trên, thì nơi cư trú được lựa chọn không phải là nơi cư trú thứ hai của đương sự.

Lợi ích của việc lựa chọn nơi cư trú có giới hạn: không có tranh chấp liên quan đến việc thực hiện hợp đồng, nơi cư trú được lựa chọn là địa điểm liên lạc, trao đổi thông tin giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng; có tranh chấp và cần đến vai trò của Toà án, thì “Toà án nơi cư trú” được hiểu là Toà án nơi cư trú được lựa chọn theo thoả thuận và các giấy tờ, tài liệu được tống đạt, chuyển giao cho đương sự trong vụ án đến nơi cư trú được lựa chọn ấy. Trong mọi trường hợp, việc lựa chọn nơi cư trú để thực hiện hợp đồng không có hiệu lực đối với người thứ ba. Mặt khác, việc thay đổi nơi cư trú đã được lựa chọn chỉ có thể được thực hiện với sự thoả thuận của các bên giao kết hợp đồng. Và một khi nghĩa vụ theo hợp đồng chấm dứt, thì nơi cư trú được lựa chọn cũng biến mất.

đánh giá bài viết

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Lưu ý: Vui lòng không cung cấp SĐT ở Nội dung phản hồi để tránh bị người lạ làm phiền