Tổng hợp những bài giảng hay về kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự của thẩm phán (full chương trình).
Các nội dung liên quan:
- Kỹ năng, kinh nghiệm tiếp công dân khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự
- Kỹ năng trực tiếp kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự
- Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của thẩm phán
Nghiên cứu hồ sơ vụ án đồng thời cũng là quá trình đánh giá các tài liệu đó trong mối quan hệ biện chứng nhằm xâu chuỗi các tình tiết, sự kiện được ghi nhận trong các tài liệu, để xác định bản chất của sự việc, từ đó đề ra hướng giải quyết phù hợp. Vì vậy, việc nắm rõ các kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án, trong dó có án dân sự là rất quan trọng.
Nội dung bài giảng:
- Bài 1: Các nội dung cần quan tâm làm rõ trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án
- Bài 2: Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án
- Bài 3: Kỹ năng chung khi nghiên cứu hồ sơ vụ án
- Bài 4: Kỹ năng về đánh giá chứng cứ
- Bài 5: Kỹ năng đặc thù khi nghiên cứu hồ sơ một số loại vụ án dân sự (phần 1)
- Bài 5: Kỹ năng đặc thù khi nghiên cứu hồ sơ một số loại vụ án dân sự (phần 2)
Tải về máy: Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự của thẩm phán
Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự kỳ 1
Bài 1: Các nội dung cần quan tâm làm rõ trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án
Nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì các đương sự trong vụ án dân sự có nghĩa vụ chứng minh, Tòa án là cơ quan thu thập chứng cứ. Trong quá trình Thẩm phán tiếp nhận tài liệu, chứng cứ do đương sự giao nộp, hoặc Tòa án trực tiếp thu thập tài liệu, chứng cứ, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã ít nhiều nắm được tình tiết của vụ án, nhưng để giải quyết được đúng đắn thì Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án. Nếu không nghiên cứu kỹ hồ sơ thì rất dễ phạm sai lầm. Vì có những vấn đề chỉ khi nghiên cứu kỹ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ của vụ án thì mới hiểu được bản chất của vụ án hoặc mới thấy được cần phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ gì, cần kiểm tra, xác minh thêm vấn đề gì, có cần tạm đình chỉ, đình chỉ hay phải chuyển vụ án cho cơ quan, Tòa án khác giải quyết không? Hoặc đã đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử chưa và xác định trọng tâm phải kiểm tra, làm rõ tại phiên tòa là các vấn đề gì.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự, hôn nhân gia đình phải làm rõ những nội dung cơ bản sau:
Xác định đúng các yêu cầu của đương sự
Bộ luật tố tụng dân sự quy định Tòa án chỉ giải quyết vụ án theo yêu cầu của đương sự. Những vấn đề mà đương sự không yêu cầu thì Tòa án không giải quyết. Đây là phạm vi giải quyết của Tòa án đối với mỗi vụ án cụ thể. Do đó, nghiên cứu hồ sơ vụ án phải rút ra được đương sự yêu cầu giải quyết vấn đề gì. Trong quá trình nghiên cứu phải bám sát vào yêu cầu của đương sự để xem xét.
Xác định quan hệ pháp luật phải giải quyết của vụ án
Quá trình nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Thẩm phán phải xác định được quan hệ pháp luật cần giải quyết.
Quan hệ pháp luật cần giải quyết trong vụ án thường xuất phát từ yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập của vụ án.
Trong một vụ án có thể chỉ có một quan hệ pháp luật mà Tòa án phải giải quyết, nhưng cũng có thể có nhiều quan hệ pháp luật phải giải quyết. Nếu vụ án có nhiều quan hệ pháp luật phải giải quyết, thông thường sẽ có một quan hệ pháp luật có tính chủ đạo là căn nguyên khởi phát vụ án. Từ quan hệ pháp luật này, trên cơ sở yêu cầu của đương sự có thể phát sinh các quan hệ pháp luật khác có liên quan đến quan hệ pháp luật đó.
Việc xác định đúng, đầy đủ quan hệ pháp luật cần phải giải quyết có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cho việc xác định các tài liệu, chứng cứ cần thu thập, xác định được thành phần đương sự của vụ án, xác định được pháp luật cần áp dụng để giải quyết vụ án.
Xác định đầy đủ các đương sự, địa vị tố tụng của đương sự trong vụ án
Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trong một vụ án dân sự bao giờ cũng có nguyên đơn, bị đơn và có thể có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Số lượng đương sự trong một vụ án cụ thể nhiều hay ít phụ thuộc vào tính chất vụ án, loại quan hệ tranh chấp. Việc xác định đầy đủ đương sự, xác định đúng địa vị tố tụng của họ có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cho việc nắm bắt được hết các yêu cầu của đương sự, yêu cầu họ cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án được toàn diện, đầy đủ, hạn chế việc kéo dài giải quyết vụ án.
Xác định được các tài liệu, chứng cứ làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án
Trong vụ án có thể có rất nhiều tài liệu, rất nhiều nguồn chứng cứ được thu thập, các tài liệu, các nguồn chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ có thể có nội dung đối lập, mâu thuẫn nhau. Nghiên cứu hồ sơ, tài liệu Thẩm phán phải xác định được các yêu cầu, các nội dung, các vấn đề, các tài liệu, chứng cứ nào đương sự đã thống nhất, các vấn đề nào đương sự không thống nhất.
Trong số các tài liệu, các nguồn chứng cứ được thu thập, có trong hồ sơ vụ án thì nội dung của tài liệu, của nguồn chứng cứ nào chứa đựng chứng cứ của vụ án. Các tài liệu, các nguồn chứng cứ có trong hồ sơ đã đủ làm rõ các tình tiết của vụ án chưa? Có cần phải thu thập thêm chứng cứ, tài liệu nào? Tài liệu, chứng cứ nào cần phải kiểm tra, xác minh nhằm khẳng định tính xác thực của tài liệu. Chỉ khi làm rõ được các vấn đề nêu trên, thì Thẩm phán mới có thể xác định hướng hoạt động tố tụng tiếp theo phù hợp, như phải triệu tập thêm đương sự, nhân chứng nào? Yêu cầu đương sự nào giao nộp thêm tài liệu, chứng cứ gì? Có tạm đình chỉ, hay đình chỉ không? Hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử? Các vấn đề cần tập trung hỏi, đối chất, làm rõ tại phiên tòa v.v..
Bước đầu xác định các văn bản, các điều luật cần áp dụng và sơ bộ định hướng giải quyết vụ án
Sau khi nghiên cứu xong hồ sơ, tổng hợp, đánh giá các tài liệu, chứng cứ trong vụ án, xác định các quan hệ pháp luật cần giải quyết, bước đầu Thẩm phán phải xác định sơ bộ các văn bản pháp luật, các điều luật (cả nội dung và tố tụng) cần áp dụng và hướng giải quyết từng quan hệ pháp luật trong vụ án, từ đó có hướng chuẩn bị các văn bản pháp luật cần thiết, chuẩn bị cho việc xét xử tại phiên tòa, cho việc nghị án, viết bản án sau này.
Kiểm tra sắp xếp hồ sơ vụ án trước khi nghiên cứu
Muốn nghiên cứu hồ sơ đạt hiệu quả cao, tiết kiệm được thời gian, giúp cho việc xem xét, ghi nhớ, phân tích, đánh giá các tài liệu đó được khách quan, thuận lợi thì phải sắp xếp hồ sơ theo một trật tự nhất định là rất cần thiết. Đặc biệt vụ án có nhiều đương sự, nhiều nhân chứng và họ có nhiều lời khai khác nhau; có nhiều văn bản yêu cầu và kết luận giám định, nhiều văn bản ghi kết quả những lần định giá, thẩm định giá, nhiều văn bản xem xét, thẩm định tại chỗ trong những thời điểm khác nhau v.v.. Hồ sơ có hàng trăm bút lục thì việc sắp xếp hồ sơ khoa học, có đánh số bút lục trước khi nghiên cứu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ đối với Thẩm phán ở cấp sơ thẩm mà còn ý nghĩa tác dụng trong quá trình quản lý, sử dụng của cấp phúc thẩm, cấp giám đốc thẩm và công tác lưu trữ, khai thác sau đó.
Dù việc sắp xếp hồ sơ có ý nghĩa thực tiễn rất cao, nhưng không phải Thẩm phán nào, Chánh án nào cũng có ý thức quan tâm đầy đủ về vấn đề này, đây là vấn đề mà các Thẩm phán cần phải quan tâm lưu ý rút kinh nghiệm.
Việc sắp xếp hồ sơ nên theo từng tập, theo thứ tự thời gian:
Tập một là: các văn bản tố tụng. Trong tập này chia ra theo chủ đề thành nhiều tập nhỏ là tập các giấy báo, giấy triệu tập đương sự, nhân chứng, quyết định đưa vụ án ra xét xử, tập các văn bản, quyết định trưng cầu giám định, định giá.v.v… Mỗi tập nhỏ của từng chủ đề đều phải sắp xếp theo thứ tự thời gian, để tiện nghiên cứu, khai thác.
Tập hai là: tập các tài liệu, các nguồn chứng cứ do đương sự giao nộp hay do Tòa án trực tiếp thu thập. Nếu vụ án có nhiều đương sự, có nhiều lời khai của nhân chứng, có nhiều biên bản định giá, thẩm định giá, nhiều kết luận giám định, nhiều tài liệu khác do đương sự, cơ quan tổ chức, cá nhân cung cấp cho Tòa án v.v.. thì chia ra nhiều tập nhỏ gồm:
– Tập lời khai của nguyên đơn,
– Tập lời khai của bị đơn,
– Tập lời khai của nhân chứng,
– Tập xem xét thẩm định tại chỗ (nếu xem xét, thẩm định nhiều lần; nhiều tài sản, ở nhiều thời điểm khác nhau với nhiều biên bản xem xét, thẩm định thì mới xếp thành tập riêng),
– Tập các biên bản định giá, thẩm định giá
– Tập các tài liệu dùng để giám định, biên bản kết luận giám định,
– Tập các tài liệu, chứng cứ khác.
Sau khi xét xử sơ thẩm thì có tập ba là: các tài liệu về phiên tòa sơ thẩm gồm biên bản phiên tòa, biên bản nghị án, bản án sơ thẩm…
Tập bốn là: gồm các tài liệu về kháng cáo, kháng nghị, tài liệu, chứng cứ đương sự nộp khi kháng cáo…
Tập năm là: Tập phúc thẩm gồm biên bản phiên tòa, biên bản nghị án, bản án phúc thẩm.
Mỗi nguyên đơn, mỗi bị đơn, mỗi nhân chứng (có nhiều lời khai) thì sắp xếp vào một tập và luôn luôn xếp theo thứ tự thời gian.
Khi sắp xếp các tài liệu phải kiểm tra đã đánh số bút lục và có danh mục tài liệu chưa? Nếu hồ sơ chưa được đánh số bút lục, chưa có danh mục tài liệu thì Thẩm phán phải kịp thời bổ sung. Nếu hồ sơ đã được đánh số bút lục, đã có danh mục tài liệu thì Thẩm phán phải kiểm tra xem tài liệu có trong hồ sơ có phù hợp với danh mục tài liệu không, nếu thiếu thì thiếu bút lục nào? phải tìm hiểu nguyên nhân và kịp thời khắc phục.
Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự kỳ 2
Bài 2: Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án
Khi hồ sơ có nhiều bút lục, các đương sự, nhân chứng có nhiều lời khai, các lời khai bổ sung cho nhau hoặc có lời khai trái ngược, mâu thuẫn nhau; số lượng tài sản tranh chấp, yêu cầu Tòa án giải quyết nhiều v.v. thì việc nghiên cứu theo trình tự lôgic sẽ rất có ích cho việc ghi nhớ, sử dụng chúng trong quá trình phân tích, đánh giá và xét xử.
Việc nghiên cứu nên bắt đầu từ đơn khởi kiện, lời khai của nguyên đơn, bị đơn, nhân chứng… các biên bản đối chất và nghiên cứu theo thứ tự thời gian. Nghiên cứu hết lời khai của nguyên đơn này, mới chuyển sang nghiên cứu lời khai của nguyên đơn khác, khi nghiên cứu hết lời khai của nguyên đơn mới chuyển sang nghiên cứu lời khai của bị đơn, nhân chứng. Khi nghiên cứu cần có bản ghi tóm tắt nội dung từng bút lục. Những hồ sơ dày cả trăm trang đến nghìn trang tài liệu, việc ghi tóm tắt sẽ rất có ích trong việc tổng hợp, đánh giá, đối chiếu khi phát hiện có sự mâu thuẫn và thuận lợi khi cần sử dụng tài liệu tại phiên tòa.
Việc nghiên cứu phải toàn diện, khách quan
Việc nghiên cứu hồ sơ một cách khách quan, toàn diện là tiền đề, là điều kiện để Thẩm phán giải quyết đúng đắn vụ án dân sự. Có nghiên cứu khách quan, toàn diện hồ sơ mới có thể nắm bắt được các sự kiện, các tình tiết diễn biến của vụ án đã được phản ánh trong hồ sơ. Về nguyên tắc Thẩm phán phải nghiên cứu, xem xét tất cả các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, không được bỏ qua bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào.
Về phương pháp xem xét, nghiên cứu phải bắt đầu từ việc nghiên cứu riêng biệt từng tài liệu, chứng cứ cụ thể, nhưng đồng thời phải xem xét chúng, đặt chúng trong mối liên hệ với từng tài liệu, chứng cứ khác. Trước, trong khi nghiên cứu cấm kỵ việc có định kiến trước về bất kỳ tài liệu, nguồn chứng cứ nào và cũng không được mặc định trước về hướng xử lý của vụ án. Khi đã có định kiến sẽ làm cho Thẩm phán không xem xét, nghiên cứu kỹ và toàn diện các tài liệu, chứng cứ; do đó sẽ không nhận thức đúng bản chất của tình tiết, sự kiện được thể hiện trong hồ sơ, dẫn đến các quyết định không phù hợp với chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Kỹ năng chung khi nghiên cứu hồ sơ vụ án
Nghiên cứu đơn khởi kiện: Đối với bất kỳ hồ sơ vụ án dân sự nào (vụ án dân sự, hôn nhân gia đình…) tài liệu mà Thẩm phán phải nghiên cứu đầu tiên là đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn khởi kiện của cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của người khác.
Dù trước khi thụ lý, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hoặc người có thẩm quyền khác (có thể là Thẩm phán, có thể là Chánh án) đã xem xét, xử lý đơn theo yêu cầu của Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 sau khi đơn đã đáp ứng đúng quy định của Điều 189 và nguyên đơn đã xuất trình biên lai nộp tạm ứng án phí (đối với trường hợp phải nộp tạm ứng án phí, không được miễn) thì Tòa án mới thụ lý. Dù vậy, qua công tác giám đốc thẩm cho thấy không phải đơn khởi kiện của tất cả các vụ án dân sự đều đã được xử lý tốt. Có vụ đơn khởi kiện không thể hiện đầy đủ, rõ ràng yêu cầu của đương sự, hoặc đơn khởi kiện không thuộc thẩm quyền v.v. vẫn được thụ lý. Do đó, khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán phải đọc kỹ đơn khởi kiện để biết được yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Trong trường hợp Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ thấy yêu cầu của nguyên đơn chưa được thể hiện rõ trong đơn khởi kiện thì phải ghi chép lại để kiểm tra quá trình tố tụng tiếp theo (bản tự khai, biên bản ghi lời khai của nguyên đơn) đã được khắc phục chưa? Nếu chưa được khắc phục thì Thẩm phán cần yêu cầu đương sự trình bày lại cho rõ ràng, đầy đủ yêu cầu của người khởi kiện; kiểm tra vụ án có thuộc thẩm quyền của Tòa án hay thuộc thẩm quyền cơ quan khác, của Tòa án khác không? Nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án vẫn phải kiểm tra đã có đủ điều kiện để khởi kiện chưa? Thời hiệu khởi kiện còn hay hết? Vụ án có thuộc trường hợp đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không? (trừ trường hợp được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật). Người khởi kiện có quyền khởi kiện không? Có đủ năng lực hành vi dân sự không? v.v..
Nếu qua nghiên cứu đơn khởi kiện, kiểm tra các tài liệu thấy có đủ cơ sở xác định vụ án không thuộc thẩm quyền Tòa án, đã hết thời hiệu khởi kiện, người khởi kiện không có quyền khởi kiện, chưa đủ điều kiện khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự… thì Thẩm phán phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự, không cần nghiên cứu tiếp hồ sơ.
Khi đã xác định vụ án thuộc thẩm quyền Tòa án, việc khởi kiện là hợp pháp thì sau khi ghi tóm tắt nội dung khởi kiện vào bản cứu, Thẩm phán tiếp tục nghiên cứu các tài liệu khác.
Nghiên cứu lời khai của đương sự: Nghiên cứu lời khai của nguyên đơn: Tại khoản 1 Điều 244 BLTTDS có quy định: “Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.”
Theo quy định tại Điều 200, 201 BLTTDS thì bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập trước khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Từ các quy định nói trên có thể kết luận đến trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử nguyên đơn cũng có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện. Do đó, việc nghiên cứu xác định yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không chỉ căn cứ vào đơn khởi kiện, mà phải căn cứ vào yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bộ luật tố tụng dân sự không có quy định về thủ tục, yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán không đề cập vấn đề này. Tòa án Việt Nam là Tòa án nhân dân, theo nguyên tắc Tòa án không gây khó cho người dân thì phải hoạt động theo hướng pháp luật không quy định thì các Tòa án khi thụ lý, giải quyết vụ án không được tự đưa ra thêm các yêu cầu về thủ tục đối với người dân. Vì vậy, nguyên đơn có quyền làm đơn khởi kiện để bổ sung, sửa đổi yêu cầu khởi kiện, hoặc trình bày trực tiếp với Tòa án và Thẩm phán phải lập biên bản ghi lại yêu cầu này. Biên bản ghi lời khai này phải được công nhận đó là yêu cầu sửa đổi, bổ sung nội dung khởi kiện hợp lệ của nguyên đơn, Tòa án phải xem xét, giải quyết. Do đó, trong quá trình nghiên cứu lời khai, tài liệu mà nguyên đơn đã giao nộp cho Tòa án, Thẩm phán phải chú ý xem nguyên đơn có sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện không và nguyên đơn đã xuất trình các tài liệu, chứng cứ chứng minh chưa? Nếu nguyên đơn chưa xuất trình, hoặc xuất trình chưa đầy đủ thì Thẩm phán phải hướng dẫn và yêu cầu nguyên đơn giao nộp chứng cứ bổ sung.
Việc nghiên cứu lời khai của nguyên đơn nên tiến hành theo thứ tự thời gian, những bản tự khai, biên bản lấy lời khai trước cần nghiên cứu trước, và cần chú ý ghi chép tóm tắt các nội dung của từng bản tự khai, biên bản lấy lời khai, các yêu cầu của từng nguyên đơn (đối với vụ án có nhiều nguyên đơn) được thể hiện trong các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, đặc biệt chú ý ghi tóm tắt các nội dung mới trong mỗi tài liệu. Nếu qua nghiên cứu hồ sơ thấy nguyên đơn có lời khai mâu thuẫn nhau phải tìm hiểu nguyên nhân, yêu cầu nguyên đơn lý giải việc khai mâu thuẫn đó. Nếu vụ án có nhiều nguyên đơn thì nên nghiên cứu hết lời khai nguyên đơn này mới chuyển nghiên cứu lời khai của nguyên đơn khác.
Trong mỗi trường hợp, sau khi nghiên cứu lời khai của nguyên đơn phải rút ra được một trong các kết luận sau:
– Lời khai của các nguyên đơn đã đủ, rõ chưa? Có điểm gì nguyên đơn khai chưa rõ, còn mâu thuẫn…?
– Có cần yêu cầu nguyên đơn hay một trong số các nguyên đơn phải trình bày thêm, lấy lời khai thêm vấn đề gì? Có cần đối chất giữa các nguyên đơn với nhau hoặc với các đương sự khác không? Vấn đề cần đối chất?
– Có cần yêu cầu nguyên đơn thực hiện việc cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ hay không? Và cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì?
– Nếu nguyên đơn trình bày cơ bản đã rõ và đủ, thì tại phiên tòa cần tập trung vào vấn đề gì và cần ghi rõ yêu cầu đó vào trong bản cứu.
Sau khi nghiên cứu hết lời khai nguyên đơn, Thẩm phán tiến hành nghiên cứu lời khai của các đương sự khác.
Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự kỳ 3
Bài 3: Kỹ năng chung khi nghiên cứu hồ sơ vụ án
Nghiên cứu lời khai của bị đơn
Việc nghiên cứu lời khai của bị đơn cũng được tiến hành theo thứ tự thời gian, nắm chắc các điểm bị đơn thống nhất với nguyên đơn và những điểm khác biệt giữa nguyên đơn và bị đơn. Các tài liệu bị đơn đưa ra để chứng minh. Nếu thấy tài liệu bị đơn đưa ra để chứng minh chưa đầy đủ, chưa rõ thì hướng dẫn cho bị đơn tiếp tục cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ. Sau khi nghiên cứu hết lời khai bị đơn này mới chuyển qua nghiên cứu lời khai bị đơn khác. Nếu bị đơn có yêu cầu phản tố thì phải xem xét yêu cầu đó có đúng là yêu cầu phản tố như quy định ở khoản 2 Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại Điều 12 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể hơn về điều khoản này, nhưng chúng ta có thể tham khảo quy định tại Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP), hay đó chỉ là nội dung thể hiện sự không đồng ý toàn bộ hay một phần yêu cầu của nguyên đơn; ví dụ nguyên đơn cho rằng bị đơn vi phạm hợp đồng mới thực hiện được một phần công việc theo hợp đồng, số tiền bị đơn đã nhận vượt quá so với khối lượng công việc đã làm, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại số tiền đó, còn bị đơn cho rằng đã hoàn thành công việc theo hợp đồng, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, hoặc bị đơn cho rằng số tiền bị đơn đã nhận là chưa đủ so với khối lượng công việc đã hoàn thành, yêu cầu nguyên đơn phải thanh toán tiếp số tiền còn thiếu so với hợp đồng thì đó không phải là yêu cầu phản tố.
Trong trường hợp yêu cầu của bị đơn đúng là yêu cầu phản tố thì quá trình nghiên cứu phải làm rõ bị đơn đã thực hiện thủ tục phản tố theo quy định của Điều 202 Bộ luật tố tụng dân sự chưa? Đó là bị đơn phải tiến hành thủ tục phản tố như thủ tục khởi kiện của nguyên đơn. Nếu qua nghiên cứu hồ sơ thấy bị đơn chưa thực hiện đúng yêu cầu theo Bộ luật tố tụng dân sự quy định, thì Thẩm phán phải hướng dẫn cho bị đơn thực hiện. Nếu hồ sơ thể hiện bị đơn đã được hướng dẫn về thủ tục phản tố, nhưng bị đơn không thực hiện thì sau khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán phải rút ra các căn cứ để đi đến kết luận yêu cầu phản tố của bị đơn không được chấp nhận xem xét, giải quyết trong cùng vụ án. Nếu hồ sơ chưa có các tài liệu đó, thì Thẩm phán phải bổ sung, củng cố tài liệu trong hồ sơ về việc không giải quyết yêu cầu phản tố.
Khi nghiên cứu lời khai của bị đơn, vừa phải chú ý các điểm bị đơn thống nhất với nguyên đơn, đồng thời phải nắm được các điểm bị đơn khai khác nguyên đơn; các điểm bị đơn khai trước và sau mâu thuẫn nhau, những yêu cầu nào của nguyên đơn không được bị đơn chấp nhận và bị đơn đã cung cấp tài liệu, chứng cứ về vấn đề đó chưa? từ đó rút ra được kết luận có cần lấy lời khai tiếp của bị đơn hay nguyên đơn để làm rõ các điểm mâu thuẫn không? có cần hướng dẫn bị đơn cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ không? Có cần đối chất giữa nguyên đơn và bị đơn không? Hay đó là các điểm thứ yếu, chỉ cần ra phiên tòa tập trung làm rõ là đủ và dự liệu cả phương pháp, cách thức làm rõ tại phiên tòa về vấn đề này.
Sau khi nghiên cứu hết lời khai bị đơn, nghiên cứu tiếp lời khai, tài liệu của các đương sự khác.
Nghiên cứu lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án (nếu có)
Khi nghiên cứu lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cần nắm được yêu cầu của họ như thế nào? yêu cầu đó có phù hợp pháp luật hay không?
Việc nghiên cứu lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía nguyên đơn cần chú ý cả điểm đương sự khai thống nhất với nguyên đơn và các đương sự khác, cả điểm khai khác với nguyên đơn nhưng lại thống nhất với các đương sự khác, mối quan hệ của đương sự này với nguyên đơn và các đương sự khác (ví dụ là anh em của nguyên đơn…)
Khi nghiên cứu lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía bị đơn cũng cần có các lưu ý tương tự như trường hợp trên.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phương pháp nghiên cứu tương tự như các đương sự khác.
+ Nếu các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) có người đại diện tham gia tố tụng, phải nghiên cứu lời khai của người đại diện và lời khai của người đại diện của đương sự nào thì xếp vào tập lời khai của đương sự đó. Về lời trình bày, khai báo của người đại diện của đương sự nào được xác định chính là lời khai của đương sự đó.
Nghiên cứu lời khai của nhân chứng, các biên bản đối chất
Khi nghiên cứu lời khai của nhân chứng vừa chú ý về độ tuổi, năng lực, nhận thức, độ chính xác của thông tin, mối quan hệ của nhân chứng với đương sự trong vụ án, vừa chú ý các điểm nhân chứng khai thống nhất với nguyên đơn hoặc bị đơn… và những điểm khai khác hoặc khai mâu thuẫn với các đương sự.
Phải chú ý tìm hiểu nhân chứng biết được các tình tiết, sự kiện, nội dung của vụ án trong hoàn cảnh nào? (trực tiếp chứng kiến, nghe đương sự nào đó nói lại, nghe theo lời kể của người khác…).
Sau khi nghiên cứu lời khai của đương sự và nhân chứng, nhận thấy có điểm chưa rõ hoặc mâu thuẫn phải rút ra có cần tiến hành lấy lời khai tiếp không? Có cần đối chất không? Nội dung cần đối chất? và các đối tượng cần đối chất với nhau (giữa nguyên đơn với nhân chứng hay giữa nguyên đơn, bị đơn với nhân chứng…)
Nếu hồ sơ đã có biên bản đối chất, cần nghiên cứu kỹ các biên bản đối chất và đối chiếu với lời khai của các đương sự, nhân chứng có trong hồ sơ với nội dung các biên bản đối chất để từ đó rút ra được việc đối chất đó đã đúng, đã đủ chưa? Có cần đối chất thêm vấn đề gì?… Trên thực tế có Thẩm phán không biết tiến hành đối chất. Một cuộc đối chất mà nội dung như một buổi lấy lời khai có nhiều người tham gia. Trong biên bản đối chất đó không lý giải, làm rõ các mâu thuẫn thì đó không phải là đối chất, phải tiến hành đối chất lại. Khi đối chất cần nêu rõ các điểm mâu thuẫn nhau, yêu cầu họ trình bày, lý giải, chứng minh về các vấn đề đang có mâu thuẫn (do lời khai mâu thuẫn nhau, mâu thuẫn tài liệu khác).
Nghiên cứu lời khai, tài liệu mà không rút ra được các vấn đề cần xử lý tiếp một cách đúng đắn thì cũng không phải là việc nghiên cứu đã tốt, đã đạt yêu cầu.
Nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ khác
Tùy theo từng loại việc tranh chấp, các đương sự sẽ cung cấp cho Tòa án những tài liệu tương ứng, ví dụ hợp đồng vay tài sản, hợp đồng tặng cho, mua bán tài sản, hàng hóa, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng lao động, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ các tài liệu này, từ đó tùy theo yêu cầu của nguyên đơn, sự thừa nhận hay phản tố của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Thẩm phán phải tập trung nghiên cứu các điểm đó. Nếu khi nghiên cứu lời khai của đương sự, Thẩm phán nhận thấy đã có đương sự yêu cầu giám định, đồng ý nộp tiền giám định chữ viết, chữ ký… trong các văn bản đó mà Tòa án chưa tiến hành thủ tục giám định, thì Thẩm phán phải rút ra kết luận cần phải cho giám định. Nếu hồ sơ đã có văn bản kết luận giám định mà đương sự không thừa nhận kết luận giám định thì Thẩm phán phải xem thủ tục giám định đã thực hiện đúng quy định pháp luật không? Nghiên cứu kỹ nội dung kết luận giám định, phương pháp giám định, lý do đương sự không thừa nhận kết luận giám định đó. Kiểm tra tài liệu, hồ sơ xem đương sự có yêu cầu giám định lại hay không?… để tùy theo yêu cầu của đương sự mà xử lý phù hợp. Trong trường hợp một tài liệu, một sự kiện đã được giám định nhiều lần và các kết luận giám định có nội dung trái ngược nhau, Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ từng bản kết luận giám định để xác định giá trị pháp lý và qua đối chiếu với tài liệu, chứng cứ khác để kết luận nội dung bản kết luận giám định nào là chứng cứ vụ án, có giá trị chứng minh.
Đối với các tranh chấp có liên quan đến bất động sản, có yêu cầu chia hiện vật, khi nghiên cứu phải rút ra được có cần xem xét thẩm định tại chỗ không? Nếu việc xem xét tại chỗ rất cần thì hồ sơ đã có biên bản xem xét tại chỗ chưa? Nếu chưa có phải kịp thời bổ khuyết, nếu hồ sơ đã có bản xem xét thẩm định tại chỗ thì phải xem xét kỹ hình thức và nội dung biên bản xem xét tại chỗ để biết biên bản này đã rõ ràng, cụ thể chưa? Nếu nghiên cứu biên bản xem xét thẩm định tại chỗ mà Thẩm phán không hình dung được bất động sản đó, hoặc có nghi ngờ độ chính xác, có điểm không rõ thì phải hỏi hai bên đương sự, sau khi các đương sự đã trình bày, Thẩm phán thấy biên bản xem xét thẩm định tại chỗ thể hiện không đúng, hoặc Thẩm phán vẫn thấy không rõ, không giúp cho sau này phán quyết được đúng và chính xác thì Thẩm phán phải đến xem xét, thẩm định tại chỗ lại.
Trường hợp vụ án có tài sản phải định giá, Thẩm phán phải nghiên cứu cả hình thức và nội dung biên bản định giá đó xem thành phần định giá có đúng quy định tại Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 không? Các tài sản mà đương sự nêu ra đã được định giá hết chưa, có tài sản nào không được định giá? Vì sao tài sản đó không được định giá? Việc không định giá có hợp lý không? ý kiến của các đương sự về các tài sản không được định giá như thế nào?.v.v… Đối với số tài sản đã định giá, các đương sự có đồng ý với kết quả định giá không? Lý do vì sao đương sự không đồng ý? Có yêu cầu định giá lại không? Nếu hồ sơ có nhiều biên bản định giá, phải nghiên cứu kỹ cả hình thức, thành phần định giá, xem xét kỹ nội dung của từng bản định giá; các tài sản được định giá trong các biên bản có khớp nhau không? Nếu không khớp phải tìm hiểu vì sao? Việc định giá có khách quan không? Có phù hợp với giá thị trường ở thời điểm định giá không? Thời điểm định giá với thời điểm nghiên cứu xem xét và sẽ đưa ra xét xử có quá cách xa nhau không? Từ khi định giá đến thời điểm xét xử có sự biến động mạnh về giá không? Các đương sự có yêu cầu định giá lại hoặc có ý kiến gì khác không?.v.v… để từ đó có hướng xử lý, lựa chọn thích hợp với diễn biến, với tình trạng tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Những vụ có ý kiến của chính quyền cơ sở, đoàn thể, cơ quan, ban ngành mà các ý kiến có sự khác nhau, Thẩm phán cũng phải nghiên cứu hết, không được bỏ qua ý kiến nào. Sau khi nghiên cứu phải rút ra được có cần hỏi lại, lấy lại ý kiến của chính quyền cơ sở, đoàn thể nào không? Có cần lấy ý kiến của cả tập thể… không?
Đối với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập từ bất cứ nguồn nào, nếu qua nghiên cứu thấy việc thu thập tài liệu, chứng cứ đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan thì đều phải nghiên cứu kỹ nội dung các tài liệu, chứng cứ đó thì mới giúp cho Thẩm phán đánh giá chứng cứ khách quan, toàn diện sau khi đã nghiên cứu xong toàn bộ hồ sơ vụ án.
Thông thường việc nghiên cứu hồ sơ theo tuần tự như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, tùy theo diễn biến cụ thể mà có vụ khi đang nghiên cứu lời khai nguyên đơn có thể đối chiếu ngay với lời khai của bị đơn, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản đối chất hoặc các tài liệu khác như bản kết luận giám định, biên bản định giá.v.v…
Trong thực tiễn cho thấy đối với những vụ án phức tạp, hồ sơ dày, việc nghiên cứu tuần tự, hết lời khai nguyên đơn, hết lời khai đương sự này mới chuyển qua nghiên cứu lời khai của đương sự khác là một phương pháp hiệu quả.
Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự kỳ 4
Bài 4: Kỹ năng về đánh giá chứng cứ
Điều kiện cần cho việc đánh giá chứng cứ được chính xác đó là phải có hiểu biết sâu sắc về pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung ứng với đối tượng đang được nghiên cứu (đó là quan hệ pháp luật đang có tranh chấp);
Phải có tích lũy kinh nghiệm, mà kinh nghiệm của mỗi người về đánh giá chứng cứ được tích lũy, được hình thành trong quá trình học tập kinh nghiệm (học trên lớp, học trong thực tiễn), quá trình tự rút kinh nghiệm trong mỗi lần nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ.
Điều kiện đủ cho việc đánh giá chứng cứ đó là phải nghiên cứu kỹ toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ một cách khách quan và toàn diện.
Đối với mỗi hồ sơ dân sự nếu bỏ qua, không đọc, không nghiên cứu có khi chỉ một tài liệu, có thể dẫn đến nhận định, đánh giá sai lầm, xét xử sai lầm. Đây cũng là một kinh nghiệm mà tác giả rút ra từ hoạt động thực tiễn.
Trên cơ sở tất cả các chứng cứ đã thu thập được, Tòa án phải tiến hành xem xét, phân tích, so sánh, phải tìm ra được các mối liên hệ, liên quan mật thiết giữa sự kiện, tình tiết này với sự kiện, tình tiết khác. Việc xác định được chính xác các mối liên quan giữa các tình tiết, sự kiện là điều kiện cần thiết đối với việc xác định sự thật khách quan của vụ việc mà Thẩm phán phải xử lý.
Đánh giá chứng cứ là quá trình nghiên cứu, xem xét, đối chiếu, so sánh giữa các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, xác định tài liệu nào chứa đựng các tình tiết, các sự kiện có thật phản ánh đúng bản chất của sự vật, của vụ án.
Chúng ta đều biết giá trị chứng minh của chứng cứ thể hiện ở chỗ dựa vào chứng cứ đó, Tòa án có thể xác định được có hay không có những tình tiết chứng minh cho yêu cầu của đương sự. Đối với những tình tiết, sự kiện không có giá trị chứng minh sẽ bị “loại” trong quá trình đánh giá chứng cứ.
Khi đánh giá chứng cứ trước hết phải xem xét, đánh giá riêng biệt từng tài liệu, chứng cứ để xem xét tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ đó; kết luận về độ chính xác, về giá trị chứng minh của tài liệu, chứng cứ đó.
Do đó, người Thẩm phán phải nắm được đặc điểm của từng loại chứng cứ, xác định đó là chứng cứ trực tiếp hay chứng cứ gián tiếp, chứng cứ gốc hay chứng cứ sao chép.v.v… Đồng thời phải xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ đó trong mối quan hệ tổng hợp của toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để xác định giá trị chứng minh của chứng cứ. Một tài liệu chỉ có giá trị cho việc xác định sự thật khi nó phù hợp với các tình tiết, diễn biến của vụ việc dân sự, phù hợp với thực tế khách quan. Qua các chứng cứ đó ta có thể xác định được chính xác sự kiện pháp lý nào mà đương sự đưa ra là có thật, yêu cầu nào mà đương sự đưa ra là yêu cầu chính đáng.v.v…
Đánh giá chứng cứ bắt đầu bằng việc xem xét đánh giá từng lời khai, tài liệu, vật chứng… cụ thể, sau đó mới xem xét , đối chiếu với tài liệu, chứng cứ khác. Trong những hồ sơ có nhiều tài liệu, nhiều lời khai mâu thuẫn, trái ngược, các kết luận giám định có nội dung khác nhau… có cảm giác hồ sơ như một “trận đồ bát quái”. Do đó, việc đánh giá chứng cứ sẽ vô cùng phức tạp, chỉ cần nghiêng về một số tài liệu, lời khai nào đó là có thể rút ra kết luận A, nhưng nếu nghiêng về một số lời khai, tài liệu khác thì có thể rút ra kết luận B. Trong những trường hợp các tài liệu, các lời khai mâu thuẫn nhau như thế việc xác định các tài liệu nào có nội dung chứa đựng sự thật của vụ án là không hề đơn giản. Các ý kiến trong quá trình đánh giá chứng cứ nhiều khi rất khác nhau, nên mới có câu ngạn ngữ “hai luật gia ba ý kiến”. Do đó, gặp những trường hợp này, khi nghiên cứu, đánh giá chứng cứ Thẩm phán không chỉ chú ý đơn thuần về nội dung của tài liệu mà còn phải xem xét về nguồn gốc, điều kiện, bối cảnh xuất hiên… của tài liệu, tài liệu đó do ai xuất trình, vì sao họ thay đổi lời khai, mối quan hệ của người khai với mỗi đương sự khác, nhân chứng khác…
Do đó, nếu là lời khai của đương sự không chỉ chú ý đánh giá về nội dung từng lời khai mà phải chú ý cả thời gian (lời khai trước, lời khai sau), diễn biến những thay đổi trong nội dung lời khai, cách lý giải của đương sự về sự thay đổi lời khai đó, so sánh giữa những nội dung trong lời khai của các đương sự, xem xét cả mối quan hệ (gia đình, bạn bè, họ hàng…) của các đương sự có chung một lợi ích. Đối với nhân chứng càng phải đánh giá xem xét mối quan hệ giữa họ với đương sự nhằm đánh giá tính khách quan trong lời khai của họ, ví dụ lời khai của cha, mẹ nguyên đơn lại phù hợp với lời khai của bị đơn, và lời khai này lại bất lợi cho nguyên đơn, trong khi cha, mẹ không mâu thuẫn với nguyên đơn thì nhiều khả năng lời khai của cha, mẹ nguyên đơn là đúng sự thật; đối với đương sự có sự thay đổi lời khai, kinh nghiệm cho thấy những lời khai đầu tiên của đương sự thường chứa nhiều sự thật, nhưng không phải trong mọi trường hợp đều đúng như thế. Do đó, về nguyên tắc không được phép khẳng định ngay mà vẫn phải có sự so sánh, đối chiếu với tài liệu, chứng cứ khác, xem lý do vì sao cha mẹ nguyên đơn lại khai khác với nguyên đơn? Vì sao đương sự lại thay đổi lời khai? Sự thay đổi lời khai có hợp lý không? Lý do thay đổi.v.v… Sau khi nghiên cứu toàn diện các tài liệu, chứng cứ thì việc đánh giá chứng cứ mới có khả năng tiếp cận sự thật. Để có thể đánh giá chứng cứ được chính xác, khi đánh giá chứng cứ rất cần tư duy khách quan, toàn diện và biện chứng để tìm ra mối liên hệ nội tại giữa các tình tiết, sự kiện từ đó sâu chuỗi các tình tiết, sự kiện lại mới có thể xác định đúng sự thật, đúng bản chất của vụ việc đang nghiên cứu giải quyết.
Đánh giá chứng cứ để tìm ra sự thật của vụ việc dân sự là một công việc khó khăn phức tạp, một loại hình lao động đặc thù của Thẩm phán, không chỉ đòi hỏi Thẩm phán phải lao tâm khổ tứ, không chỉ đòi hỏi phải có kiến thức xã hội, kiến thức pháp luật sâu sắc mà còn đòi hỏi một cái tâm trong sáng của người cầm cân nẩy mực. Đã là Thẩm phán phải lấy công bằng làm trọng, công lý là mục tiêu, là nơi để người dân gửi gắm niềm tin; với tâm nguyện phụng sự công lý là mục tiêu tối thượng, khi đó sẽ giúp Thẩm phán sáng suốt hơn trong đánh giá chứng cứ.
Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự kỳ 5
Bài 5: Kỹ năng đặc thù khi nghiên cứu hồ sơ một số loại vụ án dân sự (phần 1)
Nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất
Tranh chấp đất đai là một trong loại tranh chấp phức tạp, trong phần này tác giả chỉ phân tích một số kỹ năng về một quan hệ tranh chấp quyền sử dụng đất đó là xác định đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ai. Đối với loại tranh chấp này khi nghiên cứu phải kiểm tra xem đất đang có tranh chấp có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 100 Luật đất đai năm 2013 hay không? Và đất tranh chấp có nằm trong địa hạt của Tòa án thụ lý hay không? Nhằm xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
– Nếu việc kiện đòi đất có liên quan đến việc cho thuê trong những năm 1960 trở về trước ở Miền Bắc, và trước ngày giải phóng ở Miền Nam và đất đó là đất thành phố, thị xã thì khi nghiên cứu phải chú ý kiểm tra có thuộc diện bị cải tạo hay không? Nếu là đất thuê ở nông thôn, đất nông nghiệp thì phải nghiên cứu kỹ trong quá trình quản lý, sử dụng đối chiếu với quy định pháp luật đất đai, chính sách về đất đai để xem xét.
– Nếu bên bị kiện đã sử dụng đất này từ lâu thì khi nghiên cứu phải tìm hiểu họ sử dụng trong hoàn cảnh nào? đất đó có đưa vào tập đoàn, hợp tác xã không? Và khi giải thể thì đất được giao cho ai quản lý, sử dụng? các tài liệu, chứng cứ phản ánh về vấn đề này? Quá trình kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất ai là người kê khai? Hay cả hai bên đều kê khai? Nếu chỉ có một bên kê khai thì nghiên cứu hồ sơ phải làm rõ lý do bên kia không kê khai? Nếu một bên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì khi nghiên cứu kiểm tra xem hồ sơ cấp giấy đó có đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật không? Có phù hợp với quy định của Luật đất đai không? Ý kiến của Ủy ban nhân dân về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó.
Nghiên cứu các tài liệu về vị trí đất, diện tích đất, yêu cầu của nguyên đơn, điều này càng phải đặc biệt chú ý khi nghiên cứu nếu diện tích đất bị đơn đang quản lý, sử dụng lớn hơn rất nhiều so với diện tích đất ghi trong giấy chứng nhận, so với diện tích chuyển nhượng… và so với diện tích nguyên đơn kiện đòi (nghiên cứu tài liệu địa chính, bản đồ, trích lục địa bạ…). Nếu đất tranh chấp có liên quan đến các hợp đồng chuyển nhượng trước đây thì phải nghiên cứu cả các hợp đồng, thể hiện tứ cận, diện tích… nếu có các hộ mua trong những thời điểm khác nhau phải kiểm tra có sự chồng tréo diện tích, các tài liệu về đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ… nhằm giải quyết đúng đối tượng tranh chấp, xác định đúng ai có quyền sử dụng đất hợp pháp.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, Thẩm phán phải đặc biệt quan tâm nghiên cứu các tài liệu liên quan đến nhà đất tranh chấp đó và yêu cầu của các bên.
Nếu các bên tranh chấp về tính có hiệu lực của hợp đồng (một bên yêu cầu hủy hợp đồng, một bên yêu cầu công nhận hợp đồng) thì Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ hình thức hợp đồng, các điều khoản, các nội dung thỏa thuận trong hợp đồng? để xem hợp đồng có vô hiệu về hình thức hay có vô hiệu về nội dung không? Nếu vô hiệu về nội dung, thì vô hiệu một phần hay toàn bộ hợp đồng. Nghiên cứu, kiểm tra về nội dung, về quan hệ pháp luật là nghiên cứu tài liệu xác định bên bán nhà có quyền sở hữu nhà đất không? Nếu người đứng ra bán nhà không phải là sở hữu chủ thì bên đứng ra bán nhà có được ủy quyền hợp pháp không? Nội dung, phạm vi ủy quyền, thời điểm xác lập hợp đồng , thỏa thuận đó có tự nguyện không? Nội dung thỏa thuận trong hợp đồng có giả cách, giả tạo không? Quyền và nghĩa vụ các bên? Đối tượng mua bán đã được xác định rõ ràng trong hợp đồng chưa? Hợp đồng mua bán nhà có thỏa thuận về điều kiện, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không? Có thuộc loại hợp đồng có điều kiện và điều kiện đó đã diễn ra chưa? Phải nghiên cứu kỹ các điều khoản mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng, tìm hiểu kỹ quyền, nghĩa vụ của mỗi bên. Các bên thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng như thế nào? có ai vi phạm, mức độ vi phạm, lỗi? mức độ lỗi của mỗi bên? Bên nhận chuyển nhượng có tu sửa gì không? Giá trị phần tu sửa, giá trị nhà đất còn lại? có thiệt hại gì phát sinh nếu hợp đồng vô hiệu? và phải giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo hướng nào?
Nếu có việc sau khi mua bán bên nhận chuyển nhượng đã chuyển nhượng một phần cho người khác thì phải nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc chuyển nhượng này, phải nghiên cứu yêu cầu của bên chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng tiếp theo này để việc giải quyết vụ án được toàn diện.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh chấp thừa kế
– Nghiên cứu hồ sơ vụ án thừa kế cần kiểm tra, xem xét kỹ các tài liệu thể hiện thời điểm mở thừa kế (ngày, tháng, năm người để lại di sản chết).
– Di sản thừa kế gồm tài sản gì? Ai đang quản lý, sử dụng? thực trạng của từng loại tài sản? nghĩa vụ của người để lại di sản? công sức duy trì, bảo quản di sản? nếu một bên có sửa chữa, cơi nới thì giá trị phần sửa chữa, cơi nới, làm thêm là bao nhiêu? Nếu có việc bên quản lý, sử dụng di sản đã bán một phần di sản mà các thừa kế vẫn yêu cầu hủy hợp đồng, yêu cầu chia phần di sản đã bán này thì phải nghiên cứu các tài liệu thể hiện việc mua bán, đối tượng mua bán, giá trị phần đã bán.v.v… yêu cầu của những người tham gia trong quan hệ mua bán đó. Sau khi mua bán có các diễn biến gì khác không, ví dụ bên mua đã xây nhà…
Nếu xuất hiện tình huống người quản lý di sản khai hoang, mua thêm diện tích nhà đất, trừ diện tích đất phần trăm trong phần đất thừa kế… thì phải nghiên cứu để biết rõ diện tích khai hoang, mua thêm hoặc diện tích đất thừa kế được tính vào đất phần trăm là bao nhiêu? Các tài liệu, chứng cứ gì thể hiện vấn đề này. Nếu nghiên cứu hồ sơ thấy các vấn đề trên chưa rõ phải có hướng thu thập thêm tài liệu, chứng cứ.
– Quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án thừa kế phải biết được những ai trong diện thừa kế theo pháp luật, có ai bị truất quyền thừa kế, từ chối hưởng thừa kế, thừa kế thế vị.v.v…
Yêu cầu của các thừa kế? ai yêu cầu hưởng bằng hiện vật, ai yêu cầu hưởng giá trị và yêu cầu cụ thể bao nhiêu? Hoàn cảnh mỗi bên thế nào? hiện vật đó có chia được không? Chia được cho những ai? Ai có yêu cầu cấp bách, cần phải chú ý khi chia hiện vật cho họ. Các sơ đồ, tài liệu đã đầy đủ thông tin để có thể dự kiến phương án chia hiện vật không? Hay cần phải xuống xem xét tại chỗ.
Nghiên cứu các biên bản định giá, thẩm định giá để nắm vững số lượng, giá trị di sản. Đối với di sản là quyền sử dụng đất nông nghiệp, trồng cây lâu năm, nuôi trồng thủy sản thì khi nghiên cứu khối tài sản đó phải trả lời được câu hỏi quyền sử dụng đất đó có còn là di sản hay do diễn biến trong quá trình người thừa kế quản lý, sử dụng và quy định của pháp luật thì phần tài sản đó của người chết không còn là di sản.
Nếu vụ án tranh chấp di sản thừa kế theo di chúc, khi nghiên cứu làm rõ các đồng thừa kế có thừa nhận di chúc không? Nếu có thừa kế không công nhận di chúc thì phải tìm hiểu kỹ nội dung, hình thức di chúc có đúng quy định pháp luật ở thời điểm lập di chúc hay không? Bộ luật dân sự năm 2015, hình thức của di chúc được quy định tại các Điều 627, 628, 629, 633, 634, 639 Bộ luật dân sự năm 2015) để từ đó xác định tính hợp pháp của di chúc? Hợp pháp một phần hay toàn bộ? có người thừa kế bắt buộc không? Di chúc có để cho người thừa kế bắt buộc phần di sản nào không và nếu có để lại cho họ một phần di sản thì đã phù hợp với quy định tại Điều 644 Bộ luật dân sự năm 2015 chưa?
Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự kỳ 6
Bài 5: Kỹ năng đặc thù khi nghiên cứu hồ sơ một số loại vụ án dân sự (phần 2)
Trong số báo trước chúng tôi đã đề cập kỹ năng nghiên cứu một số loại vụ án dân sự như tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, tranh chấp thừa kế. Trong số báo này chúng tôi tiếp tục đề cập kỹ năng nghiên cú hồ sơ vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, án ly hôn.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng so với các loại tranh chấp khác tỷ lệ vụ việc phải thụ lý, giải quyết tại các Tòa án không nhiều, phần lớn là yêu cầu bồi thường về tính mạng, sức khỏe, tài sản, một số ít vụ yêu cầu bồi thường về danh dự.v.v… Loại việc này có những nét đặc thù cần phải chú ý trong quá trình nghiên cứu đó là: trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ xuất hiện khi sự việc đó thỏa mãn cả bốn yếu tố là: có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật, có thiệt hại xảy ra, người gây thiệt hại có lỗi, có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật. Do đó, khi nghiên cứu hồ sơ Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ các tài liệu nhằm nắm bắt các tình tiết, các sự kiện và phải trả lời được câu hỏi có hành vi trái pháp luật xảy ra hay không? Tùy theo vụ việc cụ thể đối chiếu với hành vi đã diễn ra với quy định của pháp luật để xác định. Ví dụ có hành vi lái xe máy va vào một người đi đường, làm người này bị thương, phải nghiên cứu người lái xe máy có đi đúng phần đường của mình không? Tốc độ có vượt quá quy định không? Có thuộc trường hợp phải nhường đường cho người đi bộ không?… đối với người đi bộ bị xe máy va quệt cũng phải xem xét hành vi của họ với quy định của luật giao thông, để xác định hành vi của họ có trái pháp luật không? Nếu hành vi của người đi bộ vi phạm luật giao thông là nguyên nhân gây ra va chạm, còn người điều khiển xe máy chấp hành đúng luật giao thông thì họ không bị coi là có lỗi, hành vi của họ không bị coi là trái pháp luật.
Các tìm kiếm liên quan đến kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự của thẩm phán, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ của thẩm phán, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự (kỳ 4), ý nghĩa của việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự kỳ 5, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự kỳ 3, cách sắp xếp hồ sơ vụ án dân sự, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ việc đất đai, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự
Để lại một phản hồi